Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 66
Tổng truy cập: 1364671
MUỐN HẠNH PHÚC TUÂN GIỮ LỜI
MUỐN HẠNH PHÚC TUÂN GIỮ LỜI
1. "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,14), đó là câu hát của Thiên Thần mừng ngày Chúa xuống trần. Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, khi Đức Giêsu sắp trở về với Chúa Cha, Người cũng nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy" (Ga 14,27). Qủa thực, Đức Giêsu đến để mãi mãi đem bình an cho loài người, nhất là những kẻ tin vào Người. Nhưng bình an của Chúa ban là gì? Làm sao chúng ta có được bình an đó?
2. Thật ra, người Do Thái khi gặp hay từ giã nhau thường chào "Shalom" (bình an). Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng hay có thói quen chúc nhau như thế. Nhưng ở đây, lời Đức Giêsu nói với các môn đệ không chỉ là một lời chúc hay là một lời từ giã thông thường, mà còn là một sự trao ban bình an thật sự: " Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không không theo kiểu thế gian". Bình an, đó là món quà vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua Đức Kitô, nhờ Thánh Thần của Người. Bình an nầy được trao ban từ Thiên Chúa Ba Ngôi.
3. Một cách thông thường, khi nói về bình an, ta thường nghĩ đó là những điều kiện cần thiết cho cuộc sống hạnh phúc, nó có thể mang tính vật chất (nhiều tiền bạc, tiện nghi, sung túc...) hay một sự an toàn về thể lý (không có chiến tranh, chết chóc...) cũng như tâm lý (yên ổn về tinh thần...). Nhưng thứ bình an này sẽ chóng qua và con người khó mà đạt tới một sự thoả mãn thật sự vì ngay khi đi tìm bình an thì trong đó đã có sự cạnh tranh rồi, như ta vẫn nghe nói: "Muốn có hoà bình hãy chuẩn bị chiến tranh", tức phải lo phòng thủ kẻo đối phương tấn công. Hơn thế nữa vì tham vọng không giới hạn của con người làm khổ cho chính mình, người giàu thì muốn giàu thêm, đã tiện nghi thì càng muốn hơn nữa...!
Trong khi đó, sự bình an của Chúa vượt trên thứ bình an thông thường, bởi nó không hệ tại ở bình diện vật chất, thể lý hay bình diện tâm lý, mà hệ tại ởviệc nhận ra chân lý, nhận ra sự thật và sống theo chân lý, sự thật đó. Theo thánh Gioan, sự Thật là gì, thưa đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu (x.Ga 14,6) và những gì xuất phát từ Ngài (x.Ga 3,21; 4,24; 8,40...). Khi chúng ta tin nhận sự hiện diện của ThiênChúa trong cuộc đời mình, khi chúng ta luôn sống trong sự gắn bó với Chúa và thực thi thánh ý của Ngài, thì lòng chúng ta chẳng còn xao xuyến, chẳng còn lo toan dù trước những thăng trầm của cuộc sống. Cho dù không dư dả gì, cho dù cái chết có kề cận... bởi vì hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
4. Các môn đệ khi đã nhận được bình an của Đức Kitô Phục Sinh ban qua Thánh Thần của Người đã mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng, rao giảng sự thật, bất chấp mọi khó khăn, chống đối, tù đày. Phải chăng các ngài đã có sự bình an trong Chúa? Giữ vững truyền thống các môn đệ xưa, các thế hệ Kitô hữu nối tiếp nhau, nhờ hồng ân bình an của Chúa, không ngừng loan báo Tin Mừng, dấn thân phục vụ tha nhân cho dù thuận lợi hay không?
Câu chuyện có thật sau đây mà tôi đọc được trong một bài chia sẻ, xin ghi lại để chúng ta cùng suy nghĩ thế nào là bình an thật do Chúa ban: Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi cha Vania thi hành nghĩa vụ linh mục, ngài đã gục ngã dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách..."
Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu là một trong những biểu hiện rất rõ nét cho sự hiện diện và bình an của Chúa.
5. Nhưng làm thế nào để có được bình an đích thực nầy? Bí quyết này Đức Giêsu cũng chỉ rõ cho chúng ta ngay từ đầu bài Tin Mừng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy ". Vậy, cách cụ thể hơn, muốn được bình an của Thiên Chúa, thì hãy sống theo lương tâm ngay lành. Hãy vâng nghe lời Chúa dạy qua Kinh thánh. Hãy tuân phục ý Chúa thể hiện qua những biến cố Chúa gởi đến trong đời ta. Cũng đừng quên nghe tiếng Chúa nói qua sự hướng dẫn của Giáo Hội, qua lời góp ý chân tình của anh chị em mình...
6. Ước vì nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và trung thành giữ lời Ngài, mà mỗi người chúng ta có được bình an sâu thẳm trong tâm hồn, dù đời sống Kitô hữu có thể gặp nhiều hy sinh, gian nan, thử thách. Hãy nghĩ xem, trong khi thế gian dám đánh đổi bao công sức, tiền bạc cho hạnh phúc, bình an chóng qua; thì người Kitô hữu càng có lý do hơn để hy sinh cho hạnh phúc, bình an đích thực, bền vững nơi Thiên Chúa cho chính mình và cho tha nhân.
69.Lo âu
Nếu có một người nào đó hỏi chúng ta: “Ông bà, anh chị có yêu mến Chúa không?”. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng trả lời được ngay. Không những trả lời được mà còn cho người đó hỏi một câu dư thừa, vớ vẩn. Nhưng nếu người đó hỏi thêm một câu nữa: “Làm sao ông bà, anh chị biết được mình yêu mến Chúa, hay dựa vào bằng chứng nào để tôi biết được ông bà, anh chị yêu mến Chúa?”. Câu hỏi này anh chị em trả lời được không? Dĩ nhiên là được. Nhưng có lẽ sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời thay cho chúng ta, Chúa đã chỉ dạy cho chúng ta một dấu hiệu, một bằng chứng, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa hay không?: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ định nghĩa thế nào là người yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu hay bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Và đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu xem: Chúa bảo chúng ta tuân giữ lời Chúa, vậy lời Chúa ở đâu? Và chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa thế nào?
Lời Chúa ở đâu? Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói: Lời Chúa chứa đựng trong sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói: Lời Chúa còn chứa đựng trong thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong phụng vụ, tức là những gì Giáo Hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và Lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo Hội, tức là những giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các giám mục. Tóm lại, Kinh Thánh, thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo Hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến Lời Chúa, chúng ta thường hiểu là Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng.
Tại sao chúng ta phải giữ lời Chúa và giữ lời Chúa thế nào? Chúng ta giữ lời Chúa để chứng tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa. Yêu mến ai, chúng ta muốn ở gần người đó, tâm sự trò chuyện quan hệ mật thiết với người đó, thì chúng ta đối với Chúa cũng vậy, và còn hơn thế nữa, là để chúng ta nên giống Chúa. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần bạn hiền sẽ nên hiền. Và tục ngữ Tây phương cũng nói: “Anh nói cho tôi biết, anh đọc sách gì, anh bầu bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”. Chúng ta cần tâm sự với Chúa Giêsu, chúng ta muốn nên giống Chúa, nay Chúa đã khuất mặt, thì chỉ còn một cách là đọc lời Ngài, suy gẫm cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ học được những ý tưởng, những tâm tình của Ngài. Vì thế, ai muốn quan hệ mật thiết với Chúa, muốn nên giống Chúa, chỉ còn một cách là luôn luôn đọc lại bộ Tân ước, nhất là Tin Mừng, để thấy rõ chân tướng của Chúa Kitô mà học hỏi bắt chước.
Cũng thế, người ta thường nói: “Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài miệng”. Do đó, muốn suy nghĩ, nói năng, hành động, phản ứng như Chúa, thì điều quan trọng là phải có đầy Chúa trong tâm hồn, phải thấm nhiễm tinh thần của Chúa, phải in sâu hình ảnh dịu hiền của Chúa, những gương sáng Chúa đã thực hiện, lời Chúa dạy dỗ, giáo huấn vào đầu óc của mình. Để được như vậy, chỉ có cách duy nhất là hằng ngày chăm chỉ đọc Lời Chúa trong Kinh Thánh và suy niệm. Nhờ đó Lời Chúa dần dần chi phối đời sống chúng ta và trở thành nguyên tắc hướng dẫn mọi hành vi, cử chỉ của chúng ta và biến đổi chúng ta nên giống Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta đọc và suy niệm lời Chúa là rất tốt rồi, nhưng điều quan trọng hơn nữa, là chúng ta phải áp dụng, phải thực hành lời Chúa, vì đây là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là kẻ phản bội lời Chúa nếu chúng ta tránh né, coi thường hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không tuân giữ lời Chúa, thì có khác gì đứa con gọi dạ bảo vâng, nhưng không chịu làm theo lời cha mẹ dạy. Đó là thứ tình yêu giả hình và là thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi. Tình yêu phải được thử thách, phải được chứng nghiệm bằng việc làm… Vì thế, yêu Chúa thì phải thực hành lời Chúa. Thực hành lời Chúa dù ở nhà thờ hay ở nhà mình, nơi làm việc hay ngoài đường phố, chợ búa. Nếu như mọi người đều nhiệt tình áp dụng và thực hành lời Chúa thì nhân loại này yêu thương nhau biết mấy. Nhưng đáng tiếc, lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau”, chúng ta chưa thực hành đến nơi đến chốn.
Yêu mến Chúa là giữ lời Chúa truyền dạy. Giữ ở đây không hiểu theo nghĩa thụ động, nghĩa là đem chôn giấu lời Chúa, nhưng phải hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là có sáng kiến đem lời Chúa ra thực hành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nhưng lời Chúa là lời nào? Tất cả lời của Chúa gồm tóm rất gọn trong một tiếng này, đó là “yêu”. Yêu Chúa với tình yêu của một người con hiếu thảo và yêu đồng loại với tình yêu như Chúa đã yêu chúng ta.
Đàng khác, sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu. Lo âu về tương lai, về gia đình, về con cái, về tiền bạc, về công việc làm ăn, về sức khỏe… Lời Chúa hôm nay an ủi và khích lệ chúng ta đừng xao xuyến và sợ hãi. Chúng ta hãy dâng lên Chúa mọi lao công vất vả, mọi lo lắng buồn phiền. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời mình cho Chúa và xin Chúa ban sự bình an. Bởi vì có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
70.Bình an
Trên những chuyến xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”, người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Những vấn đề vừa nêu trên cho thấy bình an luôn luôn là nhu cầu thiết yếu của con người dù không nói ra. Có nhu cầu bình an tất nhiên cũng cần phải kiếm nơi cung cấp nhu cầu bình an.
Vấn đề được đặt ra là những ai đứng ra cung cấp nhu cầu bình an, cung cấp như thế nào và liệu có thực sự đem lại bình an cho thân chủ hay không?
Nếu chỉ dựa trên qui luật “cung cầu”, bất cứ ai cũng có thể có được bình an miễn là có tiền, chỉ cần bỏ tiền ra thuê một vài vệ sĩ ở các “công ty dịch vụ vệ sĩ” là có thể có bình an. Bình an theo cách này chẳng khác nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng “bình an thế gian ban tặng”. Bình an dựa trên qui luật cung – cầu có thực sự bình an không?
Trong tháng 1- 2001 tổng thống Kabila của cộng hòa dân chủ Công-gô, dù được bảo vệ, canh phòng rất cẩn thận, nhưng ông vẫn bị ám sát; người ám sát ông không phải ai xa lạ hay tổ chức chính trị đối lập, mà chính cận vệ thân tín của ông, người có nhiệm vụ bảo vệ ông và luôn sát cánh bên ông.
Điều này càng cho thấy sự bình an dựa trên qui luật cung cầu, quy luật mua bán trao đổi hay nói theo lời của Đức Giêsu “bình an thế gian ban tặng” xem ra chẳng có gì bảo đảm, nói không sai là rất mong manh. Rốt cuộc bình an luôn là ước mơ, nhu cầu sống còn của con người.
Vẫn biết bình an là nhu cầu sống còn của con người, nhưng cách thức ban bình an của Đức Giêsu trái ngược hoàn toàn với cách thức của con người, bình an trong những tình huống bất an.
Trong khi người đời cần phải có phương tiện bên ngoài, tỷ như có vệ sĩ bảo vệ… mới được bình an. Đức Giêsu hứa ban một thứ bình an như lời Ngài khẳng định “… không như thế gian ban”. Bình an Đức Giêsu không có gì bảo đảm bên ngoài mà chỉ dựa vào lời hứa của Đức Giêsu “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi”. Đây mới là sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”.
Thật vậy, bài Tin Mừng cho thấy một bối cảnh thật xúc động, Thầy Giêsu chuẩn bị chia tay với các môn đệ. Trước đó các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại mỗi lần Đức Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, còn cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Khi Đức Giêsu hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ cũng tan biến và ngược lại.
Như thế, nguyên nhân khiến các ông sợ hãi là không thấy sự hiện diện bằng thể lý của Đức Giêsu. Chính trong lúc không còn gì để bám víu, để lệ thuộc, mà chỉ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, lúc đó các ông mới cảm nhận sự bình an Đức Giêsu ban cho. Nói như Phaolô “Bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu”. Bình an Đức Giêsu ban bất chấp sự đe dọa bên ngoài. Bình an Đức Giêsu ban không có gì khoa trương bên ngoài rất âm thầm, sâu lắng nhưng rất mãnh liệt… làm cho chúng ta bình an thật sự dù có bị tối tăm vây quanh, dù có bị sóng gió cuộc đời quật ngã ta vẫn không bị tiêu diệt… cũng chính Phaolô đã nói lên kinh nghiệm xương máu của ông trong các cuộc hành trình truyền giáo “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không tiêu diệt”. Đơn giản vì Phaolô luôn mang trong mình lời hứa bình an của Đức Giêsu. Bình an Đức Giêsu hứa ban không chỉ dành riêng cho các môn đệ mà còn cho tất cả những người tin vào Đức Giêsu – các Kitô hữu. Vậy làm thế nào để có được sự bình an này?
Đứng trước những thách đố, sóng gió trong đời sống gia đình, tỷ như thiếu gạo, tiền đóng học cho con, tiền điện nước… ta chỉ ngồi đó than thân trách phận, “đóng cửa” lại như các môn đệ để tìm bình an sao? Đó không phải là bình an của Đức Giêsu, bình an của Đức Giêsu là “bung ra”, làm ăn chân chính, làm hết sức mình để lo cho gia đình dù kết quả không như mong muốn, ta vẫn thấy sự bình an của Đức Giêsu hiện diện. Sự bình an của Đức Giêsu được thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui trong gia đình, đôi khi ta không nhận ra.
Hoặc là đứng trước những chọn lựa sống, sống không ngay thẳng trong làm ăn buôn bán làm ta giàu hơn, còn sống trung thực đôi khi lại làm ta mất đi những món lợi lớn. Bình an của Đức Giêsu ở đây chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật. Thiết tưởng thước đo để xét xem ta có sự bình an của Đức Giêsu hay không đã nằm sẵn trong bài Tin Mừng “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.
Một vị ẩn sĩ già có hai môn sinh, ông hướng dẫn họ sống lời Chúa, sau một thời gian người thứ nhất cảm thấy vui tươi hạnh phúc, đường tu trì có nhiều tiến bộ, còn người thứ hai luôn buồn bực và nhăn nhó. Khi được hỏi lý do, người thứ nhất trả lời: “Con giữ lời Chúa dạy vì con yêu mến Chúa” và sự bình an của Đức Giêsu ở trong anh. Còn người thứ hai cho biết: “Con giữ lời Chúa dạy vì thầy dạy phải giữ như vậy”, thật ra anh không có lòng yêu mến. Sau một thời gian ngắn người thứ hai bỏ vị ẩn sĩ già để ra đi, vì anh không có được sự bình an trong đường tu trì.
Lời hứa ban bình an của Đức Giêsu là lời bảo đảm chắc chắn nhất cho những ai tin tưởng vào Ngài. Xin cho sự bình an của Đức Giêsu luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta.
71.Bình an
Trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nãy giờ ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất của triều đình.
Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi”. Những lời này Ngài nói giữa bữa tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều qaun trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Đó chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được.
72.Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đấng Phù Trợ là Thánh Thần…, sẽ nhắc nhở cho các con
Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Chúa chúng ta chuẩn bị về Trời (Lễ Thăng Thiên). Phụng vụ Lời Chúa gợi lên cho chúng ta nhớ lại những lời tâm sự cuối cùng của Chúa và mời gọi chúng ta không được "xuyến xao và sợ hãi" (Năm C). Nhưng, bằng lời cầu nguyện hãy phó thác cho Chúa Giêsu và nhờ Ngài mang về Trời dâng lên Đức Chúa Cha cho chúng ta. Những lời trăng trối của Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta để ý đến cách đồng truyền giáo: "Lúa chín đầy đồng", vì là lệnh truyền của Chúa Nhân Lành, nên cần phải được tôn trọng. Truyền thống phụng vụ này, được thánh Mamert đưa vào từ năm 470 tại thung lũng Rhône, và mở rộng tới tận Gaule, đúng thời điểm diễn ra Công Đồng đầu tiên tại Orléans. Theo Truyền thống, trong khoảng thời gian Chúa về Trời, các tín hữu công giáo sẽ tuân giữ việc giữ chay, (nghĩa là từ thứ Hái, Ba, Tư tuần này) họ sẽ ăn chay để chuẩn bị cử hành Lễ Chúa về Trời. Ở nông thôn, các linh mục sẽ chúc phúc cho ruộng đồng và hoa màu. Lời Ca nhập lễ: Hãy vui mừng loan báo cho mọi người được nghe. Rao truyền đi đến tận cùng cõi đất rằng: Chúa đã giải phóng dân Người. Hallêluia.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
- Tđcv 8, 5-17: Rao giảng Tin Mừng cho dân thành Samaria
- Tv 66, 1: Toàn trái đất, hãy reo mừng Thiên Chúa
- 1 Pr 3, 15-18: Anh em hãy là những chứng nhân về niềm hy vọng của chúng ta ở giữa thế gian
- Ga 14, 15-21: Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi
* Bài đọc Phụng vụ năm B
- Tđcv 10, 25-26; 34-35; 44-48: Những người dân ngoại đầu tiên chịu Phép rửa tội
- Tv 98, 1: Chúa đã biểu dương Quyền Năng của Ngài trươc mặt chư dân
- 1 Ga 4, 7-10: Tất cả những ai yêu thương đều là con cái Thiên Chúa
- Ga 15, 9-17: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em
* Bài đọc Phụng vụ năm C
- Tđcv 15,1-2; 22-29: Giáo hội quyết định đón nhận dân ngoại
- Tv 67, 2: Thân lạy Chúa, ước gì chư dân ca tụng Ngài Dieu!
- Kh 21, 10-14; 22-23: Con Chiên là ánh sáng cho dân Chúa
- Ga 14, 23-29: Lời hứa sai Chúa Thánh Thần đến
"Đấng Phù Trợ là Thánh Thần..., sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con"
Chúa Giêsu Kitô, Đấng "phó thác Thần khí" trên cây thập giá (Ga 19, 30) đã thực hiện như lời Ngài đã hứa trước khi chịu khổ nạn. Vì Ngài là là Chiên Thiên Chúa và là Con của loài người, đã hiện đến với các môn đệ "thổi hơi” trên họ và nói với họ: "Hãy chịu lấy Thánh Thần. (Ga 20, 22 )... thế là Chúa Thánh Thần đến làm cho họ tràn ngập niềm vui, làm cho họ đang buồn sầu trở nên vui, đúng như lời Ngài nói là biến những "sự ưu phiền của các ngươi sẽ trở thành niềm vui. " (x. Ga 16:20).
Và nhất là khi loan báo diễn từ li biệt sắp xảy đến: Chúa Kitô phục sinh như khai mở một cuộc sáng tạo mới, gửi Chúa Thánh Thần đến trên các môn đệ. Khi hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại. Qua các vết thương chịu đóng đinh, Chúa Giêsu đã trao ban cho họ Thần Khí: " Ngài cho họ thấy tay chân và cạnh sườn Ngài. Các môn đồ mừng rỡ, vì được thấy Chúa. (Ga 20:20). Đó là chứng tích của những vết thương, Ngài nói với họ: "Hãy chịu lấy Thánh Thần. (c. 22).
Vì thế, có một liên kết chặt chẽ được thiết lập giữa việc sai Chúa Con và cử Chúa Thánh Thần đến. Việc cử Chúa Thánh Thần (sau nguyên tội) không thể xảy ra mà không có thập giá và sự sống lại, đúng như lời Ngài nói: "Song Ta nói thật với các ngươi: Ta ra đi, thì ích lợi hơn cho các ngươi; vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bào Chữa không đến với các ngươi. Còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. “ (Ga 16, 7). Sứ mạng của Chúa Con trong một nghĩa nào đó, được thực hiện trọn vẹn trong sự cứu chuộc và sứ mạng của Chúa Thánh Thần phát xuất từ công trình cứu chuộc: "Vì thế mà Ta đã nói: Ngài lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi". (Ga 16,15). Ơn cứu chuộc được thực hiện hoàn toàn do Chúa Con là Đấng được xức dầu đã đến trong thế gian và hoạt động bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, khi dâng mình chính thân mình làm của lễ hy sinh trên thập giá. Và sự cứu chuộc không ngừng được hoàn tất trong trái tim và trong lòng nhân loại - trong lịch sử của thế giới – nhờ Chúa Thánh Thần là "Đấng Bầu Chữa khác" (Ga 14,16).
Năm nay kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II, năm mà Giáo hội nhấn mạnh đến truyền giáo. Tưởng chúng ta cũng nhớ lại Công Đồng Giêrusalem, một Công đồng quyết định cho việc truyền giáo mà sách Tông Đồ Công Vụ kể lại biến cố được gọi là "Công Đồng Giêrusalem". Tại Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem; nơi Công Đồng đầu tiên, công đồng mở cửa cho những anh chị em ngoài do thái giáo ( TĐCV 15, 11- 29). Cuộc họp đầu tiên đó của các Tông Đồ và những vị Trưởng Lão đã được triệu tập để giải quyết một vấn đề quan trọng. Đối với các tín hữu thuộc nhóm Pharisêu xác tín rằng những người ngoài do thái giáo trở lại kitô giáo, phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môisen, thì hai thánh Phaolô và Barnaba mạnh mẽ bênh vực lập trường rằng ơn cứu rỗi không đến từ những việc của Lề Luật, nhưng từ đức tin vào Chúa Kitô.
Nhờ những can thiệp được linh ứng của Thánh Phêrô và Thánh Giacôbê, lập trường của Thánh Phaolô và thánh Barnaba, được chấp nhận; và kể từ ngày đó, Giáo Hội "ra khơi", sẵn sàng đem Tin Mừng đến cho tất cả mọi dân tộc và mọi nền văn hóa. Sức hoạt động tông đồ do Chúa Thánh Thần soi sáng vào khởi đầu, đã không bị tàn lụn và được tiếp tục cho đến hôm nay. Ước muốn duy nhất và bổn phận của các tín hữu là ước muốn rao giảng cho tất cả mọi người biết Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc của con người.
Bước vào tháng Năm là quãng thời gian Giáo hội dành để kính Đức Trinh Nữ Maria, Bông Hoa xinh đẹp nhất trong các thụ tạo, là cánh hồng xuất hiện vào thời sung mãn, khi mà Thiên Chúa sai Con của Ngài đến trần gian thì đã ban cho nó một mùa xuân mới. Mẹ là nhân vật chính yếu, âm thần và khiêm tốn. Mẹ là trái tim thiêng liêng của Giáo hội, bởi vì sự hiện diện của Mẹ ở giữa các môn đệ là ký ức sống động của Chúa Giêsu và bảo chứng cho hồng ân của Thánh Linh. Chúng ta hãy đem hết tình con thảo mà dâng kính Mẹ, xin Mẹ đoái thương đồng hành cùng con cái nơi dương thế. Amen.
73.Suy Niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi: Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc tới cả 3 ngôi Thiên Chúa: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ.... Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến... Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Như thế, giáo lý cơ bản về Ba Ngôi là:
- Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người
- Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền
- Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.
Thái độ con người phải có đối với Ba Ngôi:
- Yêu mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy.
- Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó
- Kết quả: Ba Ngôi sẽ “yêu mến”, “tỏ mình ra” và “ở trong” người ấy.
B.... nẩy mầm.
1. Làm kitô hữu là được gia nhập gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi Ngôi Thiên Chúa đều tận tình yêu thương và chăm sóc chúng ta. Đó là một vinh dự và một hạnh phúc to lớn. Cám ơn Chúa.
2. Thái độ đối xử đúng nhất của kitô hữu với Ba Ngôi Thiên Chúa là “nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ”, vì như thế ta tỏ ra mình yêu mến Thiên Chúa, ta được Ngài yêu mến, tỏ mình ra và ở trong ta.
3. Hai cha con thỏa thuận: ông sẽ mua cho cậu một xe hơi nếu cậu cạo râu, cắt mái tóc dài và đọc Thánh Kinh mỗi ngày. Xe mua về, cậu đọc sách nhưng không cắt tóc và cạo râu.
Khi ông đe dọa, cậu nói: “Con đang đọc về Chúa Giêsu, Ngài để tóc dài và râu”.
Ông bố nói: “Đúng, Ngài đã để râu và tóc, nhưng Ngài còn luôn thi hành ý Cha”. (Góp nhặt)
4. Trong cuốn sách The Living Stone có một câu chuyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị Thầy này sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ “Hãy hành động vì lòng yêu mến”.
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản “Ai nghe và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Chúa Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính... Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người yêu, chứ không dừng lại ở những rung động của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (“Mỗi ngày một tin vui”)
5. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Mỗi lần, bạn ấy xin ba mẹ đi chơi, chúng tôi đều cười nhạo: “Lớn rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thành rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm tùy ý”. Bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng thật hợp lý hợp tình: “Hẳn ba má không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi rất vui khi tôi xin phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi”.
Hẳn Chúa cũng rất vui khi tôi quan tâm lắng nghe và tuân giữ Lời Ngài, để Ngài có thể đưa tôi vào sự hiệp thông tình yêu của ba ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến và thực hành lời Chúa để luôn được hiệp thông với Người. (Epphata)
6. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (Ga 14,23)
Hôm chúng tôi chia tay, tôi đã khóc rất nhiều. Qua màn nước mắt, tôi thấy anh cũng vội lau những giọt lệ mà anh gọi là bụi khói. Anh vẫn cương quyết và bản lĩnh như ngày nào.
Anh nói: “Không phải Ba Mẹ không chấp nhận em, không phải anh không còn yêu em; anh sẽ đợi, nếu...
“Nhưng điều kiện của anh khó quá. Tôi ngắt lời.
“Không!” Anh nghiêm giọng, “tại vì em không muốn hy sinh thôi...”
Vâng, tôi đã không muốn hy sinh, hy sinh tự do, sở thích, thú vui phù phiếm của tôi. Vâng, tôi đã không yêu anh như tôi tưởng!
Lạy Chúa, tình yêu đòi hỏi những biểu hiện đích thực của sự hy sinh, đôi khi chỉ cần giữ lời... Chúa ơi, xin giúp con yêu Ngài, yêu tha nhân, để được phục sinh trong tình yêu của Thiên Chúa. (Hosanna)
7. “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27)
Cho tôi xin hai chữ “bình an”.
Với tôi và đa số người trẻ, bình an là: không bị ai làm phiền, muốn đi đâu và làm gì tuỳ ý, có tiền tiêu xài thỏa thích... Nhưng đó có phải là bình an đích thực không?
Bình an mà Đức Giêsu đem lại là bình an trong tâm hồn. Bình an đó chỉ có được khi tôi chiến thắng được kẻ thù khủng khiếp nhất là ích kỷ và phóng túng để vươn tới thiên đàng của công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, con muốn được tự do và bình an của Chúa (Hosanna)
74.Chìa khóa đổi đời- Lm. Ân Sử
Trong một Khóa Thánh Linh, một bà VN trên 60 tuổi, ở Garden Grove, Cali, đã kể lại cho Linh mục hướng dẫn Khóa: “Sáng nay, con nghe lời cha tối qua, con dậy thật sớm, rồi quì gối dang tay để mở lòng con ra bằng: tha thiết thống hối, tha thứ cho “kẻ thù”, tin Chúa thương con, nhìn nhận Chúa là Chúa của con, và con tha thiết nài xin Đức Mẹ bầu cử (3 lần kinh Hãy Nhớ rất chậm và tin tưởng), cuối cùng như cha bảo, con dang tay tha thiết nài xin Đức Chúa Thánh Thần:
“Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng: (1) Chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, (2) và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con” chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống (3) sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con”.
“Con tha thiết hết sức đọc kinh Chúa thánh Thần, như cha bảo. Lần thứ Nhất 10 lần, rồi lần thứ Hai 10 lần, và lần thứ Ba cũng 10 lần nữa... Thế mà cha ôi, con tha thiết cầu xin cả 30 lần rồi, mà “nòng (lòng) con nó cứ tơ tơ (trơ trơ)”!!! Sau đó, con nhớ cha bảo đừng có nản, nên con lại quyết tâm, lần này, con sẽ tha thiết hết lòng cầu nguyện như thế, không phải 10 lần, 10 lần, 10 lần, nhưng là 50 lần nữa!
“Lần quyết tâm 50 này, con vừa đọc đến lần thứ Ba, thì Chúa Thánh Thần đã xuống tràn đầy linh hồn con: Toàn thể con người con run lên, trái tim con đập mạnh, làm nóng ran khắp người” linh hồn con tràn ngập bình an, vui mừng và lạ lùng” rồi miệng con cảm thấy ngọt ngào đầy hương vị khi đọc kinh Chúa Thánh Thần!... Thế là từ lúc ấy cho đến sáng, con cứ cầu nguyện kinh Chúa Thánh Thần, không biết mấy trăm lần... Lúc này con nói với cha mà lòng con đang nóng ran lên!”...
Truyện bà cụ đây là một trong hàng 100 triệu trường hợp hiện đang xẩy ra, ngay giữa người VN hải ngoại, và trong cả thế giới Công giáo (1967-2001). Đúng như lời Chúa Giêsu đã loan báo trong Phúc âm hôm nay:”Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14:26). Và một khi chúng ta được Chúa Thánh Thần tràn đến trong đời, chúng ta sẽ đạt được hai mục đích, mà Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu đã hứa ban: (1) Yêu mến Chúa, và được Chúa Cha và Chúa Giêsu đến ngự trong ta” (2) được Chúa ban cho tâm hồn sự bình an tuyệt vời, bình an khác biệt với trần gian (Lc 14:24, 27). Như vậy Chúa Thánh Thần sẽ là chìa khóa đổi đời của chúng ta.
Kinh nghiệm trước mắt chúng ta, Chúa Thánh Thần đã là chìa khóa “đổi đời” của bà cụ Việt Nam và của hàng 100 triệu Tín hữu Công giáo hiện nay. Thời đại chúng ta đang sống, như lời Đức Gioan Phaolô II, “là thời đại của Chúa Thánh Thần và của Đức Maria”.
Thời đại chúng ta, cũng đúng như lời tiên tri Joel, cách đây 2300 năm, đã tiên báo: “Sẽ xẩy ra là sau đó, Ta sẽ đổ Thánh Thần của Ta trên mọi người. Con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri, các vị bô lão sẽ được chiêm bao, trai tráng của các ngươi sẽ được thị kiến, và cả trên các tôi nam tớ nữ của các ngươi, trong những ngày đó, Ta sẽ đổ tràn đầy Thánh Thần của Ta” (Joel 3:1-2).
Ơn “đổ tràn Thánh Thần” xuống trên mọi người, mà tiên tri Joel nói đây, là ơn dành cho tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi cấp bậc, chứ không chỉ dành riêng cho một ai. Chỉ cần họ có thành tâm thiện chí, sẵn sàng “Mở lòng” ra đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng bạn thắc mắc “Mở lòng” bằng cách nào? Thưa bằng cách rất thông thường, bằng 5 việc: Thống hối xưng tội - Tha thứ (quan trọng nhất là tha thứ cho “kẻ thù”) - Tin Chúa thương mình - Tôn nhận Chúa làm Chúa hạnh phúc đời mình - Tha thiết xin nài Chúa ban tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân đời mình.
Ơn được tràn đổ Thánh Thần này, theo Thánh Kinh và Thánh Truyền, cũng như Giáo Lý Công giáo, chúng ta, hết thảy các Tín hữu Công giáo, đã được khi lãnh nhận bí tích Khai tâm (Rửa Tội, Thêm Sức, Mình Thánh Chúa). Nhưng vì quá nhiều lý do và nguyên nhân, đời sống Tín hữu của chúng ta không còn thấy được các hiệu quả, của các Bí tích ấy hiện tỏ và hữu hiệu nhiều nữa! Do đó định nghĩa và mục đích của “ơn tràn đổ Thánh Thần” đây, chỉ là ơn Chúa Thánh Thần đến canh tân đời sống Tín hữu, và làm sống lại những ơn mà các Tín hữu đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội và Thêm sức xưa. Chính vì lý do này, nhiều Linh mục và đông đảo giáo dân, ngay giữa VN hải ngoại, đã bỏ đi những hiểu lầm và thiên kiến về Phong trào “Đoàn Sủng Canh Tân”.
Qua ít dòng trên, chắc quí vị và quí bạn đã hiểu sơ lược thêm về Chúa Thánh Thần là “Chìa Khóa Đổi Đời” cho Giáo sĩ, Tu sĩ và Tín Hữu. Chìa khóa này có tầm rất quan thiết, vì qua đó, Chúa Thánh Thần sẽ canh tân đời sống mới trong ta, và ơn Ngài sẽ làm đời Tín hữu chúng ta nên tươi vui đầy hoan lạc, ngay hiện nay trên trần thế, và vĩnh hằng trong Thiên Chúa là hạnh phúc thật đời đời. Xin khuyến khích quí vị và các bạn noi gương cầu nguyện “đổi đời” như bà cụ VN!
75.Hồng ân bình an – Lm. Minh Vận, CRM
Sau khi từ cõi chết sống lại, mỗi lần Chúa hiện ra với các Tông Đồ, Chúa đều chào chúc các ông: "Bình an cho các con!". Bình an là một hồng ân cao quí nhất Chúa ban tặng cho con cái yêu dấu của Chúa; vì chỉ có sự bình an mới làm cho con người được hạnh phúc, chỉ có sự bình an mới làm cho trần gian nên đáng yêu đáng quí và đáng được Chúa chúc phúc.
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại lòng khát khao của Chúa: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con". Chính vì sự bình an của Chúa cần thiết cho cuộc sống con người, mà hằng ngày trong khi cử hành Thánh Lễ, sau khi Giáo Hội dạy chúng ta hợp nhau dâng lên Chúa là Cha chúng ta lời cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời". Giáo Hội lại muốn chúng ta kêu cầu cùng Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã phán với các Tông Đồ rằng: Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban sự bình an của Thầy cho các con. Xin Chúa đừng chấp tội lỗi chúng con, nhưng xin nhìn đến Đức Tin của Hội Thánh Chúa, xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn".
I. BÌNH AN TRẦN GIAN BAN TẶNG
Vậy, bình an là gì?
Chắc chắn sự bình an của Chúa ban tặng chúng ta, không phải là thứ bình an tạm bợ mau qua theo quan niệm trần gian, vì chính Chúa đã quả quyết: "Thầy ban bình an cho các con, không phải thứ bình an như thế gian ban tặng".
Bình an theo quan niệm trần gian là không có chiến tranh, không hận thù chém giết, không gây nên những cuộc tranh dành đẫm máu, tan cửa nát nhà, phân tán chia ly, tha hương cầu thực, như biết bao người trong anh chị đồng bào chúng ta, đang phải hứng chịu cái hậu quả tàn khốc của chiến tranh hận thù.
Bình an cũng không phải chỉ là được giầu sang phú quí, được thịnh vượng, được văn minh tiến bộ, được quyền hành thanh thế có thể áp đảo điều khiển được những kẻ yếu kém.
Tất cả các điều trên đây tuy là những dữ kiện quí báu để góp phần xây dựng hạnh phúc cho cuộc sống con người trên mặt đất; nhưng chúng vẫn chưa phải là điều kiện chính yếu, để có thể làm cho nhân loại được hưởng sự bình an chân thật, là thứ bình an mà Chúa trao ban cho những con cái yêu dấu của Người.
II. BÌNH AN CHÂN THẬT CỦA CHÚA
Điều kiện để được tận hưởng sự bình an chân thật của Chúa ban tặng, chính là tâm hồn trong sạch, luôn sống trong ơn nghĩa thánh, như những tôi trung con thảo của Người, luôn trông cậy tín thác mọi sự nơi lòng thương yêu quan phòng khôn ngoan của Chúa, luôn hết lòng phụng sự và tận tình yêu mến Ngài, luôn khát khao làm hài lòng Ngài.
Chỉ có tâm hồn khiêm hạ, luôn biết chân nhận thân phận thụ tạo yếu hèn tội lỗi của mình, không những trước tôn nhan Chúa mà còn trước mặt nhân loại; vì thế, không bao giờ họ dám tự kiêu tự đại đưa mình lên trên người khác, không khinh dể ai, nhưng luôn biết tôn trọng mọi người. Không mưu mô xảo trá, không quanh quéo quỉ quyệt, không dối trá tham lam... Không bao giờ họ là nguyên nhân gây nên sự chia rẽ bất thuận, xáo trộn hận thù, làm tổn thương tình bác ái huynh đệ trong gia đình hay trong cộng đồng. Bất cứ ai họ cũng cư xử lịch thiệp như bạn thân, vì không coi ai là kẻ thù của họ; họ sống thân thiện hòa nhã với mọi người. Bởi thế, họ luôn có thêm bạn hữu và giảm bớt kẻ thù nghịch.
Hơn nữa, họ còn sẵn sàng chịu nép vế, chịu thua thiệt, chịu hiểu lầm, để giữ được hòa khí trong anh chị em, mang lại nguồn an vui hạnh phúc cho gia đình, sự an hòa yêu thương cho cộng đồng và niềm hân hoan vui tươi cho xã hội... Do đó, không những tâm hồn họ đáng được tận hưởng sự bình an chân thật Chúa ban, mà còn trở nên sứ giả đem lại an bình cho mọi người.
III. SỨ GIẢ HÒA BÌNH CỦA CHÚA
Là con cái Chúa, là những Tông Đồ tình yêu thương của Chúa, chúng ta phải là những Sứ Giả Hòa Bình. Ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, được diễm phúc trở nên con cái Chúa, Chúa đã ủy thác cho chúng ta sứ mạng đem sự bình an của Chúa đến cho nhân loại. Chính Thánh Phanxicô Khó Khăn đã thấu hiểu sứ mạng cao cả Chúa trao, nên Ngài đã sung sướng dâng lên Chúa lời khẩn nguyện tha thiết, xin Chúa ban cho ngài được trở nên Sứ Giả Hòa Bình của Chúa, để ngài có thể chu toàn được sứ mạng: "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm" (Kinh Hòa Bình).
Đây một tấm gương trong sáng, như vị sứ giả hòa bình do Chúa gởi đến: Tại thành phố Tokyo Nhật Bản, có một khu vực thật nghèo nàn, dơ dáy, bẩn thỉu với biết bao tệ đoan thương luân bại lý, khiến ai cũng chán ghét khinh bỉ; không ai muốn nhòm ngó quan tâm đến, ngoại trừ những cảnh sát giữ an ninh, luôn rình rập để thộp cổ những con người phạm pháp, những băng đảng giết người cướp của... Vì thế, nơi đây người ta thường gọi bằng cái tên là "khu ổ chuột" hay "sào huyệt trộm cướp".
Trong lúc mọi người đều khinh bỉ, thì cô Maria, một nữ sinh viên đại học y khoa, lại thường hay lui tới quan sát, thăm hỏi trong những lúc rảnh rỗi của những ngày cuối tuần... Động lòng thương những con người xấu số, cô đã quyết định bỏ học, bỏ cả một tương lai đầy mộng mơ với nhiều hy vọng, để đến đây chung sống với họ trong cảnh nghèo nàn. Cô đã đi gõ cửa từng gia đình, các nhà hảo tâm, các cơ quan từ thiện, xin quần áo, đồ dùng, thuốc men, tiền bạc đem về giúp đỡ họ. Sau một thời gian vắn, cái "khu ổ chuột" và "sào huyệt trộm cưóp" này đã được biến đổi, cảnh nghèo nàn bớt dần, những tội ác không còn nữa, và điều đáng vui mừng hơn cả là nhiều người đã tìm thấy chân lý, tự nguyện xin học giáo lý trở lại Đạo Công Giáo. Mọi người đều cảm phục trước tấm lòng hy sinh bác ái cao cả của cô nữ sinh viên trẻ tuổi, đến nỗi họ đã tôn cô như vị đại ân nhân và như một người mẹ hiền của họ, ai ai cũng mến phục, tôn trọng và nghe lời chỉ giáo của cô. Nhưng mới chỉ một thời gian chưa đầy một năm, vì quá lao tâm lao lực lo cho họ, cô đã lâm trọng bệnh và qua đời cách thánh thiện. Mọi người đều thương tiếc và tôn trọng cô như một vị Thánh, như một sứ giả của Tình Thương Chúa gởi đến trong xã hội hận thù giữa thời đại hôm nay. Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Tokyo đã đích thân đến chủ tọa Lễ An Táng và ca ngợi công đức của cô, cùng với nhiều vị quan khách trong Giáo Quyền cũng như trong Chính Quyền, và một số đông đảo quần chúng từ khắp nơi tuôn về tham dự, vì đã từng được nghe biết và ngưỡng mộ cô.
Kết Luận
Câu truyện cô nữ sinh viên y khoa trên đây đã là một thách đố cho chúng ta. Một cô gái mới chỉ 27 xuân xanh, đã dám hy sinh cả cuộc đời còn lại của mình, làm một việc anh hùng, để đem an vui hạnh phúc đến cho những con người xấu số trong xã hội nhiều đau khổ và đầy hận thù này.
Còn chúng ta, Chúa không đòi chúng ta phải làm những việc anh hùng vượt quá khả năng, ngoài tầm tay mình; nhưng chúng ta có dám vì yêu mến Chúa, quảng đại hy sinh, nhường nhịn, thông cảm, để làm cho gia đình chúng ta được vui tươi hạnh phúc không?
Chúng ta có dám vì yêu mến Chúa bớt chút thời giờ, sức lực, tiền của, để tìm đến với những người xấu số, đem lại cho họ niềm an ủi hạnh phúc, hầu chinh phục họ về với Chúa không?
Xin Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình, giúp chúng ta là con cái yêu dấu của Mẹ, được xứng đáng tận hưởng sự bình an chân thật của Chúa và trở nên sứ giả đem sự bình an của Chúa đến cho mọi người.
76.Suy niệm của Lm. Augustine
Ô-da-nam (Frédéric Ozanam 1813-1853) là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp và thượng tuần thế kỷ 19. Ông đã trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng về đức tin khi còn là sinh viên đại học.
Cầu nguyện
Hôm ấy Ô-da-man bước vào một nhà thờ cổ ở thủ đô Paris để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện nơi hàng ghế đầu. Đến gần, Ô-da-man mới nhận ra đó chính là nhà bác học Ampe (André Marie Ampère 1775-1836). Chàng sinh viên không ngừng theo dõi cử chỉ cầu nguyện của vị giáo sư vật lý và hoá học nói trên. Khi ông đứng dậy ra về, chàng liền bước tới phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đứng trước cửa phòng dáng vẻ rụt rè, giáo sư Ampe liền cất tiếng hỏi:
- Này, người bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
Chàng thanh niên nhỏ nhẹ trả lời:
- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm. Xin giáo sư cho phép con được hỏi một chút về vấn đề đức tin mà thôi.
Giáo sư Ampe khiêm tốn đáp lại:
- Đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh về điều gì, tôi sẽ lấy làm hân hạnh.
- Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường được chăng?
Giáo sư Ampe ngỡ ngàng trước câu hỏi vừa nêu. Với cặp môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện
- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!
Câu trả lời vừa nêu của giáo sư Ampe gợi lại câu nói thời danh của nhà toán học kiêm triết gia Pascal (Blaise Pascal 1623-1662), khi ông nói: “Con người vĩ đại khi quì cầu nguyện.” Thực ra, câu nói đó chỉ có ý nghĩa nhờ ánh sáng đức tin do chính Chúa Giêsu chiếu dãi khi Người trả lời một loạt những câu hỏi do các môn đệ nêu nơi bữa Tiệc Ly.
Khi ấy Giuđa đã bước ra khỏi phòng tiệc và “trời đã tối” (Ga 13, 30). Đó là lúc Đức Giêsu ngỏ lời với những môn đệ mà Người yêu quí cách riêng. Một số các ông là Phêrô, Tôma, Philiphê và Giuđa không phải là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, lần lượt nêu câu hỏi giúp ta hiểu được phần nào ý nghĩa của hai chữ đức tin.
a) Phần dẫn nhập (13, 31-35) cho thấy sự ra đi của Giuđa khai mào cho một loạt những biến cố trực tiếp dẫn đến biến cố cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ được tôn vinh có nghĩa là chính Thiên Chúa được tôn vinh, bởi lẽ tình yêu vô hạn của Thiên Chúa sẽ được biểu lộ nơi Đức Giêsu. Người để lại cho các mon đệ điều răn mới: Đó là họ phải yêu thương nhau (c.34). Điều mới mẻ nơi giới răn này là tình yêu của chính Đức Giêsu dành cho các môn đệ; tình yêu ấy là khuôn vàng thước ngọc cho tình yêu của các môn đệ đối với nhau. Đó chính là dấu chỉ không thể thiếu nơi người môn đệ của Đức Giêsu.
b) Phêrô (13, 36-14,4) khiến cho câu chuyện tại bữa tiệc ly được rõ nét về đích nhắm với câu hỏi là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” (13, 36). Tuy Phêrô có chối Thầy nhưng rồi ông sẽ được nối kết với Thầy khi ông chết (c.36).
Các môn đệ không khỏi xao xuyến (14, 1.27). Đức Giêsu nhấn mạnh về niềm tin các ông cần có. Người cho các ông biết Người đi là để dọn chỗ cho các ông và Người sẽ trở lại đưa các ông đi với Người (c.3).
c) Câu trả lời của Đức Giêsu khiến ông Toma nói tiếp: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường.” (14, 5-7). Và Đức Giêsu cho Tôma cũng như các môn đệ hiểu rằng niềm hy vọng của người Kitô không phải là một phương pháp, một thủ tục, nhưng là một bản vị. Chính Đức Giêsu là “Đường, Sự Thật và là Sự Sống” (c.6). Chính ngang qua Đức Giêsu và ở nơi Đức Giêsu mà các Kitô hữu đến được với Cha, biết được Cha và nhìn thấy Cha.
Được mãn nguyện
d) Philiphê (14,8-21) như muốn tóm gọn toàn bộ ơn mạc khải lại nơi Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (c.8). Và chúng ta như nghe thấy tiếng thở dài của Thầy Giêsu khi Ngài nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philiphê, anh chưa thấy Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” (c.9).
Đức Giêsu tiếp tục vạch cho các môn đệ thấy mối dây kết hiệp Người lại với Chúa Cha một cách trọn vẹn: cả trong lời nói lẫn việc làm (cc.10-11). Rồi Người chú ý tới chính các môn đệ: Họ cũng sẽ làm được những công việc Đức Giêsu đã làm, bởi lẽ Người sẽ đáp lời họ xin để Thiên Chúa được biểu lộ nơi Con. Tình yêu mà Người dành cho các môn đệ sẽ được biểu lộ qua việc Đấng Bảo Trợ khác là Thần Khí của sự thật, Đấng ấy sẽ ở lại với các môn đệ mãi mãi (c.16). Theo ý nghĩa ấy, Đức Giêsu sẽ không để các môn đệ mồ côi vì Người sẽ trở lại với họ (c.18).
Độc giả có thể bị choáng váng: Tại sao Đức Giêsu nói về việc Người đi để chuẩn bị nơi ở cho các môn đệ (14,3) và Người sẽ trở lại để đem họ đi với Người, thế rồi Người lại nói nơi ở ấy được định vị ngay nơi các môn đệ! (cc.20-21). Một cách nào đó, việc Đức Giêsu trở lại liên quan tới việc Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Linh được phái đến hoạt động thay Đức Giêsu với tư cách vừa là Đấng Bào Chữa, vừa là Đấng Mạc Khải (Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Bảo Trợ trong 1Ga 2,1).
Đức Giêsu ra đi nhưng Người sẽ trở lại qua Đấng Bảo Trợ được phái đến. Việc đó cắt nghĩa điều mà Đức Giêsu nói là “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (c.19). Cũng như các môn đệ được thấy Thầy Giêsu tận mắt tại bữa tiệc ly, họ cũng sẽ được biết việc Người kết hiệp với Cha. Việc kết hiệp ấy chính họ được tham dự. Họ mà biết yêu theo giới răn mới thì sẽ được cả Cha và Con yêu thương. Con sẽ tự mạc khải cho họ ngang qua Đấng Bảo Trợ (c.21). Tất cả điều họ hy vọng cho tương lai sẽ sớm được thực hiện ngay nơi trần thế này tuy còn trong niềm tin mà họ đặt nơi Thiên Chúa.
e) Vì ở trên Đức Giêsu có nói “chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy” (c.19), cho nên ông Giuđa không phải là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, nêu câu hỏi “Tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (c.22). Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi vừa nêu mà chỉ nhấn mạnh điều Người đã công bố: Tức là Người và Cha sẽ đến cư ngụ nơi những ai yêu mến và giữ lời Người (cc. 23-24). Đó chính là việc Đức Giêsu trở lại trực tiếp liên quan tới Đấng Bảo Trợ mà Cha sẽ phái tới để dạy dỗ và nhắc nhở các môn đệ. Các môn đệ được vững tin vì có Thần Khí của Đức Giêsu ở với họ để nhắc nhở và cắt nghĩa cho họ hiểu những lời Đức Giêsu đã nói và lẽ khôn ngoan Người muốn truyền đạt.
Đức Giêsu từ biệt các môn đệ bằng cách chúc họ được bình an theo phong tục người Trung Đông. Nhưng Người cho họ biết ơn bình an mà Người ban cho họ, thế gian không thể nào cho họ được (c.27) vì ơn đó bao gồm mọi của cải thiêng liêng thuộc về ơn cứu độ.
Mọi sự được thành tựu
Đức Giêsu cho biết Chúa Cha cao trọng hơn Người (c.28) bởi lẽ chính từ Chúa Cha nên mới có mọi sự. Chính Chúa Cha đã khiến cho mọi sự thành tựu. Cả việc Đức Giêsu được phái đến cũng như việc Người trở về trong vinh quang của Cha, tất cả đều được thể hiện theo ý muốn của Chúa Cha. Chính theo ý nghĩa ấy Đức Giêsu đã khẳng định rằng: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (c.28).
Đấng cao trọng như vậy mà lại chiếu cố đến ở với các môn đệ. Thử hỏi còn có điều gì vĩ đại hơn thế?
Một số câu hỏi gợi ý
1. Trong các câu hỏi mà các môn đệ nêu nơi bàn ăn tại bữa tiệc ly, bạn lấy làm tâm đắc về câu hỏi nào? Tại sao? Hay bạn lấy làm tâm đắc về điều khác không phải là những câu hỏi vừa nói khi cầu nguyện với bài Tin Mừng hôm nay?
2. Bạn hiểu thế nào về ý nghĩa của câu nói do nhà bác học Ampe là: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.”
3. Theo bạn, hai chữ “Đức Tin” có ý nghĩa gì?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam