Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 26

Tổng truy cập: 1374655

NGÀI LÀ AI ĐỂ TÔI TIN ?

"Ngài là ai để tôi tin Ngài?"

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)

Như tuần trước đã chia sẻ, trong ba tuần giữa (III, IV, V) của Mùa Chay thuộc Chu Kỳ Phụng Niên Năm A, Phụng Vụ Lời Chúa (ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, chứ không phải theo Thánh Mathêu) cho thấy tiến trình Mạc Khải tam đoạn về Con Người Giêsu là Đường Lối, là Sự Thật và là Sự Sống. Thật vậy, ở Chúa Nhật thứ III tuần trước, Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là Đường Lối, qua đoạn Phúc Âm trình thuật về việc Người tỏ mình ra cho phụ nữ tội lỗi ở miền đất Samaritanô ngoại lai, và làm cho chị nhận biết Người quả thực là Đức Kitô Thiên Sai, Vị sẽ dẫn con người đến cùng "Thiên Chúa là Thần Linh", Đấng muốn những ai tôn thờ Ngài phải "tôn thờ trong tinh thần và chân lý" (Jn 4:24), là tất cả những gì Người sẽ ban cho những ai tin vào Người, để từ họ sẽ vọt lên mạch nước sự sống đời đời là Thánh Thần (xem Jn 4:14, 7:38-39). Ở Chúa Nhật thứ IV tuần này, Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là Sự Thật, qua đoạn Phúc Âm trình thuật về việc Người tỏ mình ra cho một kẻ mù từ lúc mới sinh người Do Thái ở miền đất chính giáo Giuđêa. Bởi vì, trong đoạn trình thuật đây, Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu đã nói đến thực tại "Thày là ánh sáng thế gian" trước khi phục quang cho người mù này, cũng như nói đến tác dụng nơi việc hiện diện và hành động của Người: "Tôi đến để làm cho kẻ mù được thấy và kẻ thấy bị mù", sau khi đã chữa lành cho người mù ấy.

Tiến trình Mạc Khải của Chúa Giêsu trong cả ba trường hợp (Đường Lối, Sự Thật và Sự Sống) đều giống nhau, chẳng những theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan ("Ánh sáng chiếu soi trong tăm tối" - Jn 1:5) mà còn theo đúng đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu thuộc Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A nữa ("Cải thiện đời sống! Nước Trời đã đến" - Mt 4:17). Thật thế, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan, vì là "ánh sáng thật đã đến trong thế gian chiếu soi hết mọi người" mà Chúa Giêsu, như Phúc Âm hôm nay cho thấy, đã tự động, (chứ không cần hay không phải do yêu cầu hay kêu xin của đối tượng, vốn thường xẩy ra nơi bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm), đến với người mù từ lúc mới sinh và chữa lành cho anh ta. Để làm gì? Nếu không phải để anh ta có thể nhìn thấy Người mà tin vào Người hay mới có thể tin vào Người. Phải, tuyệt đỉnh của việc Chúa Giêsu tỏ mình cho người mù từ lúc mới sinh này là ở chỗ đó. Ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay cho biết: "Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, Người tìm gặp anh mà hỏi: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh đáp: "Thưa ông, Ngài là ai để tôi tin Ngài?" Chúa Giêsu phán: "Anh đã nhìn thấy Ngài, Đấng đang nói với anh đây". Anh ta liền nói: "Lạy Chúa, tôi tin" rồi sấp mình xuống thờ lạy Người".

Tuy nhiên, trình thuật Mạc Khải này của Chúa Giêsu cũng hợp với đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu nữa. Nếu yếu tố nhân sinh (cải thiện đời sống) được đặt trước yếu tố Thần Linh (Nước Trời đã đến) thế nào, trong trình thuật Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay chúng ta cũng thấy rõ điều đó. Thật vậy, ngay trước khi được Chúa Giêsu hoàn toàn tỏ mình ra cho mình, nghĩa là trước khi người mù từ lúc mới sinh chẳng những tuyên xưng đức tin mà còn tỏ cử chỉ phục xuống tôn thờ Người, anh ta đã phải tỏ lòng khát khao mong muốn biết Người là ai: "Thưa ông Ngài là ai để tôi tin Ngài?". Như thế, nếu anh ta không tỏ ra yếu tố nhân sinh quyết liệt này trước, thì thử hỏi anh ta có được thấy "Nước Trời đã đến" ngay trước đôi mắt vừa được chữa lành của anh ta hay chăng? Hoặc anh ta lại rơi vào trường hợp của chín trong mười người tật phong, sau khi được chữa lành, đã không hề quay trở lại để nhận biết Đấng đã chữa lành cho mình bằng việc tạ ơn Người, như một người ngoại lai trong họ đã làm (xem Lk 17:11-19). Thật ra, qua những đối đáp của anh ta với nhóm Pharisiêu, anh ta chẳng những đã tỏ ra niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh ta, mà còn hiên ngang làm chứng cho một Đấng anh ta chưa hề được trực diện, chưa hề được diện kiến dung nhan để có dịp dâng lời tạ ơn Người. Vì trước khi thấy đã tin rồi, (tin trước biết sau là như thế), nên khi anh ta vừa được hỏi "Anh có tin Con Thiên Chúa không?", anh liền tỏ ước muốn tin tưởng của mình ngay, nhờ đó, và cũng chỉ nhờ đó, anh mới được và đã được hoàn toàn thấy "Sự Thật", thấy được "Con Thiên Chúa" Làm Người.

Thế nhưng, tại sao Giáo Hội lại đặt trình thuật của Phúc Âm Thánh Gioan về việc Chúa Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh này vào Mùa Chay, trước trình thuật về người phụ nữ Samaritanô và sau trình thuật về Lazarô được hồi sinh? Hay nói cách khác, đâu là ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay trong Mùa Chay?

Như đã đề cập đến ở hai bài chia sẻ, tuần về biến cố biến hình hai tuần trước và tuần về biến cố bên bờ giếng Giacóp vừa rồi, Mùa Chay là thời gian hướng về và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Kitô Giáo. Thế nhưng, con người không thể chấp nhận và nhờ đó mới có thể thông phần vào Biến Cố Vượt Qua này, một biến cố đã làm rung chuyển tận gốc rễ nền tảng đức tin của Nhóm 12 bấy giờ, nếu con người không chịu bỏ mình và nhờ đó mới có thể tin tưởng, nghĩa là mới có thể cùng Người Vượt Qua: "Tôi nói thật cho quí vị biết, ai nghe lời Tôi mà tin vào Đấng đã sai Tôi thì có sự sống trường sinh. Họ không bị luận phạt, song vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Jn 5:24). Ngay trong biến cố biến hình, ba môn đệ đã chẳng nghe thấy có tiếng phán ra từ đám mây hay sao: "Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người. Hãy nghe lời Người" (Mt 17:5). Như thế, chính Cha trên trời cũng làm chứng về Con mình, để con người có thể tin tưởng Đấng Ngài sai.

Đó là lý do, hai tuần đầu của Mùa Chay, Giáo Hội đã khôn ngoan đặt bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ trước biến cố Chúa Giêsu biến hình, với mục đích để củng cố đức tin Kitô hữu, tức để Kitô hữu thấy được ý nghĩa và mục đích sâu xa của bỏ mình và chịu đựng khổ đau. Ngay trong biến cố biến hình của mình, Chúa Giêsu cũng có ý hướng muốn củng cố đức tin của ba người môn đệ thân tín nhất của Người nữa. Bởi thế, cuối trình thuật về biến cố biến hình này, Người mới hướng các vị về biến cố Phục Sinh của Người: "Đừng nói với bất cứ ai những gì các con thấy cho đến khi Con Người từ trong cõi chết sống lại" (Mt 17:9). Về phía con người, cho dù đức tin của Nhóm 12, nhất là của cả 3 vị thân tín nhất đã được tận mắt chứng kiến vinh hiển của Con Thiên Chúa qua biến cố biến hình, có bị choáng váng tối tăm đến chối bỏ "Sự Thật", nhưng, nhờ những gì Thày đã làm trước hay báo trước về Người (xem Jn 13:19), cuối cùng họ cũng đã tin vào Người: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi" (Jn 20:28).

Như thế, nếu chứng từ là yếu tố thuộc về Mùa Phục Sinh thế nào, thì đức tin là yếu tố làm nên Mùa Chay như vậy. Đó là lý do Phụng Vụ Lời Chúa theo Phúc Âm Thánh Gioan cho ba tuần giữa (III, IV, V) của Chu Kỳ Phụng Niên Năm A nói chung, cũng như của Chúa Nhật Thứ III Mùa Chay hôm nay nói riêng, mới trình thuật về việc Chúa Giêsu tỏ mình ra để làm cho con người tin vào Người mà được sự sống đời đời. Bởi nguyên tội, con người đều là những người mù từ lúc mới sinh, không thể nào nhận biết "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24), nếu không được Ngài mở mắt tâm linh ra cho. Thật ra, Thiên Chúa luôn ở bên con người và tỏ mình cho con người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô trong bài Phúc Âm tuần trước, hay của người mù từ lúc mới sinh trong bài Phúc Âm tuần này: "Ta chính là Đấng đang nói với chị/anh" (Jn 4:26; 9:37), với chúng ta.

Tuy nhiên, muốn nhận ra Người, như hai nhân vật trong hai bài Phúc Âm tuần trước và tuần này, chúng ta phải chân thành và khao khát tìm kiếm chân lý. Có thế, tới giây phút hội ngộ thần linh, giây phút cảm nghiệm thần linh, chúng ta mới nghe được tiếng của Người, nhận ra những gì Người đã nói với chúng ta, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô, hay những gì Người đã làm cho chúng ta, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Và từ cuộc hội ngộ thần linh này, chúng ta mới có thể loan báo về Người, như trường hợp của người đàn bà Samaritanô, hay mới có thể phục xuống thờ lạy Người, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Riêng trong trường hợp của Người mù từ lúc mới sinh, ngay trước khi gặp được Đấng phục quang cho mình, anh đã làm chứng về Người rồi, chứ không cần đợi đến sau khi nhận ra Người, như trường hợp của chị phụ nữ Samaritanô. Một con người sống theo lương tâm chân chính có thể làm chứng cho chân lý là thế: "Ai tìm kiếm chân lý sẽ nghe thấy tiếng của Tôi" (Jn 18:37) là thế; "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi" (Jn 10:27) là như vậy. Nếu trong Biến Cố Vượt Qua, Chúa Giêsu muốn "làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37) Người là Đấng Thiên Sai và Cha là Đấng đã sai Người, thì người mù từ lúc mới sinh hôm nay, qua những minh chứng hùng hồn theo lý lẽ tự nhiên cùng với cảm nghiệm thần linh của anh trước nhóm Pharisiêu thông luật, quả thực đã tin tưởng đúng như những gì Chúa Giêsu muốn đến để làm chứng: "Nếu người này không từ Thiên Chúa mà đến thì không thể nào làm được một việc như vậy" (Jn 9:33).

Vấn đề thực hành sống đạo: Mùa Chay là thời điểm hướng về Biến Cố Vượt Qua và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, bằng những việc củng cố Đức Tin, những tác động làm cho Kitô hữu nhờ đó có thể hiệp thông với Chúa Kitô Phục Sinh hơn. Bởi vậy, Mùa Chay sẽ chẳng có nghĩa gì, thậm chí những việc hy sinh hãm mình, chay tịnh phạt xác, ăn năn thống hối cũng chẳng có nghĩa lý gì, nếu con người không nhờ đó mà tin tưởng hơn, gắn bó với Chúa Kitô hơn, theo sát Người hơn, cảm thấy vinh dự vì thập giá của Người hơn. Đúng thế, chỉ có đức tin trưởng thành và mãnh liệt như thế, con người môn đệ Chúa Kitô mới thực sự là những chứng nhân sống động của Người và cho Người đến tận cùng trái đất mà thôi (xem Lk 24:48).

 

67. Chúa Giêsu mở mắt cho người mù lòa

(Suy niệm của Lm. Augustine SJ.)

Để cảm thông được cảnh khổ của những người mù, hẵy thử hình dung xem bặn sẽ xử sự ra sao khi ánh đèn trong khu phố bạn vụt tắt.

Một buổi tối mùa đông, vào giờ tan sở, thủ đô Pari hoa lệ bị dìm vào bóng đêm do cúp điện đột xuất. Mọi người đều hốt hoảng vì không quen với bóng tối, nhất là những ai bị kẹt trong thang máy, hoặc trong các xe điện ngầm. Mới đến định cư ở Pari từ hai tháng nay, Maily cũng bị kẹt trên hè phố tối tăm của một thành phố mà cô chưa thông tỏ đường đi lối về. Cô cảm thấy lo âu, bất lực, sợ hãi. Bỗng nhiên cô vấp phải một người đi bộ phía trước vì không nhận ra người đó. Sau khi ngỏ lời xin lỗi, cô biết được chàng thanh niên đó sống gần khu phố của cô, nhưng hai người chưa từng có dịp làm quen. Cầm lấy bàn tay ấm áp của anh, cô yên tâm vì anh cứ rẽ đám đông mà đi và đưa cô về đến con ngõ trước nhà. Chính khi chia tay, Maily mới biết tại sao anh ta thuộc đường như vậy: Đó là chàng trai ấy bị mù: vì luôn sống trong tối tăm, anh ta đã quen "nhìn" sự vật hầu như nhờ "giác quan thứ sáu". Thế mới hay rằng lắm khi người mù lại tỏ ra hơn kẻ sáng mắt.

SỰ MÙ TỐI CỦA TÂM HỒN

Phúc Âm hôm nay không chỉ thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa anh mù về mặt thể lý; nhưng còn cho thấy việc Chúa mở mắt Đức tin để anh ta TIN VÀO NGÀI. Anh mù được chữa lành vì anh đã tin và làm theo lời Chúa dạy là đi rửa mắt ở hồ Silôác. Điều trái ngược trong câu chuyện này là anh mù, tuy bị mù loà, nhưng lại nhìn thấy những điều mà các người Pharisêu không thấy được: anh đă nhận ra lòng nhân lành của Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa, khác hẳn thái độ của người Pharisêu mù loà, vì họ từ chối nhìn nhận phép lạ của Chúa và khước từ tin vào Người.

Để có thể nhìn rõ mọi sự, có được một đôi mắt tinh anh thôi chưa đủ. Bởi lẽ ngoài bệnh mù loà của thân xác còn có rất nhiều dạng mù loà khác, không cho phép chúng ta tiếp nhận ánh sáng của Chúa. Đó là lòng ích kỷ ngăn cản ta nhìn thấy nhu cầu của những anh em nghèo khổ; đó là sự kiêu căng không cho phép ta nhận ra những lỗi phạm của mình; đó là những thành kiến khiến ta bị bưng bít đối với sự thật; đó là lòng ham muốn vật chất khiến linh hồn ta không còn thấy được những giá trị thiêng liêng.

Bằng đôi mắt của tâm trí và của linh hồn, ta có thể nhìn ra những điều mà đôi mắt xác thịt không thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, chỉ với đôi mắt đức tin, ta mới có thể nhìn thấy được những thực tại về Thiên Chúa và về ơn cứu độ. Phúc Âm hôm nay chính yếu là chuyện kể về đức tin. Thật vậy, cao điểm của câu chuyện này là ở việc anh mù tuyên xưng niềm tin của anh vào Đức Kitô khi nói: "Lạy Ngài tôi tin!" Nhờ tin, anh đã được chữa lành cả về thể xác lẫn tâm hồn.

CHÚA GIÊSU MỞ MẮT CHO NHỮNG NGƯỜI MÙ LÒA

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không chỉ chữa tật mù loà về thể lý, mà còn chữa tình trạng mù loà tâm hồn. Loạt người thứ hai này gồm những kẻ lầm lạc, thiếu khả năng nhìn thấy đường về nhà Cha. Người đã mở mắt cho ông Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi của ông (Lc 19,1-10); Người đã mở mắt cho một cô gái lỡ đường để cô dứt bỏ với quá khứ không mấy tốt đẹp của mình (Lc 7,36-50); Người cũng đã mở mắt cho người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Người trên đồi Gôn-gô-tha, để anh ta nhận ra ánh sáng của lòng Chúa thương xót (Lc 23,32-43). Chính nhờ Chúa Giêsu, những người này đã tìm lại được ánh sáng dẫn đưa tới Nước Thiên Chúa. Ngược lại, những người Pharisêu vì cố chấp, cứng tin, nên đã bị bỏ lại trong bóng tối. Họ đã không tin nhận Chúa Giêsu, cũng không đón nhận ơn cải hoá được khơi dậy nơi lòng họ (Ga 9,41)

Cũng vậy, bằng cách này hay cách khác, mỗi người chúng ta đều vương phải những chứng mù loà bẩm sinh. Đó là những thói xấu và tội lỗi. Vậy chúng ta cần được Chúa Giêsu soi sáng, cứu chữa đôi mắt tâm hồn của chúng ta, từng bị mù loà do từ khước ánh sáng của Người. Chúa Giêsu luôn đến với mọi người đau yếu, tật bệnh, tội lỗi để kêu mời và giúp họ hoán cải và được chữa lành. Chúng ta hãy can đảm đến với Chúa, để Người chạm đến chỗ kín ẩn, thâm sâu nhất của lòng ta; đồng thời hãy vâng lời Người, chấp nhận đi gột rửa tâm hồn ta ở hồ Silôác thiêng liêng là Lời Chúa, trút lại đó cái mù loà của tâm hồn ta, để mặc lấy ánh sáng của Lời Chúa.

 

68. Đức tin người mù

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

Có một người kia sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: "Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào". Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói: "Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi". Nhưng có người nói với anh: "Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy". Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: "Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi".

Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người: Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa".

Thấy anh tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh: "Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng:"Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi". Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối".

Đó là câu chuyện của một anh mù bẩm sinh ở Ấn Độ. Còn câu chuyện của anh mù, cũng mù bẩm sinh, kể lại trong bài Tin Mừng, thì lại khác hẳn: trong khi mù và sau khi được sáng, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận hẩm hui buồn tủi của mình. Ngược lại, những người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo trong sự mù tối của mình, đó là những người Pha-ri-sêu. Chúng ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của những người Pha-ri-sêu. Đôi mắt thân xác của người mù nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những người Pha-ri-sêu có đôi mắt thân xác không mù loà, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự khác biệt đó là niềm tin và đức tin: anh mù được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những người Pha-ri-sêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.

Đây là một phép lạ đặc biệt chưa từng có trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa tiến bộ nhưng vẫn còn bó tay trước những người mù bẩm sinh. Còn đối với những người vì một lý do nào đó bị mù loà thì y khoa có thể dùng một loại ra-đa hay dùng con mắt của người khác thay vào thì có thể thấy được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên hết con mắt đức tin của anh được bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều người sáng mắt không nhận ra.

Theo ý nghĩa tượng trưng, trong phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về tinh thần là tình trạng mê muội của những người sống trong tội lỗi và tình trạng mù quáng của những kẻ cố chấp. Vậy hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh gọi những người sống trong tội lỗi như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố chấp, tức là bảo thủ trong sự lập luận sai lầm hay càn dở của mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã gọi những người Pha-ri-sêu là những người mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Chúa đã nói: "Tôi đến thế gian này chính là để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, còn những kẻ xem thấy sẽ trở nên đui mù". Chúng ta thường nói về những người cố chấp: "Không ai điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe", thì chúng ta cũng có thể nói về những người mù tinh thần: "Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ mở mắt mà không muốn xem".

Chúng ta có đang sống trong tình trạng mù lòa về tinh thần không? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp trong tình trạng đó ư? Không được đâu. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời người mù xưa kia. Nói khác đi, trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng lòng đến với Chúa không?

Người mù sung sướng biết bao khi đôi mắt anh ta mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.

 

69. Ánh sáng soi chiếu

Anh chị em thân mến,

Ánh sáng là món quà quí giá nhất cho con người, nhất là cho người mù không nhìn thấy. Người ta thường nói: "Chính bóng tối đã kêu gọi (cần có) ánh sáng". Người mù, một khi được sáng mắt, sẽ thấy ánh sáng quí giá như thế nào. Chỉ khi nào người ta mù, không có ánh sáng, người ta mới hiểu được ánh sáng cần cho sự sống. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa cho một anh mù từ khi mới sinh. Chính Chúa nói: "Ta là ánh sáng thế gian". Chính Chúa và Lời Chúa là ánh sáng, là của ăn tinh thần cho con người đang sống trong mù tối, vì không nhận ra Thiên Chúa. Đây là chủ đề mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.

a/. Trước hết, có một vài câu cần tìm hiểu:

"Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến anh này sinh ra bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Quan niệm xưa cho rằng người bị mù, hay bệnh tật chính là do tội lỗi của mình hay của người thân mình gây ra. Chúa Giêsu trong câu chuyện này đánh đổ quan niệm đó, Người nói: "không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta, nhưng để cho mọi người thấy được quyền năng và tình thương của Thiên Chúa."

Thầy là ánh sáng cho thế gian: lời tự xưng của Chúa Giêsu, cũng là sự thật. Chúa chính là ánh sáng, và ai đến với Người sẽ có được ánh sáng như câu chuyện anh mù được chữa lành trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, thoa vào mắt người mù: người xưa tin nước miếng có sức chữa bệnh. Có lẽ Chúa muốn dùng cử chỉ tượng trưng để anh mù tin.

Có 3 thái độ cản trở con người đến để được Chúa Giêsu chữa lành: 1. của người Do Thái: mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu... Họ cho người bị bệnh mù bẩm sinh, là do tội của mình. Thật là đáng sợ khi nghĩ Thiên Chúa đã để anh mù bị bệnh, để trừng phạt anh ta. Hiểu như thế về Thiên Chúa là hoàn toàn sai lạc. Chúa nói: có người cha nào, con xin bánh lại cho con rắn hay con bò cạp? Cha trần gian mà còn đối xử với con cái mình như thế, huống chi Cha trên trời. 2. là thái độ của những người lân cận, cha mẹ của anh mù: lúc đầu họ ngạc nhiên vì anh mù được sáng mắt, sau cùng là sợ hãi, vì sợ bị vạ lây, đến nỗi tỏ ra hèn nhát và dửng dưng. 3. cách riêng là thái độ của nhóm Pharisêu, tư tế: họ ngoan cố phủ nhận Chúa Giêsu là ánh sáng là sự sống, dù họ thấy cả phép lạ Chúa cho người chết sống lại...Họ không đủ khiêm tốn để nhìn nhận sự thật. Họ là những con người đui mù thiêng liêng, họ không cần và cũng không muốn được Chúa chữa lành...

b/. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu tiến trình Chúa Giêsu chữa lành tâm hồn cho anh mù: Trong câu chuyện chữa lành hôm nay, ta không thấy người mù cầu xin Chúa chữa bệnh cho mình. Cho dù nếu có mà Phúc Âm không ghi, ta cũng thấy rõ thái độ của Chúa Giêsu, muốn tự mình đi đến cứu chữa cho anh ta: Người lấy nước miếng trộn với đất xức mắt anh ta, rồi bảo anh đi đến hồ Siloê mà rửa. Anh đi đến đó rửa, và được khỏi. Sau khi anh được chữa bệnh phần xác, những người chứng kiến bị "sốc" và cứng lòng tin. Họ chất vấn anh mù. Anh công khai nói lên sự thật; chính thái độ này đã dẫn anh đi xa hơn trong niềm tin của mình. Sau đó, những người Pharisêu chất vấn nữa, nhất là khi họ biết anh được chữa lành trong ngày sabbat. Họ còn cho mời cả cha mẹ anh đến, cốt để tìm ra lý lẽ chối bỏ việc Chúa Giêsu chữa lành. Sau đó, Chúa hay biết anh bị "tấn công", Người đến gặp anh ta, tỏ mình cho anh ta biết Người là ai. Chính Chúa mời anh đi đến niềm tin. Anh mù đã không cưỡng lại, nên đã quì xuống thưa: "lạy Chúa, con tin." Anh đã được chữa lành đôi mắt tâm hồn...

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua câu chuyện anh mù được chữa sáng mắt, ta là hạng người nào trong những hạng người trên? Có phải ta ở trong hạng của anh mù, và ta thấy mình cần được Chúa chữa cho lành, để ta được sáng mắt tâm hồn không?

 

70. Hai cách nhìn và hai lối sống

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác... vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu trọng Lư); hay đối với những nhà nhân tướng học thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”. Nên nhìn con mắt, người ta có thể đoán bắt được tính tình; hoặc với các nhà khoa học thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp[...]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được...”

Vì thế, con mắt được gọi là “cửa sổ của linh hồn”. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Trong cuộc sống thực tế, hình ảnh của anh mù đối lập với nhiều người. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.

Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài.

1. Hai cách nhìn và hai lối sống

Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể, khi Đức Giêsu biết người phụ nữ này có quá nhiều đời chồng, mặc dù chị ta không nói (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Do thái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta”(Is 55, 8).

Thật thế, ngay cả tiên tri Samuel, ông đã được Thiên Chúa yêu thương, chọn và gọi, rồi ông cũng đã phục vụ Thiên Chúa rất nhiều năm trong vai trò là người thông ngôn cho Người, ấy vậy mà ông vẫn còn có thái độ rất đời, vẫn không có cái nhìn của Thiên Chúa (x. Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a). Rồi đến lượt chính các môn đệ, khi gặp thấy anh mù, các ông cũng nhao lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Như vậy, từ Samuel, đến các môn đệ là những người sống bên cạnh Chúa, vậy mà vẫn còn đó cái nhìn không có “chất Chúa” khi nhận xét một thực tại!

Như vậy, đâu lạ gì khi chúng ta thấy những người Biệt Phái cũng có cái nhìn rất đời như vậy. Phải chăng có khác nhau chút ít khi Samuel cũng như các môn đệ là do chưa hiểu hết được ý định của Thiên Chúa, nhưng khi đã nhận ra, các ngài đã trung thành theo ý của Thiên Chúa. Còn những người Biệt Phái thì do ghen tương, ích kỷ, kiêu ngạo và cố chấp, cho nên họ khước từ chứng tích của anh mù về tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đồng thời, họ tìm cách loại trừ chính Đức Giêsu và ngay cả anh mù ra khỏi cộng đồng, xã hội của họ. Nếu Đức Giêsu đã không chữa bệnh ngày Sabát, và anh mù kia nếu không xuất hiện thì đã không có chuyện...

Trước mặt những người Pharisêu và người Do thái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi... (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.

Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Do thái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: "Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát" (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.

2. Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc chúng ta một vài điều:

Trước tiên, nếu chỉ suy nghĩ đơn giản hay bề ngoài, mỗi người chúng ta rất dễ có nhận định là tại sao Samuel đã được Chúa gọi, chọn và được đặc ân sống thân tình với Thiên Chúa, đại diện Chúa, mà vẫn không nhận ra thánh ý của Người?

Thứ đến, chúng ta cũng không ngần ngại trách các môn đệ khi các ông có nhận định sai lầm về việc chàng thanh niên bị mù được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay khi các ông thắc mắc với Đức Giêsu về việc có phải anh ta bị mù là do tội của anh hay của cha mẹ anh?

Tiếp theo, chúng ta rất dễ kết án những người Biệt Phái vì có một quan điểm nguy hiểm và cho rằng những ai bị tật là do tội và bị Thiên Chúa trừng phạt! Đồng thời kết án họ vì cố chấp bởi vì trong tim và khối óc luôn có sẵn một định kiến, chống đối và thù ghét cũng như khinh thường những người thấp cổ bé họng, ốm đau bệnh tật, và kết án nữa là vị họ sống hình thức, vụ luật...;

Cuối cùng, một lối suy nghĩ đáng thương hại cho những người Do thái thời bấy giờ, vì họ đã có chính Đức Giêsu là hiện thân của Thên Chúa ở cùng mà lại không nhận ra. Nên họ đã bất đồng ý kiến và nảy sinh mâu thuẫn chỉ vì câu nói: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" (Ga 19,6). Tuy nhiên, suy cho cùng, chúng ta phải thương lấy chính chúng ta, bởi vì vẫn còn đâu đó những nghi kỵ, thành kiến và gán mặc cho người khác những điều mà cả cuộc đời của họ không sao ngóc đầu lên được, chỉ vì một lần trong đời họ bị lỡ...

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Thật vậy, vì ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo, nên đã không ít lần chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:

Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi cướp” thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm... thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu sự suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích... những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo.

v.v.

Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì “vẽ đường cho voi chạy”; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời. Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế! Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa. Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình” (Rm 2,1). Đồng thời tự cho mình là đạo đức, tốt lành, nên không thuộc về hàng ngũ những tội nhân cần được đón nhận ơn tha thứ. Thực ra, không ai là người vô tội trước mặt Chúa cả: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1, 8).

Vì thế, ta sẵn sàng bỏ qua những thiếu xót của mình, nhưng lại tìm mọi cách bôi nhọ những thiếu xót của anh em. Những người như thế, Đức Giêsu đã cảnh báo: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42). Đây phải chăng cũng là tình trạng mù tâm linh!

Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Nhưng thái độ đó của Ngài cho chúng ta thấy rằng: Con Thiên Chúa sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: “...giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.

Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.

Thật thế, là môn sinh của Thầy Chí Thánh, ánh mắt của ta là ánh mắt nhân từ để cảm thông; đôi chân của ta luôn tiến về phía người tội lỗi, bất hạnh để cùng đồng hành với họ và đôi tay biết dang rộng để nâng dạy những người tội lỗi, giúp họ đứng lên và cùng ta tiến về phía trước. Được như thế, hẳn sẽ không thiếu những vị thánh xuất thân từ hàng ngũ của người tội lỗi!

Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều đó. Trong số rất nhiều vị thánh mà một thời đã “thượng vàng hạ cám”, chúng ta xin đưa ra một số nhân vật tiêu biểu đã được cải hóa nhờ lòng nhân từ của Thiên Chúa như: Mátthêu, người thu thuế; Phêrô, người trối Chúa; người phụ nữ ngoại tình; người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp; Augutinô... và còn biết bao vị thánh lỗi lạc khác mà trước đó họ là những côn đồ, gái điếm, trối Chúa, bỏ đạo...! Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá đáng để chúng ta suy ngẫm: “Lạy Cha, xin tha cho họ...". Thử hỏi rằng trên trần gian này có tội gì nguy hại và đáng phạt cho bằng tội giết con Đức Chúa Trời? Nhưng Đức Giêsu sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ giết mình.

Như vậy, Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu thương, cảm thông và tha thứ cho anh chị em, xin cho chúng con được nhạy bén với Thánh Ý của Chúa, để không bị tình trạng sáng mắt thể lý, nhưng lại mù về đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Amen.

 

71. Đức Giêsu: Ánh sáng cứu độ trần gian

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Câu chuyện Đức Giê-su chữa cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng hôm nay cho thấy: Người chính là Ánh Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng khiêm hạ mới đón nhận được ánh sáng đức tin ấy. Còn những kẻ tự mãn mình sáng mắt như các người đàu mục dân Do thái lại bị mù tối về đức tin vào Đức Giê-su.

CHÚ THÍCH:

- C 1-5: + Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù: Cựu Ước thường cho rằng: tai nạn, bệnh tật và đau khổ là hình phạt do tội lỗi của chính tội nhân (x. St 3,3) hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Ở đây Đức Giê-su cũng đồng quan điểm ấy khi nói: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga 5,14). + Là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh: Đức Giê-su coi bệnh tật như một tai họa mà con người phải chịu đựng, như một quyền lực của Sa-tan đang đè trên con người mà Người có sứ mạng đến để giải thoát họ (x. Lc 13,16).

- C 6-9: + Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù: Về phạm vi khoa học thì chất bùn này sẽ làm cho bệnh nhân bị mù. Nhưng về mặt biểu tượng thì theo các nhà chú giải Kinh Thánh: Khi làm như vậy là Người muốn thử thách đức tin của người mù và của những kẻ chứng kiến. + Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa: Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai đến”. Như nước hồ của “Người được sai phái” đã cho người mù từ thuở mới sinh xem thấy thế nào, thì “Đấng Được Sai” cũng ban ánh sáng đức tin mặc khải cho những ai đang ở trong bóng tối tội lỗi và sự chết như vậy.

- C 35-41: +Anh có tin vào Con Người không?: Sau khi mở mắt thể xác để anh mù được nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở mắt đức tin cho anh. Vì thế Người đặt câu hỏi để khơi dậy niềm tin vào Người giống như Người đã làm đối với người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26). + Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: Xét xử không phải lên án (x. Ga 3,17), nhưng là chiếu soi ánh sáng để cho thấy những điều thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21). + Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù: Câu này tương tự lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (x. Mt 11,25).

CÂU HỎI:

1) Đối với các tín hữu, bệnh tật có phải do tội lỗi gây ra không? 2) Việc Đức Giê-su lấy bùn thoa vào mắt người mù để chữa bệnh có ý nghĩa biểu tượng thế nào? 3) Tại sao Đức Giê-su lại ra lệnh cho anh mù đến rửa mắt tại hồ Si-lô-ác? 4) Tại sao Đức Giê-su lại nói: "Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù"?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9,39).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Xin được sáng mắt nếu có ích cho phần rỗi đời đời:

Có một anh chàng nọ bị mù từ khi mới sinh. Anh rất có lòng đạo nên năng cầu nguyện tự phát và thường kết thúc lời nguyên bằng kết thúc lời cầu của mình bằng câu: ”Xin Chúa ban cho con được sáng mắt « Nếu điều đó hữu ích cho phần rỗi của con”. Một hôm, người ta dẫn ông mù đến trước mộ của thánh Tô-ma Can-tô-be-ry để xin Người làm phép lạ chữa lành cho cặp mắt của ông. Lời cầu nguyện của ông đã được chấp nhận và mắt của ông đã mở ra được để nhìn xem cảnh vật chung quanh và ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Khi niềm vui khỏi bệnh trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện câu kết thúc quen thuộc: ”Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con”.

Lập tức ông liền quay trở lại viếng mộ thánh nhân để xin được mù trở lại « Nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn con ». Sau lời cầu này, mắt ông đã bị mù như trước. Tuy nhiên từ ngày đó ông mù đã bằng lòng với sống an vui và không bao giờ còn muốn được sáng mắt nữa.

2) Đâu là lúc trời sắp sáng?

Một vị ẩn sĩ hỏi các đồ đệ rằng: “Đâu là lúc đêm sắp tàn và ngày sắp đến?” Nhiều câu trả lời của các học trò được nêu ra: Kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt được một con bò với một con trâu… Cuối cùng đáp án đúng nhất mà vị ẩn sĩ muốn dạy như sau: “Đó là khi ta nhìn người khác và nhận ra họ là anh em của ta”.

3. SUY NIỆM:

1) Đức Giê-su chữa người mù từ khi mới sinh được sáng mắt:

Khi đi ngang qua, Đức Giê-su đã nhìn thấy một ngừời mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Các môn đệ nêu thắc mắc theo quan điểm của người Do thái đương thời về tội lỗi như sau: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giê-su không trực tiếp trả lời, mà Người chỉ nói:”Chuyện đó xẩy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”.

Tiếp đến Tin Mừng thuật lại việc chữa bệnh mù của Đức Giê-su bằng nghĩa là ững cử chỉ mang tính biểu tượng như sau: ”Đức Giêsu nghĩa là ỏ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: ”Anh hãy đi đến suối Si-lo-ê mà rửa (Si-lo-ê có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì thấy được” (Ga 9,6-7).

2) Cuộc điều tra của các đầu mục Do thái:

Nghĩa là ững người Biệt phái không chấp nghĩa là ận Đức Giê-su đã làm phép lạ chữa lành cho người bệnh mù nên họ đã mở một cuộc điều tra rộng rãi: Trước hết họ mời người bị mù đã được Đức Giê-su chữa lành đến tra vấn về nghĩa là ững gì đã xảy ra cho anh, rồi cả nghĩa là ững người láng giềng và cha mẹ của người mù cùng được mời đến để điều tra thực hư. Trước phép lạ hiển nhiên không thể phủ nghĩa là ận được, các người Biệt phái đã tìm cách gây khó dễ cho người mù. Tuy nhiên anh mù này do đã có một đức tin kiên cường vào Đức Giê-su, nên anh không dễ dàng khuất phục trước cường quyền, anh đã thuật lại rành rẽ các việc Đức Gie-su đã làm để chữa bệnh cho anh và anh còn nói lên suy tư của anh về nguồn gốc thần linh của Người như sau: ”Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,30-33).

3) Về tiến trình anh mù được sáng lòng để từng bước tin vào Đức Giê-su:

Trong suốt cuộc gặp gỡ đối thoại với Đức Giê-su, anh mù đã được Người soi sáng để từng bước khám phá sự thật về vai trò cứu độ của Người: Từ “một người tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ!” (17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Sau cùng khi đã được Đức Giê-su mặc khải mình là Con Người (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin” và anh thể hiện lòng tin bằng việc khiêm hạ sấp mình thờ lạy Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn đi tìm Chúa mới được Người cho gặp và mới nghĩa là ận được ơn Chúa chiếu soi ánh sáng để đạt được đức tin. Trái lại, nghĩa là ững ai tự kiêu lại tưởng mình sáng mắt, có sự hiểu biết sự vật bề ngoài lại trở nên mù tối về đức tin, như Người đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (39).

4) Sám hối canh tân trong Mùa Chay thánh:

- Nghĩa là ững nguyên nhân của bệnh mù tinh thần: Thói ích kỷ làm chúng ta ra mù tối không nhìn thấy nhu cầu của tha nhân bên cạnh mà chỉ tìm kiếm thỏa mẫn các quyền lợi của mình như người giàu trong dụ ngôn anh La-da-rô nghèo khổ. Thói vô cảm làm chúng ta bị mù tình thương nên dễ làm ngơ trước nghĩa là ững anh chị em đang cần được trợ giúp; Thói tự kiêu làm chúng ta bị mù không nhìn thấy thói hư bản thân mà chỉ thấy nghĩa là ững điều xấu nơi tha nhân mình không thích. Mỗi người chúng ta đều đeo hai cái túi: Túi trước mặt là các ưu điểm và thành tích của mình, còn túi sau lưng đựng những thói hư tật xấu. Thường chúng ta chỉ thấy ưu điểm của mình và khuyết điểm của tha nhân. Để biết mình ra sao, chúng ta cần phải biết hồi tâm sám hối. Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để nghĩa là ận biết thói hư của mình và quyết tâm tu sửa nên hoàn thiện hơn.

- Cần xét đoán dưới ánh sáng của Lời Chúa: Ngày xưa Đức Chúa đã hướng dẫn ngôn sứ Sa-mu-en chọn một trong các con của Giét-sê để xức dầu tấn phong làm vua như sau: “Đừng xét theo hình dáng và voc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm. Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (Sm 16,7). Hãy năng tham dự các buổi tĩnh tâm, hiệp sống Tin Mừng và chọn đọc nghĩa là ững câu Lời Chúa phù hợp tinh thần sám hối trong các giờ kinh tối gia đình hằng ngày.

- Cần tập hành xử khiêm tốn: Trong bất cứ việc gì, cần ý thức mình chỉ thấy chỉ biết một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng nổi lên trên mặt biển. Còn những điều chưa biết thì to lớn và chìm sâu bên dưới mặt nước. Do đó, thay vì tranh cãi nhau như năm anh mù đi xem voi cãi nhau về nghĩa là ững điều mình không biết rõ, chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe tha nhân. Hãy chấp nhận sự giới hạn của mình, chấp nghĩa là ận nghĩa là ững điều mình biết là chưa đầy đủ, chưa phải là chân lý để tiếp thu thêm kiến thức của tha nhân; Cần ý thức các ưu điểm của mình cũng chỉ có giới hạn như người xưa đã dạy: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một người giỏi chắc chắn sẽ có người khác giỏi hơn đánh bại). Do đó chúng ta cần hành xử khiêm tốn để luôn tôn trọng tha nhân, biết lắng nghe ý kiến của người khác và sẵn sàng tiếp thu các góp ý để nghĩa là ận ra con người thật của mình, vì “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!” và đó là phương thế giúp thành công trong mọi việc: “Biết mình biết người trăm trận trăm thắng”. Cần biết lắng nghe tha nhân: Nghe không nghĩa là ững lời khen mà cả nghĩa là ững lời phê bình chê trách, và tránh xa nghĩa là ững lời nịnh hót như người xưa dạy: “Ai khen ta mà khen phải thì là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Còn ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy”.

4. THẢO LUẬN:

Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để có thể nhận biết về con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn?

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Chúa Giêsu: Xin đừng để sự ác cảm và thành kiến che mắt, làm cho chúng con không nhìn thấy những ưu điểm của người khác. Xin cho chúng con luôn khiêm tốn nhận ra khuyết điểm lầm lỗi của mình để sửa sai. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, nơi bản thân con và nhất là nơi anh em con để sẵn sàng yêu mến và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa hầu xứng đáng nên môn đệ thực sự của Người.

- Lạy Chúa: hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý… Nhất là đang bịt tai nhắm mắt vì sự cứng lòng tin như nghĩa là ững người Pha-ri-sêu khi xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa, biết rõ con để không dám tự mãn và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày một nên giống Chúa hơn.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

72. Sáng mắt sáng lòng – Như Hạ

Ánh sáng và bóng tối vẫn giao tranh ác liệt. Bóng tối không ngừng gieo rắc tai họa khắp nơi. Nhưng ánh sáng đã thắng lớn khi Đức Giêsu ra tay "để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa" (Ga 9,3) nơi "một người mù từ thuở mới sinh." (Ga 9,1)

Thui ra mới biết béo gầy

Mặt trận chia làm hai phe rõ rệt. Một bên là "môn đệ của ông Môsê" (Ga 9,28). Bên kia là "môn đệ của ông ấy" (Ga 9,28) tức là Đức Giêsu. "Các môn đệ của ông Môsê" lớn tiếng kết án Đức Giêsu "là người tội lỗi." (Ga 9,24) Cả anh mù cũng bị lên án: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu." (Ga 9,34) Tất cả "không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát." (Ga 9,16) Đó là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá con người. Cả một màn đêm bao phủ tinh thần nệ luật. Bóng tối đã làm tê liệt khả năng đối thoại và nhìn nhận sự thật. Đúng như Chúa nói: "đêm đến, không ai có thẻ làm việc được." (Ga 9,4).

Không chỉ lên án Đức Giêsu, họ còn "đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô." (Ga 9,22) Anh mù bẩm sinh đã trở thành nạn nhân của lối nhìn khắt khe đó (x. Ga 9,34) Mặc dù biết rõ sẽ bị lên án, anh vẫn can đảm nói lên sự thật: "Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi ; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy." (Ga 9,31) Lập luận đanh thép đó đương nhiên dẫn đến kết luận: Đức Giêsu là "người bởi Thiên Chúa mà đến." (Ga 9,33) Ý Thiên Chúa là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá và phân hạng con người.

Cuối cùng chiến thắng sẽ thuộc về ánh sáng. Quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu đã đưa anh mù vào vùng ánh sáng. Phép lạ lớn lao đó không thể không tác động đến toàn thể con người và cuộc đời anh. Khi còn chìm ngập trong đêm tối, anh như mất tất cả. Sau khi "đến hồ Silôac mà rửa", anh đã "nhìn thấy được." (Ga 9,6-7) Ánh sáng đã thay đổi toàn diện con người anh. Anh rất bén nhậy trước nguồn ánh sáng đang ùa tràn vào con mắt và tâm hồn. Anh không thể không nói lên sự thật. Trước mặt những người Pharisêu anh dõng dạc làm chứng. Sau khi đã được mạc khải rõ về Con Người, anh còn tuyên xưng: "'Thưa Ngài, tôi tin.' Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người," (Ga 9,38) với tất cả niềm tri ân cảm tạ hồng ân giải thoát anh khỏi vùng tối tăm. "Người mù đã được sáng mắt, giờ đây độ sáng tinh thần đang tăng lên nhờ nhận ra Đức Giêsu." (Faley 1994,258) Anh đã sáng mắt sáng lòng.

Người mù bẩm sinh đã đón nhận được ánh sáng và nguồn ân sủng đó, nên đã thành một chứng nhân phi thường cho Đức Giêsu trước quyền bính. Tại sao anh có một sức mạnh lớn lao đó? Còn ai cảm nghiệm được bề dầy của đêm tối bằng người mù bẩm sinh? Phá sập bức tường tăm tối đó, Đức Giêsu đã chinh phục được trọn vẹn tâm hồn anh mù từ bẩm sinh. Mặc dù không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu (x. Ga 9,12), nhưng anh mù vẫn mạnh mẽ tuyên xưng "Người là một vị ngôn sứ" (Ga 9,17) và "tin vào Con Người," (Ga 9,35) Đấng từng hứa: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (Ga 12,32,34)

Phép lạ đã trở thành dấu chỉ rõ nét nhất về nguồn ân sủng đó. "Các môn đệ của ông Môsê" có dư phương tiện để tìm hiểu sự thật. Thế nhưng, dù nắm đầy đủ bằng chứng, họ vẫn không nhích được một bước. Không hi vọng có một chút thay đổi nào nơi những não trạng duy luật đó. Họ mất hết bén nhậy trước những thực tại tươi rói của Tin Mừng. Những đầu óc chai cứng đó không thể mở ra đón nhận bất cứ chân lý mới mẻ nào nữa. Đó là những người chỉ đọc một sách. Trái lại, người mù bẩm sinh chưa hề đọc cuốn sách nào lại dễ mở lòng đón nhận chân lý là Đức Giêsu. Trước luận điệu những người Pharisêu khăng khăng buộc tội Đức Giêsu, anh cương quyết bênh vực: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" (Ga 9,25) Nói thế có khác gì thánh Phaolô, đấng từng quả quyết: "Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá." (1 Cr 2,2) Một chứng từ quá đủ để cho anh tìm ra sự thật giải thoát. Trái lại, vì không tìm ra sự thật đó, nên các người Pharisêu vẫn cứ luẩn quẩn tìm cách kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Càng tìm cách củng cố lập luận, càng bị sa lầy. Sau bốn lần hội kiến với các nhân chứng, họ vẫn không tìm ra sự thật. Đúng hơn, họ đã cố tình bẻ cong và cô lập sự thật. Không ai điếc bằng người không muốn nghe. Họ bắt buộc phải nghe một sự thật từ miệng Đức Giêsu: 'Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù.'"(Ga 9,39) Bởi đấy, nguy cơ lớn nhất đã đến, khi Đức Giêsu phán quyết: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn đó." (Ga 9,41) Cuối cùng mới rõ trắng đen.

Ánh sáng trần gian

Sau khi bị lên án như thế, chắc chắn người Pharisêu vẫn chưa sáng mắt sáng lòng để nhận ra Đức Giêsu "là ánh sáng thế gian." (Ga 9,5) Họ đồng lõa với bóng tối. Ngày nay, bóng tối đó vẫn phủ ngập trân gian và lăm le triệt hạ ánh sáng. Thế nhưng, "bóng tối đã không diệt được ánh sáng." (Ga 1,5) Chẳng hạn, bóng tối tràn ngập xã hội Ấn độ khi một nhóm Ấn độ giáo cực đoan tấn công các tu sĩ Công giáo và thí điểm truyền giáo tại Sanjeli, vào ngày 2/3/2002 vừa qua (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002). Giáo Hội vẫn không tìm cách trả thù. Nhưng một đàng các người Kitô hữu Ấn độ kêu gọi những người thiện chí đoàn kết để cô lập nhóm quá khích cuồng tín và tái lập hòa bình. Đàng khác, Giáo Hội vẫn tin tưởng rằng "việc chung sống nhân danh tôn giáo là con đường dẫn tới hòa bình, chứ không phải là dịp tạo ra chiến tranh. Thập điều Assisi hiện nay gây ấn tượng mạnh vì hòa bình trở thành một cam kết chung, chứ không phải chỉ là lời kêu gọi vượt qua những đối đầu kiểu chiến tranh." (Riccardi: ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Hơn lúc nào, nhân loại cần đến "ánh sáng trần gian" để nhìn ra sự thật và chung sống hòa bình. ĐGH Gioan Phaolô II quả quyết Giáo Hội Công giáo "sẽ tiếp tục cam kết thập điều Assisi chân chính, sự tha thứ cho nhau và đồng tâm nhất trí với nhau sẽ hướng dẫn nhịp sống nhân loại trong đệ tam thiên niên kỷ này." (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Người còn cho biết "tinh thần và sự cam kết ở Assisi sẽ hướng dẫn mọi người thiện chí đi tìm chân lý, công lý, tự do, tình yêu để mỗi người có thể hưởng những quyền lợi bất khả nhượng và mỗi quốc gia được hòa bình." (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Điều 3 trong thập điều Assisi nói rõ: "Chúng tôi cam kết cổ võ một nền văn hóa đối thoại để sự hiểu biết và tin tưởng có thể phát triển giữa cá nhân và các dân tộc như những điều kiện để đạt đến một nền hòa bình đích thực." (CWNews 4/0/2002) Quả thực, khi con người chấp nhận đối thoại, vấn đề nào cũng có thể giải quyết được. Tôn trọng những khác biệt của nhau là điều kiện cần cho cuộc chung sống. Bởi thế, điều 5 trong thập điều Assisi quả quyết: "Chúng tôi cam kết thành tâm và kiên nhẫn dấn thân vào cuộc đối thoại, bất chấp những khác biệt, chúng tôi nhận thức rằng đối diện với những khác biệt đó có thể là một cơ hội lớn để hiểu biết nhau hơn." (CWNews 4/0/2002) Nhưng nếu không có "ánh sáng trần gian", chúng ta không thể thấy những nét kỳ diệu trong các tôn giáo và văn hóa. Bởi thế, Đức Giêsu mới bảo đảm cho muôn dân một cuộc sống phong phú và một nền hòa bình lâu dài.

home Mục lục Lưu trữ