Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 48
Tổng truy cập: 1371391
NGÀY THỨ NHẤT
Phúc âm của thánh Gioan viết là ‘ngày đầu tuần’ và thánh Matthêô, Marcô và Luca gọi là ‘ngày thứ nhất trong tuần’, từ sáng sớm khi trời còn tối thì các bà ra thăm mộ và thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. Ngôi mộ trống. Xác Chúa Giêsu không còn ở đó. Được báo tin, ông Phêrô và Gioan cùng chạy ra xem. Các ông chỉ thấy những khăn liệm và những giây băng còn lại đó. Đây là sự kiện nền tảng đã làm thay đổi tất cả. Một sự kiện chưa bao giờ xảy ra. Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Sự kiện mồ trống và việc Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người đã mở ra một kỷ nguyên mới của Nước Trời. Khởi đầu là ngày thứ nhất trong tuần, không còn theo ấn định ngày Sabát của Đạo Do-thái. Nước Trời không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Chúa Giêsu đã mở một biên cương ngang qua ngưỡng cửa của sự chết tới sự sống lại.
Ánh sáng thật đã dọi chiếu vào thế gian. Chúa Giêsu đã phá tan bóng tối của sự chết và mở đường dẫn vào sự sống thật. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự sống được trao ban cho mọi loài, nhất là con người. Sự sống không bị tiêu diệt nhưng sự sống được thăng hoa. Sự sống cụ thể sẽ dẫn đến một sự sống tinh tuyền. Chúa Giêsu đã phán dậy: Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời (Mt 22,30). Sự sống đời đời vì Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Thiên Chúa là Chúa của các kẻ sống. Thiên Chúa không tạo dựng con người để rồi bị tiêu diệt về hư vô. Đây chính là niềm hy vọng sự sống lại của chúng ta. Trong khi đối thoại với nhóm Sađucêo, họ không tin có sự sống lại, Chúa Giêsu đã trưng câu Kinh Thánh: Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống." (Mt 22,32)
Mỗi người chúng ta chỉ có kinh nghiệm về sự sống trong vật thể hay thân xác. Sự sống của thực vật, động vật và con người. Sự sống có nhiều cấp bậc, từ đơn sơ cho đến phức tạp. Điều kiện quan trọng nhất của sự sống là cần có nước, khí thở và của ăn nuôi dưỡng. Thiên Chúa đã quan phòng đặt để tất cả mọi điều kiện sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." (Stk 1,20). Sự sống liên kết với vật chất và thể xác làm cho một vật sống. Sống là có sự chuyển động tự bên trong ra bên ngoài. Tiên tri Êdêkiel diễn tả: Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống (Êdêkiel 47,9).
Quan sát tất cả các loại thảo mộc từ những sợi rong rêu bé tí cho tới những cây cổ thụ già cỗi, đều có sự sống luân chuyển hấp thụ dưỡng nuôi. Thực vật có sinh, có phát triển và có chết. Các loài động vật cũng thế, từ những siêu vi khuẩn nhỏ li ti cho tới những con khủng long vĩ đại, đều có sự sống tiềm ẩn và nẩy sinh trong cơ thể. Mỗi loài thực vật cũng như động vật đều có sự truyền sinh riêng biệt. Sự sống nào cũng cần có sinh trưởng như hấp thụ, ăn uống, phát triển, già nua và diệt vong. Thiên Chúa tác tạo loài người có xác, có hồn và có khả năng phát triển không ngừng. Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng con người và ban sự sống: Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (Stk 2,7). Chúng ta không thể hiểu về mầu nhiệm sự sống. Chúng ta chỉ biết chiêm ngưỡng và cảm nghiệm sống.
Sự sống trao ban sự sống. Khi sự sống đã khởi đầu dù chỉ trong trứng nước là đã đi vào hiện hữu. Mỗi một sự sống là một qùa tặng vô giá của Thượng Đế. Con người không làm ra được sự sống nhưng chỉ nhận lãnh. Ngày nay con người dùng khoa học tân tiến để chiếm đoạt bản quyền của Đấng ban sự sống. Họ muốn ghép tạo ra sự sống theo ý họ. Con người đi tìm đủ mọi cách tiêu diệt sự sống tự nhiên để chuyển hoán qua sự sống nhân tạo. Chính con người đã toa rập giết chết Đấng trung gian sự sống. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã viết: Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng (Tđcv 3,15).
Chúa Giêsu là chính nguồn ban sự sống. Mỗi người chúng ta đều được chia sẻ sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Sự sống nối dài từ đời này qua đời kia. Sự sống được chuyển đổi chứ không mất đi. Đức Giêsu phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11,25). Sự sống lại thật không còn tùy thuộc thân xác như cần ăn uống, hít thở mà là giống như các thiên thần. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và mang lại sự sống thật cho những kẻ đặt niềm tin nơi Chúa. Sự sống của chúng ta được ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,36).
Chúa Giêsu đã trút hơi thở trên thánh giá. Chúa đã từ giã cõi trần. Chấm dứt sự sống nơi thân xác. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở (Lc 23,46). Sự sống tạm cần phải thoát ly khỏi thân xác hay hư nát. Như hạt giống bị chôn vùi và tan rữa để sinh ra mầm sống. Chúa Kitô giã từ thân xác mà Ngài đã mặc lấy để trở thành con người. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh cứu độ trên thập giá. Chúa luôn mở rộng cánh cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào. Nhận lãnh ơn cứu độ là trách nhiệm riêng của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hay từ chối ơn cứu độ. Chúa không ép buộc chúng ta nhưng Chúa ban đủ ân sủng để giúp chúng ta thắng đạt.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3,17). Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin vào Chúa, có nghĩa là phải sống và thực hành lời Chúa dậy. Đức tin không có việc làm là đức tin mơ hồ, trừu tượng và lý thuyết. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa yêu thương sống động. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống." (Lc 20,38). Vũ trụ chuyển động, mọi sự sinh động và tất cả sinh linh đều đang sống trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa hằng hiện hữu và làm việc luôn. Thánh Gioan ghi rằng: Đức Giêsu đáp lại, "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc." (Ga 5,17).
Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, là hoa qủa đầu mùa của những kẻ an giấc. Thánh Phaolô viết: Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu (1Cr 15,20). Chúa Giêsu mở đường sự sống và đem lại cho chúng ta niềm hy vọng viên mãn. Chúng ta biết rằng vật chất thì thay đổi, tan biến và hư nát. Mọi vật hiện hữu trên trần thế rồi lại trở về hư vô cát bụi. Chỉ có Thần khí mới ban sự sống: Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống (Ga 6,63). Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Alpha và Ômega, là khởi điểm và là cùng đích. Mọi sự đều phải qui thuộc về Ngài. Hy vọng sau cuộc đời lữ hành dương thế, chúng ta sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với Ngài. Alleluia!
32. Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh
(Bài giảng của ĐGM Giuse Nguyễn Năng – Lm Phêrô Nguyễn Hồng Phúc ghi)
Anh chị em thân mến!
Đêm Chúa Phục Sinh, chúng ta ca hát Halleluia! Và Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa đã sống lại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta rất khó cảm nhận được niềm vui của Mùa Phục Sinh, của Đêm Vọng Phục Sinh này. Khi anh chị em mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta cảm nhận niềm vui ấy dễ dàng. Vì ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự sinh ra. Cha mẹ sinh ra con cái và người con được chào đời. Đó là niềm vui cho gia đình, cho xã hội, cho tất cả loài người. Trong Đêm Giáng Sinh, chúng ta cảm thấy mình vui một cách rất tự nhiên. Với Đêm Vọng Phục Sinh hôm nay thì chúng ta lại không có cảm nhận ấy. Phải nói rằng, cái cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh này, cái cảm nhận đầu tiên không phải là cảm nhận vui mừng mà là cảm nhận của một nỗi sợ hãi.
Bài Tin Mừng năm nay là Phụng vụ năm B theo thánh Macco (Mc 16, 1-7). Thánh Macco thuật lại câu chuyện về những người phụ nữ vào buổi sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, mang theo bình dầu thơm ra xức dầu cho Chúa, bởi vì chiều hôm qua Chúa chết vào giờ muộn quá, không kịp xức dầu thơm để ướp xác Chúa. Cho nên sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà mới vội vã ra đi, và khi các bà ra tới tận mộ thì các bà đã cảm nhận được điều gì đó. Chỉ trong 8 câu Tin Mừng, mà thánh Macco đã nhắc đi nhắc lại sự sợ hãi rất nhiều lần. Như là các bà ra mộ, nhìn thấy dấu chỉ của Thiên Thần đến loan tin Chúa đã sống lại, Chúa không còn ở trong mộ nữa. Thiên Thần trấn an: “Các bà đừng sợ! Bởi vì Chúa đã sống lại rồi”. Sau khi nhận được lời từ Thiên Thần nhắn với các tông đồ đến Galile và Chúa sẽ gặp các ông ở đấy thì các bà vội vàng chạy về. Vừa đi vừa run lẩy bẩy, kinh hoàng hết hồn hết vía. Những người phụ nữ đi mà không dám nói với ai điều gì. Bởi vì các bà sợ. Thánh Macco đã nói với chúng ta như vậy.
Cho nên, kinh nghiệm và cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh không phải là niềm vui, mà là sự sợ hãi. Tại sao lại sợ hãi? Sợ hãi là bởi vì, ở đây, con người đang đứng trước sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Người ta sợ vì nhiều lý do. Nỗi sợ tự nhiên, đó là con người đứng trước thiên nhiên, sóng cao biển cả, bão táp thì con người thấy mình nhỏ bé quá, con người bất lực nên con người sợ. Con người sợ vì mặc cảm tội lỗi, vì những việc làm xấu, sợ tiếng lương tâm oán trách, sợ Thiên Chúa phạt. Nhưng vẫn còn nỗi sợ khác, nỗi sợ của sự thánh thiện. Nỗi sợ khi mà mình đối diện với quyền năng của Thiên Chúa. Nỗi sợ khi mà đối diện với sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử của nhân loại. Điều ấy đã xảy ra trong Đêm Vọng Phục Sinh này.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh, những người phụ nữ sợ sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong nhân loại. Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã đi vào qui luật bình thường của con người, đó là có sinh có tử. Nhưng cho tới ngày hôm nay, dòng nhân quả, một diễn tiến tự nhiên của dòng đời đã bị cắt đứt, vì hôm nay, chính Thiên Chúa can thiệp và Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết. Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, những người phụ nữ đã sợ. Chính cái cảm nhận sợ hãi này, là bằng chứng, cho dù không đủ, nhưng là bằng chứng rất mạnh cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để Chúa Giêsu sống lại. Khi Chúa Giêsu sống lại thì Chúa đã chiến thắng sự chết. Chúa đã chiến thắng đau khổ, tội lỗi và hận thù!
Trong những ngày vừa qua, chúng ta đã suy niệm về những mầu nhiệm Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và Chúa Giêsu hiến mình trên cây Thánh Giá. Chúng ta nói rằng, Chúa Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc sống mới, một qui luật sống mới. Đó là qui luật của sự quên mình để sống cho người khác, để phục vụ cho anh chị em của mình. Tuy nhiên, tình yêu ấy đã bị phản bội, tình yêu ấy đã bị kết án. Nhưng nếu chỉ có vậy mà thôi thì không ai dại gì mà yêu thương, không ai dại gì mà hiến mình thay cho người khác. Nhưng hôm nay, chúng ta thấy câu trả lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Những ai yêu thương, người ấy không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chúa muốn khẳng định với chúng ta rằng: Thiên Chúa chiến thắng sự chết. Thiên Chúa là tình yêu đã chiến thắng hận thù. Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi và ai đi theo Chúa Giêsu thì người ấy không bao giờ phải thất vọng. Đó là lời quả quyết, mạnh mẽ mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà người ta gọi là, thế giới của nền văn minh sự chết. Người ta sống trong hận thù, trong chiến tranh, trong bạo lực, có thể chém giết nhau bất cứ lúc nào. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những sự ích kỷ, những tham nhũng, những bóc lột, những chèn ép và cạm bẫy xảy ra hàng ngày trong xã hội và trên thế giới. Chúng ta đang sống trong xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ, hay đi tìm khoái lạc. Một xã hội tội lỗi của cá nhân, tội lỗi của thế giới, tội lỗi của toàn thể nhân loại. Xã hội này, thế giới này, nhân loại này cứ theo qui luật bình thường như vậy thì chắc chắn sẽ đi tới tận diệt. Cuối cùng sẽ là cái chết. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng, cũng như dân Do Thái ngày xưa (x. Xh 14,15.15,1a), khi phía trước là biển cả, sau lưng là quân đội Ai Cập, họ cảm thấy cái chết gần kề, cảm thấy cùng đường, cảm thấy bế tắc, cảm thấy thất vọng. Nhưng chính trong sự thất vọng ấy thì Thiên Chúa đã can thiệp, đã mở đường cho dân Do Thái đi qua biển Đỏ. Đó là sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh báo trước cho sự can thiệp vĩ đại hơn nữa. Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đi, Chúa Giêsu đã chết nhưng đã sống lại, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn đường cho dân Do Thái đi thì hôm nay Chúa Giêsu cũng dẫn đường cho chúng ta đi. Và nếu chúng ta đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ tìm thấy niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy chết chóc và tăm tốinày. Chúng ta hãy để cho Chúa dẫn mình đi, chúng ta hãy để cho Chúa thực hiện công trình, quyền năng của Người nơi cuộc đời chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta phải là sứ giả của niềm hy vọng. Niềm hy vọng không phải ở nơi tiền bạc, nơi của cải vật chất. Niềm hy vọng không phải là sức mạnh của quân đội, chính trị, nhưng là niềm hy vọng của sự thật và tình yêu. Chúng ta tin vào Chúa, chúng ta hãy đi theo Chúa.
Hôm nay, Chúa Giê su đã sống lại, Chúa mở đường cho chúng ta đi. Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy. Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta nhìn ngắm cây nến Phục Sinh. Đó là biểu tưởng hết sức ý nghĩa. Thế giới tăm tối này, nếu không có ánh sáng của Chúa thì vẫn chìm ngập trong bóng đêm, vẫn là tăm tối, vẫn là tội lỗi, vẫn là chết chóc. Nhưng ánh sáng của Chúa đã thắp lên để chiếu soi thế giới, chiếu soi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Anh chị em hãy nhìn lên ánh sáng của Chúa Giêsu để mà tiến bước. Ánh sáng này, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của tình thương Phúc Âm, luôn luôn bị những cơn lốc, những cơn gió của tội lỗi tìm cách làm tắt đi. Cơn gió của trào lưu tục hóa, luôn luôn muốn thổi mạnh lên thành bão táp để làm tắt ngúm cây nến Phục Sinh, là Lời Chúa, là tình thương của Chúa. Thánh Gioan lại khẳng định, bóng tối tìm cách trấn áp ánh sáng nhưng mà không bao giờ lại có thể làm tắt được ánh sáng của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa, một khi đã được đốt lên thì chúng ta cứ tin tưởng mà bước theo Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại, đó là lời bảo đảm cho chúng ta rằng Ánh sáng của Chúa Giêsu sẽ còn mãi.
Khi Chúa Giêsu sống lại, Chúa đã đưa chúng ta sang bờ bên kia của biển Đỏ. Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta từ cõi chết tới cõi sống. Chúa Giê su đã đặt thế giới này trong tình trạng “bất khả hồi”, không bao giờ có thể chịu thua quyền lực của sự chết. Như thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Chúa qua bí tích Rửa tội”( x. Cl 2,12). Chúng ta ngồi đây, theo qui luật tự nhiên, chúng ta sẽ phải chết. Nhưng trên nguyên tắc, nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đang ngồi đây, chúng ta đã có sự sống lại của Chúa Giêsu rồi. Đức Kitô Phục Sinh đang ở trong chúng ta. Thần Khí của Thiên Chúa là chính Chúa Thánh Thần đang ở trong chúng ta. Chúng ta được đưa vào thế giới của sự sống, thế giới của ánh sáng. Hãy giữ lấy ngọn nến mà anh chị em đã thắp lên ở trong tay của mình, ngọn nến của linh hồn. Chúng ta hãy để cho Tin Mừng của Chúa chiếu soi chúng ta, và cho dù chúng ta có phải chết về phần xác, nhưng đừng để tâm hồn của chúng ta chết trong tội lỗi.
Anh chị em thân mến!
Anh chị em hãy luôn luôn giữ ngọn nến linh hồn mình để trở thành sứ giả của niềm hy vọng. Anh chị em hãy công bố cho mọi người biết khi chúng ta theo Chúa thì chúng ta sẽ được sống. Anh chị em hãy gieo rắc niềm hy vọng trong cuộc đời đầy tăm tối, đầy lo âu, đầy hận thù, chết chóc, đầy những ích kỷ của thế giới này. Chúng ta phải sáng lên niềm hy vọng nơi chân lý Phúc Âm. Chúa Giêsu đã sống lại, chúng ta hãy hát mừng, mà chỉ có người nào thực sự cảm nhận niềm vui ấy, mới có thể hát lên “Halleluia!”. Cho nên từ cảm nhận nỗi sợ hãi, chúng ta tiến tới niềm vui và cảm nhận niềm vui mừng, bởi vì Chúa đã sống lại!
Trong niềm vui Chúa đã sống lại, tôi xin chúc mừng niềm vui tới tất cả mọi người, xin cho ngọn nến Phục Sinh này cháy sáng mãi trong cuộc đời của anh chị em. Xin niềm vui và bình an của Đức Kitô Phục Sinh ở lại mãi với tất cả mọi người chúng ta. Amen.
33. Niềm hy vọng
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vùi trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đã thấy Thầy mình chăng? Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không? Phúc âm thánh Luca tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong băng vải? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục sinh? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì? Cử chỉ đó hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã cống hiến cho chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu toả cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
34. Niềm tin
Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”, đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.
Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì “chết là hết”, đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.
Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Tuy nhiên, biến cố Phục sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó. Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, truyện trò, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã Phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh, tất cả đều có thật.
Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.
Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.
35. Trở nên tạo vật mới – Lm. Minh Vận
Giáo Hội Đông Phương có một tục lệ rất hay và có nhiều ý nghĩa trong ngày mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh. Sau khi việc cử hành các nghi lễ phụng vụ được hoàn tất, người ta phân phát trứng đã làm phép cho mọi người đang tham dự Thánh Lễ trong Thánh Đường, để chỉ rằng, tất cả đều được thông phần trong muôn phúc lành của Chúa trong ngày Đại Lễ. Sau đó người ta chúc mừng nhau và đập trứng. Khi đập trứng, người này xướng: "Chúa Kitô đã sống lại". Người kia đáp lại: "Người đã sống lại thật".
Đập bể trái trứng, gà con chui ra, tượng trưng sự mở cửa mồ của Chúa Kitô, để Người bước ra. Cái trứng cũng chỉ sự sống mới, vì trong cái trứng chứa đựng một mầm sống của con gà con. Khi gà con nở ra khỏi trứng, xuất hiện một tạo vật mới.
Chúa Kitô sống lại, bước ra khỏi mồ cũng có một sự kiện tương tự như thế. Vì Chúa Kitô thực sự đã chịu tử hình và nay Ngài đã phục sinh vinh quang trước nhiều nhân chứng; cũng như cái trứng dường như là một vật chết trước khi nó phát sinh sự sống mới.
I. NIỀM TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
Qua bốn mươi ngày chay tịnh sám hối chuẩn bị tâm hồn; nhất là trong Tam Nhật Thánh, chúng ta đã diễn lại Thiên Tình Sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, để tưởng niệm mầu nhiệm tình Chúa yêu thương nhân loại. Giờ đây, trong Đêm Cực Thánh này, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, cử hành đêm canh thức với tất cả tâm tình sốt mến của Mẹ Chí Thánh Chúa và các Tông Đồ của Người đang trông đợi vào lời tiên báo "Chúa sẽ phục sinh". Nay đã được thực hiện, bằng tất cả niềm tin kính sùng mộ.
Chúng ta hân hoan long trọng mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh, là chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô vượt qua cõi chết để bước vào nguồn sống mới bất diệt. Chúng ta mừng kính cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên kẻ thù nghịch, là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, để đạt tới cuộc khải hoàn vinh quang vĩnh cửu.
Quả thật, Chúa Kitô đã phục sinh, sự kiện lịch sử này đã được các sử gia đáng tin cậy minh xác, không ai có thể chối cãi được. Cả bốn Thánh Ký đã ghi chép rõ ràng trong Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ, bằng những chứng tích xác thực, đã được các chứng nhân thế giá, từng được diễm phúc chung sống với Chúa. Như Thánh Phêrô đã quả quyết: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những sự việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết, khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã cùng được ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Act 10:39-4). Chính Chúa đã tỏ mình cho bà Maria Madalena khi bà tới thăm mồ vào tảng sáng, Người cũng hiện đến với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly và trên bờ biển Teberia, với hai môn đệ trên đường đi làng Emau. Đặc biệt, Người còn hiện đến với đông đủ các Tông Đồ đang hội họp trong Nhà Tiệc Ly lúc cửa vẫn đóng kín và phán với các ông: "Bình an cho các con!". Rồi Người còn phán bảo riêng với Tôma, kẻ đã không tin vào lời các Tông Đồ khác thuật lại việc Chúa hiện đến với các ông, khi Tôma vắng mặt: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin". Bấy giờ Tôma mới sửng sốt và sung sướng kêu lên: "Lạy Chúa tôi, lậy Thiên Chúa của tôi!". Chúa Giêsu đáp lại: "Hỡi Tôma, vì con đã trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai đã không thấy mà vẫn vững lòng tin" (Jn 20:26-29).
Tất cả chúng ta là những con cái đã được Chúa yêu thương chúc phúc, vì chúng ta đã không thấy mà chúng ta vẫn vững lòng tin vào lời các Tông Đồ và Hội Thánh truyền dạy.
II. HẠNH PHÚC ƠN LÀM CON THIÊN CHÚA
Cũng trong Đêm Cực Thánh này, Giáo Hội muốn chúng ta tưởng nhớ lại hồng phúc chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô, bằng việc truyền dạy chúng ta ôn lại những lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Trong ngày đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ: Từ bỏ tội lỗi để được sống sự tự do của con cái Thiên Chúa; từ bỏ mọi quyến rũ của tội lỗi để khỏi bị ách tội lỗi chế ngự; từ bỏ Satan là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa là Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô Con Chúa, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria và đã sống lại từ cõi chết, đang ngự bên hữu Chúa Cha; tin kính Chúa Thánh Thần, tin Giáo Hội Công Giáo và tất cả mọi điều Giáo Hội truyền dạy.
Được diễm phúc làm con Thiên Chúa là một ơn cao trọng vô cùng, là căn nguyên mọi ơn phúc Chúa ban cho chúng ta, như lời Thánh Gioan nhắn nhủ: "Anh chị em hãy xem, Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa và sự thực là thế" (I Jn 3:1). Bởi vì, chúng ta chỉ là một thụ tạo bất xứng, đã từng là nô lệ dưới quyền thống trị của Satan hỏa ngục và tội lỗi, là kẻ phản bội chỉ đáng Chúa trầm luân hỏa ngục vì án phạt nguyên tội di truyền và muôn vàn tội lỗi riêng chúng ta hằng xúc phạm đến Chúa. Nhưng nhờ công nghiệp sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta đã được tuyển chọn giữa muôn triệu người trên trần gian, được nâng lên hàng con cái Thiên Chúa, để được thừa hưởng lời Chúa hứa, sẽ được phục sinh với Người và lãnh gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho con cái trung thành, trong vinh quang bất diệt với Chúa trên Quê Trời.
III. ĐIỀU KIỆN SỐNG ƠN GỌI LÀM CON CHÚA
Để sống xứng với ơn gọi cao cả làm con cái Chúa và đáng được phục sinh với Chúa Kitô, để hưởng hạnh phúc gia nghiệp vĩnh cửu Chúa đã hứa ban, chúng ta hãy tuân giữ các giáo huấn Chúa dạy và sống theo mẫu gương đời sống Chúa đã thực hiện. Chính mẫu gương đời sống của Chúa Cứu Thế đã là một mãnh lực vô song thu hút, lôi cuốn muôn tâm hồn thiện chí tiến bước theo Chúa, sẵn sàng khước từ tất cả và chính bản thân, để được trở nên môn đệ của Chúa và cố gắng họa lại nơi bản thân và cuộc sống mình chân dung đích thực và sống động của Đấng đã kêu gọi các ngài: "Nếu các con muốn theo Thầy, các con hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy" và Chúa còn nhắn nhủ: "Thầy đã làm gương cho các con, để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm".
Để lập nên giá Ơn Cứu Độ chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải từ khước mọi vinh quang cao cả, nhập thể mặc lốt phàm nhân, mang thân nô lệ, sống đời tôi tá và sau cùng, tự nguyện lãnh nhận mọi ô nhục, xỉ vả, hành xích của cuộc khổ nạn và bản án bất công như một tội nhân trọng phạm bị tử hình trên Thập Giá. Chính nhờ lễ hy sinh đó, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả những ai tin kính thuần phục Người.
Trong một xưởng thợ, cả một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau chê bai Đạo Công Giáo, bọn họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người... Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã dõng dạc lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa tôi đã mất tất cả!"
Mọi người đều hướng mắt trừng trừng nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: "Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán xóm làng, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê thù ghét. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi biết bao tâm địa xấu xa, những đam mê tật xấu khác nữa... Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến cái tổ ấm yêu đương thành một hỏa ngục. Thì nay, mọi phần tử trong gia đình tôi đã trở nên các Tín Hữu, con cái Thiên Chúa. Như vậy, tôi đã mất tất cả".
Sau hết, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất những gì rồi. Vậy các bạn hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan chắc chắn với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu".
Kết Luận
Lời Chúa phán dạy chúng ta: "Nếu hạt lúa miến gieo xuống lòng đất mà thối đi, nó chỉ trơ trơ không thể nào sinh được bông hạt; nhưng nếu nó có chịu mục nát, nó mới nảy sinh mầm sống, vươn lên thành cây, trổ sinh bông hạt, đem lại một mùa thu hoạch dồi dào, khiến người thợ gặt được hân hoan vui sướng".
Câu truyện trái "Trứng Phục Sinh" gợi lên cho chúng ta một hình ảnh cụ thể và sống động: Nó như một nấm mồ mà Chúa Kitô đã được mai táng tại đó. Con gà con làm bể chiếc trứng để chui ra, nhắc nhở chúng ta việc Chúa Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mồ.
Là con cái Chúa, chúng ta chỉ được hưởng trọn niềm hân hoan trong ngày Đại Lễ mừng mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, khi chúng ta sống đúng với ơn gọi cao cả được làm con cái Chúa, trở nên một tạo vật mới bằng cách quyết tâm từ bỏ tất cả những gì phản với tinh thần Chúa, tin kính mến yêu thực thi tất cả mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy như chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam