Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 64
Tổng truy cập: 1367537
NGHĨ ĐẾN CÙNG ĐÍCH
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
Cách đây khá lâu trên con đường từ Calif trở về nhà Dòng ở Missouri, trước khi lên máy bay tôi mua một tờ nhật báo USA Today chính là để theo dõi phần thể thao. Tình cờ tôi đọc được một bài báo của tác giả Michael Levine, một bình luận gia ở thành phố Los Angeles, trong đó ông viết: Nếu ông được làm vua ở xứ này thì việc đầu tiên ông sẽ làm đóa là ông sẽ ra chiếu chỉ buộc mọi người từ 40 tuổi trở xuống kể cả đàn ông đàn bà cùng con nít phải đi tham dự đám tang, lễ an táng người chết, của ai cũng được nhưng một năm ít nhất là một lần.
Chúng ta thắc mắc là tại sao việc đầu tiên ông không làm là ví dụ như sửa sang lại Toà Bạch Ốc thành cung điện nguy nga tráng lệ, hay bãi bỏ thuế má này nọ kia hoặc ân xá tha thứ cho các tù nhân, nhưng lại buộc phải tham dự lễ an táng người chết một năm một lần.
Ông trả lời sở dĩ ông có ý tưởng như vậy là do một lần ông tham dự lễ an táng thân phụ của người bạn của ông. Ông thú nhận ông chưa gặp mặt vị này lần nào, và ông tham dự nghi lễ chỉ để bày tỏ lòng kính trọng với người quá cố và vì lịch sự xã giao với người bạn. Nhưng những gì ông học được trong ngày hôm đó thật quan trọng.
Ông nhận thấy rằng tất cả những người đọc điếu văn cũng như vị linh mục giảng thuyết ở nghi lễ này đều đề cập đến sự tử tế, lòng thương yêu, sự tế nhị của ông dành cho gia đình và bạn bè cùng tất cả những người sống chung quanh. Ngay cả đến những bạn cùng làm chung trong ngành thương mại, làm ăn buôn bán với ông cũng không đề cập nhắc nhở gì đến các sự nghiệp thành công cũng như địa vị bằng cấp, chức tước của ông đã đạt được trong khi ông còn sống, nhưng tất cả đều chú trọng đến con người của ông, con người họ đã biết và đã yêu.
Nhấn mạnh đến tư cách, đến đức tính con người đó là điều trái ngược với xã hội thường chú ý đến. Xã hội hôm nay cũng như các thời đại khác thường đề cao chú trọng đến bằng cấp, địa vị, coi trọng tiền tài danh giá.
Chúng ta thường cho những kẻ tu hành những kẻ theo Chúa là những người khiêm nhường chẳng còn thiết gì đến danh giá chức quyền, nhưng Lời Chúa hôm nay cho thấy các môn đệ là những người đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, đã được Chúa trực tiếp huấn luyện nhưng, một chữ nhưng thật quan trọng, nhưng các các ngài vẫn còn là con người. Đối với các ngài địa vị vẫn quan trọng. Dưới con mắt của các ngài, người lớn nhất chính là người có địa vị cao nhất. Được ngồi bên cạnh ông vua là điều ai nấy đều mong muốn. Họ muốn được điạ vị cao nhất với nhữnglý do thấp kém nhất. Họ là nạn nhân của tham vọng đầy ích kỷ ghen tương.
Tuy nhiên điều Chúa muốn dạy các môn đệ và chúng ta hôm nay một bài học đó là: Vinh quan trần thế sẽ qua mau, chỉ duy có sự khiêm nhường phục vụ yêu thương, hy sinh cho tha nhân mới là điều đáng kể.
Nói một cách tổng quát, ước muốn ước vọngtham vọng là điều tốt vì nó là động lực thúc đẩy con người cố gắng tiến hơn trên đường sự nghiệp, giúp thành công trên đường đời. Ví dụ, ước muốn làm linh mục, bác sĩ, nha sĩ, kỹ sư, khoa học gia… sẽ thúc đẩy các bạn trẻ cố gắng hơn trong việc học hành, dấn thân hơn trong việc phục vụ Giáo Hội và xã hội. Tuy nhiên, nó trở nên xấu khi có những ước vọng tham vọng quá đáng và vượt quá khả năng giới hạn của mình. Tôi còn nhớ khi còn nhỏ đọc được câu chuyện ngụ ngôn giữa con nhái và con bò.
Con nhái nom thấy con bò,
Hình dung đẹp đẽ, mình to béo tròn.
Nhái bằng quả trứng tí hon,
Lại toan cố sức bằng con bò vàng,
Ngậm hơi, cổ bạnh, bụng trương;
Kêu: chị em đến xem tường cho ta.
Đã bằng chưa, chị trông, nà!
Bạn rằng: còn kém. Nhái đà phồng thêm;
Hỏi rằng: được chửa, chị em?
Bạn rằng: Chưa được; Phồng thêm ít nhiều.
Chị ơi! Còn kém bao nhiêu?
Bạn rằng: Còn phai phồng nhiều. Kém xa!
Tức mình, chị nhái oắt ta,
Lại phồng bụng quá vỡ ra chết liền.
Ở đời lắm kẻ thật điên,
Sức hèn lại muốn tranh tiên với người.
Dại thay những thói đua đòi.
Vinh gì cuộc rượu trận cười mà ganh.
Người ta kể rằng vua A-lịch-sơn đại đến, một vị vua lừng danh bách chiến bách thắng, trước khi chết đã truyền là khi chôn cất ông bỏ hai tay của ông ra ngoài quan tài với mục đích để cho mọi người hiểu được rằng: vua A-lịch sơn khi vào đời với hai bàn tay trắng và dù trong cuộc sống có đạt được danh vọng giầu sang phú quí, thì khi ra khỏi đời này cũng vẫn chỉ với hai bàn tay trắng.
Nếu trước cái chết, một số người đã cảm thấy ân hận vì quá muộn mới nhận ra được rằng danh vọng vinh quang trần gian này mau qua, chỉ duy có sự khiêm nhượng phục vụ, bác ái yêu thương tha nhân mới là điều đáng kể, còn chúng ta? Chúng ta được mời gọi suy nghĩ nhiều về giá trị đích thực của cuộc sống hôm nay, để ngày mai khi giờ chết đến, chúng ta không phải ân hận vì cũng đã quá muộn đối với chúng ta.
65. Danh lợi – Trầm Thiên Thu
Cái vòng danh lợi cong cong
Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào
Đó là cái vòng luẩn quẩn cuộc đời. Với bản chất con người, ai cũng “máu” lắm (nhiều loại máu), thả ra cũng chẳng ai vừa: “Kẻ tám lạng, người nửa cân”. Thật vậy, ai cũng thích được khen chứ chẳng ai thích bị chê. Nghĩa là con người rất thích có DANH, gọi là “háo danh”, như Nguyễn Công Trứ (*) xác định: “Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”. Chữ DANH với nam giới lại càng “to” hơn nhiều.
DANH và LỢI có quan hệ “thân thiết” với nhau. Chưa có cái “danh” thì tìm cách có, có “danh” rồi thì tìm cái “lợi”. Có những người mê “danh” đến nỗi sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn để “chạy” bằng cấp, chức tước, địa vị,… Thậm chí có người còn dám bán rẻ lương tâm để mua lấy cái “danh”, ngay cả tình nghĩa trong các mối quan hệ cũng chỉ là “chuyện nhỏ”, như người ta “đùa mà thật” khi nói: “Tình cảm là chín (chính), tiền bạc là mười”. Đó là điều tất yếu? Vì “con gà còn tức nhau tiếng gáy” kia mà! Có lẽ dày dạn kinh nghiệm nên hiền sĩ Nguyễn Công Trứ mới chua chát nhận định: “Thế thái nhân tình gớm chết thay, Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”, hoặc: “Tiền tài hai chữ son khuyên ngược, Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”.
Tiền chẳng là gì, chỉ là những tờ giấy có cấp độ giá trị khác nhau theo những con số mà con người quy ước. Nhưng người ta coi “tiền là tiên, là Phật, là sức bật của con người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý” thế nên nó có thể thay trắng đổi đen mọi thứ. Kinh khủng quá! Chiến tranh tàn khốc xảy ra cũng vì cái “danh” và “lợi”. Cái lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo, thế nên: Thật thà bị ghét bỏ, nghèo khó bị rẻ khinh, thông minh bị trù dập. Đời là thế! It’s life! C’est la vie! Ôi, chuyện đời cười ra nước mắt!
Những người dã tâm hùa nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo” (Kn 2:12). Họ ranh mãnh và mỉa mai: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào” (Kn 2:17). Người chính trực luôn bị ghét, người theo Chúa cũng bị “dè chừng”, thậm chí còn bị sát hại. Kẻ xấu toan tính: “Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào” (Kn 2:18-19). Cuối cùng họ quyết định: “Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2:20a). Nhưng đó chỉ là “sai lầm của phường vô đạo” (Kn 2:20b).
Người công minh chính trực thì chẳng sợ gì. Cây ngay không sợ chết đứng như Từ Hải, và luôn vững tin vào Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi” (Tv 54:3-4). Phường kiêu ngạo có nổi lên chống đối, hay bọn hung tàn tìm hại mạng sống người công chính, dù chúng không kể gì đến Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn độ trì và nâng đỡ những tôi trung và hiền tử của Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa đời đời thành tín.
Dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ, dù hạnh phúc hay bất hạnh, người thật lòng theo Chúa vẫn một lòng một dạ chân thành thân thưa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo” (Tv 54:8). Đó là cách sống của những người thực sự trưởng thành tâm linh. Ước gì mọi người đều biết sống như vậy!
Thánh Giacôbê phân tích: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3:6). Một cách suy luận lô-gích và minh nhiên. Thánh nhân kết luận: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3:17-18). Phàm nhân chúng ta gọi đó là “luật nhân quả”, gieo gì gặt nấy: Tư tưởng à ước muốn à hành động à thói quen à tính cách à số phận.
Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao?” (Gc 4:1). Và rồi thánh nhân đúc kết một cách vô cùng thẳng thắn: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:2-3).
Nhận xét của Thánh Giacôbê “chạm” đến bất kỳ ai, đến bất kỳ cương vị nào, đến tận mọi ngõ ngách sâu thẳm nhất của lòng dạ và tư tưởng con người. Thật vậy, đôi khi chúng ta ích kỷ ngay trong lời cầu nguyện của mình, thậm chí còn dám “ngã giá” và “ra điều kiện” với chính Thiên Chúa mà cứ tưởng là mình… đạo đức và thánh thiện. Nguy hiểm quá!
Một lần nọ, Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê, nhưng Ngài không muốn cho ai biết, vì Ngài đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết chết, Ngài sẽ sống lại” (Mc 9:31). Nhưng các ông không hiểu lời đó, vả lại các ông sợ nên không dám hỏi lại Ngài. Theo Thầy đi khắp mọi nơi, tới từng hang cùng ngõ hẻm, ăn dầm nằm dề với Thầy, thế mà các môn đệ vẫn “như người trên cung trăng”, lơ ngơ mà chẳng hiểu Sư phụ nói gì. Không hiểu mà lại không dám hỏi. Lạ thật! Nhưng phàm phu tục tử là thế, chúng ta cũng vậy, chẳng hơn gì ai! Chúa biết thừa, nhưng Ngài vẫn thông cảm và lại càng thương các “ngu đệ” hơn.
Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (Mc 9:33). Hỏi để mà hỏi, hỏi cho có chuyện, hỏi để các môn đệ bớt… run. Chứ Ngài biết tỏng, biết rõ mười mươi như “đi guốc trong bụng” từng người! Nhưng các ông nín thinh như ngậm tăm, vì Thầy nói trúng phoóc tim đen. Rõ ràng khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Tranh giành địa vị, tranh chấp ngôi thứ, tranh nhau cái DANH cốt để mong có cái LỢI. Không thể nào biện hộ, dù chỉ nửa lời!
Biết các môn đệ chưa thể “thoát tục”, Đức Giêsu ngồi xuống và gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9:37). Một cách so sánh đầy triết lý và thần học. Tiếp nhận trẻ nhỏ à tiếp nhận Chúa Giêsu à tiếp nhận Chúa Cha. Hay quá! Nhưng có lẽ chúng ta chưa thể hiểu đúng, hoặc không dám hiểu, thậm chí không muốn hiểu. Nhưng nên nhớ rằng Chúa Giêsu luôn thực tế, mạch lạc, rất hiếm khi bóng gió xa xôi. Và vì thế mà chúng ta khó lĩnh hội thấu đáo để có thể thực hành bài học “đơn giản” của Ngài là sống Yêu thương và Phục vụ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).
Muốn thoát vòng danh lợi và vòng kiềm tỏa của nó, chúng ta phải theo “mẹo” của Chúa Giêsu: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18:3). Danh lợi chỉ là thứ tạm bợ, chóng qua, thế mà người ta vẫn tìm mọi thủ đoạn để giành giật bằng mọi giá. Đó là loại “giàu” khiến người ta khó vào Nước Trời nhất. Cụ Nguyễn Công Trứ nhận định: “Ra trường danh lợi vinh liền nhục, Vào cuộc trần ai khóc trước cười”. Chí lý lắm thay!
Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con từng giây phút, để chúng con đừng giành nhau những thứ không phù hợp với Luật Chúa, trái ngược với Nước Trời. Xin giúp chúng con không ngừng biết YÊU THƯƠNG và PHỤC VỤ đúng như Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
***
(*) Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.
66. Nhân Danh – Trầm Thiên Thu
Hằng ngày, các tín hữu Công giáo làm dấu Thánh Giá nhiều lần: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Một tín hữu bình thường thì người ta làm dấu khi thức dậy, khi tham dự Thánh Lễ, khi cầu nguyện, khi đọc kinh, khi ăn (cơm, phở, bánh,…), khi đi ngủ. Một tín hữu biết mình yếu đuối thì họ còn làm dấu khi uống nước, khi ăn vặt, khi chạy xe, khi làm thơ, khi viết nhạc, khi viết bài, khi dịch thuật,… Nói chung, bất cứ làm gì, chúng ta đều làm nhân danh Thiên Chúa chứ không nhân danh bất cứ ai hoặc thứ gì khác, như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), và “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14).
Khi nói đến “nhân danh”, chúng ta nhớ tới Tổng lãnh Thiên thần Micae – một đại anh hùng chiến đấu để bênh vực Chân Lý và Công Lý, nhân danh Thiên Chúa. Ngài là người thách đố: “Ai bằng Thiên Chúa?”.
Khi nhân danh người nào hoặc điều gì, cũng có những người “mạo danh” để làm điều sai trái, thay vì làm điều nhân nghĩa. Đó là “nhân danh” cái ác, một dạng giả hình mà chúng ta cần cảnh giác cao độ – cảnh giác với người khác và với chính mình. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy có những kẻ “mạo danh” để trục lợi cá nhân – ngoài đời cũng có đầy mà trong tôn giáo cũng chẳng thiếu.
Thời Cựu Ước, những kẻ xấu đã “nhân danh” sự ác mà vào hùa với nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo” (Kn 2:12). Khi nhân danh điều gì, đôi khi người ta cũng dễ bị ảo tưởng hoặc suy nghĩ lệch lạc. Gọi là nhân danh điều tốt này hoặc sự thiện kia, nhưng thực chất có thể chỉ là nhân danh mình – tức là muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình mà thôi. Dạng này rất tinh vi, chúng ta phải thực sự cảnh giác kẻo “sập bẫy” mưu ma chước quỷ!
Tư tưởng xấu sinh ra ước muốn xấu, ước muốn xấu sinh ra hành động xấu, hành động xấu là nhân danh cái ác. Những kẻ xấu cũng tưởng người khác cũng xấu như mình nên họ nghi ngờ người khác. Họ lý luận: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào. Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2:17-20). Chính Chúa Giêsu cũng đã bị những kẻ xấu thách thức tương tự!
Những người công chính, tâm địa ngay thẳng, nhưng đôi khi vẫn gặp tai ương. Không phải là Thiên Chúa không biết hoặc làm ngơ, nhưng Ngài tôn trọng luật tự nhiên. Khi thực sự cần thiết thì Ngài mới ra tay. Những người tín thác vào Thiên Chúa thì luôn chân thành khấn cầu: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi. Phường kiêu ngạo nổi lên chống đối, bọn hung tàn tìm hại mạng sống con, chúng không kể gì đến Thiên Chúa. Nhưng này có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:3-6).
Quả thật như vậy, vì Ngài biết rõ ai như thế nào, mạnh hay yếu, và Ngài không bắt chúng ta chịu đựng quá sức mình. Vấn đề quan trọng là chúng ta phải biết nhận ra ơn độ trì của Thiên Chúa, như tác giả Thánh Vịnh thầm hứa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo!” (Tv 54:8).
Ai tin tưởng và hành động nhân danh Thiên Chúa thì chắc chắn sẽ không lầm đường lạc lối, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12).
Cụ thi hào Nguyễn Du đã nhận định và so sánh: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI” (Truyện Kiều). Cái “tâm” vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Ai cũng có lương tâm, nhưng vấn đề là lương tâm đó đúng đắn hay lệch lạc. Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3:16-18).
Chắc chắn ai cũng biết lợi ích của cái tâm chân chính, nhưng biết là biết vậy, cố gắng áp dụng hay không lại là chuyện khác. Cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Từ cái tâm sẽ sinh ra nhiều hệ lụy khác, thậm chí ảnh hưởng cả sức khỏe thể lý.
Thánh Giacôbê tiếp tục phân tích: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:1-3). Hệ lụy rạch ròi, tất yếu. Đúng là “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng lỗi tại ai ráo trọi!
Cái thiện ý hoặc thiện tâm rất quan trọng, ngược lại thì rất nguy hiểm với ác ý hoặc dã tâm: “Thiện ý một câu ấm ba đông, lời ác lạnh người sáu tháng ròng”. Trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh, đạo binh chư thần đã đồng ca: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 1:14). Điều đó cho thấy sự thiện tâm là điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa yêu thương, nhờ đó mà quyết tâm chỉ nhân danh sự thiện mà thôi.
Trình thuật Mc 9:30-36 cho chúng ta biết về hai vấn đề quan yếu mà chính Chúa Giêsu muốn giáo huấn mỗi chúng ta: Lớn – nhỏ, và thuận – nghịch.
Một lần nọ, Chúa Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê. Ngài không muốn cho ai biết, vì Ngài đang “bật mí” cho các môn đệ biết chuyện hệ trọng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”. Tuy nhiên, các ông y như vịt nghe sấm, chẳng hiểu gì cả. Vả lại, các ông vừa sợ vừa ngại nên không dám hỏi lại Sư Phụ.
Sau đó, Thầy và trò cùng đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Ngài hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”. Ui da! Rỉ tai nhau thế mà Thầy cũng cũng biết. Chết thật! Vì thế, các ông nhìn nhau nhưng im thin thít, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ là các môn đệ “cãi nhau”, chứng tỏ vấn đề nghiêm trọng chứ không đơn giản. Họ tranh giành về chuyện “cao – thấp”, về chức quyền. Vấn đề này cũng vẫn thường xảy ra trong chúng ta ngày nay.
Ngài ngồi xuống, có lẽ Ngài rất buồn khi thấy các đệ tử vẫn tục lụy, vẫn hám danh và mê lợi như vậy, rồi Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Đó là đức khiêm nhường. Ý tưởng của Ngài hoàn toàn trái ngược với chúng ta. Kế đó, Ngài đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Một chuỗi hệ lụy kỳ diệu quá!
Đó là vấn đề thứ nhất: Vấn đề lớn – nhỏ, cao – thấp. Vấn đề thứ nhì là thuận – nghịch. Khi đó, ông Gioan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Nghe vậy, Ngài liền khoát tay và nói ngay: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Động thái của Chàng trai trẻ Gioan nhắc nhở chúng ta một điều: Đừng tưởng mình ngon người khác, đừng tưởng mình có quyền hơn người khác. Vì thế mà coi thường người khác, khinh miệt hoặc ghét bỏ người khác. Từ hệ lụy này sinh ra hệ lụy khác. Cứ “tưởng rằng” như vậy là mạo nhận, là ảo tưởng, là kiêu ngạo! Tương tự, TIN mình được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Cái “khoảng cách” giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh.
Kiêu ngạo là đối lập với Đức Kitô, vì Ngài là Đấng có “lòng hiều hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Đồng thời hãy nhớ lại lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat) của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:52).
Ước gì mỗi khi gặp nhau, dù là bất kỳ ai, chúng ta có thể chân thành nói với nhau: “Chúng tôi chúc lành cho anh em nhân danh Chúa” (Tv 129:8).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con luôn biết nhân danh Ngài mà thực hiện bất cứ điều gì, từ suy nghĩ tới hành động, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn. Vâng, lạy Thiên Chúa, con thật lòng ước muốn và cố gắng thực hiện như vậy. Xin Ngài hướng dẫn con mọi nơi và mọi lúc. Xin Tổng lãnh Thiên thần Micae nguyện giúp cầu thay. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
67. Quyền bính là để phục vụ
(Suy niệm của Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist)
Tóm Lược
Bài Đọc 1: Kn 2,12.17-20
Người gian ác tìm cách gài bẫy người công chính, vì họ thường tố cáo lối sống không tuân hành lễ giáo và vi phạm lề luật. Hơn nữa, người gian ác mưu hại người công chính là để thấy cuộc đời họ kết thúc ra sao, vì nếu người công chính là con Thiên Chúa thì Người sẽ phù hộ và cứu thoát khỏi tay địch thù.
Bài Đọc 2: Gc 3,16; 4,3
Ở đâu có ghen tương, tranh chấp thì ở đấy có xáo trộn và mọi thứ xấu xa. Sở dĩ có xung đột giữa anh em là vì khoái lạc đã gây nên chiến tranh, ganh ghét và chém giết lẫn nhau. Còn đức khôn ngoan Thiên Chúa là thanh khiết, hiếu hòa, khoan dung, từ bi, không thiên vị, không giả hình.
Bài Tin Mừng: Mc 9, 30- 37
Mặc dầu Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ hai, nhưng các môn đệ vẫn không hiểu những lời đó, lại còn tranh dành ai là người lớn hơn cả. Thấy vậy, Đức Giêsu liền nói: “Ai làm người đứng đầu phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”. Người còn đặt một em nhỏ vào giữa các ông và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.
Suy Niệm
Khi đề cập tới quyền bính, nhiều người cảm thấy e ngại, né tránh. Bởi chưng giữa cảnh đời tranh đua xua nịnh, quyền bính là phương tiện hữu hiệu để ra lệnh, chỉ đạo, cai trị, lấn át người dưới và trục lợi cho bản thân. Cách hành xử của người nắm quyền thường mang tính áp đặt, “cả vú lấp miệng em” nhằm đạt được danh vọng, vinh thân phì da và củng cố địa vị. Sự thánh thiêng của quyền bính đã bị bào mòn khi đồng hoá nó với uy danh của cái tôi và nhắm tới quyền lợi người trên. Thay vì trở nên cách thế phục vụ và bảo vệ kẻ thấp cổ bé miệng, nó lại chất lên vai những gánh nặng mà chính người nắm quyền không thèm đụng ngón tay.
Còn theo Chúa Giêsu, quyền bính là để phục vụ; người đứng đầu là người có khả năng dấn thân phục vụ và mở ra chiều kích sứ vụ nhiều hơn. Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,36). Ở đây, Đức Kitô không đề ra xu hướng loại trừ quyền bính. Cũng như đồng tiền, quyền bính tự nó là tốt và cần thiết cho sự phát triển và an sinh xã hội. Vấn đề không hệ tại quyền bính mà ở cách sử dụng chúng và hướng đích mà người nắm quyền muốn nhắm tới. Chúa Giêsu đưa ra một phương cách hành quyền khác giúp các môn đệ tránh những cám dỗ mà quyền bính có thể mang lại: Người làm lớn là người phục vụ anh em, sẵn sàng rửa chân cho nhau và hiến dâng mạng sống vì lợi ích tha nhân.
Như vậy, Chúa Giêsu đòi hỏi người nắm quyền chấp nhận phần thua thiệt, tiêu hao chính mình để người khác được lớn lên trong ân sủng và tình yêu. Đồng thời, luôn sống chiều kích vâng phục như chính Ngài “đã vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8). Chính Ngài đã nêu gương cho các môn đệ: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Sống chiều kích vâng phục giúp người nắm quyền thi hành chức vụ bằng tinh thần của Chúa: yêu thương, cảm thông, tha thứ và phục vụ. Họ không tìm ưu đãi cho bản thân hay nhằm thăng tiến địa vị, nhưng luôn nhắm tới người bé mọn và nghèo khổ là thành phần cần được bảo vệ và ưu đãi trong cộng đoàn (x. Mt 18,1-4).
Có thể nói, quyền bính là lối ngõ dẫn người khác tới gặp Thiên Chúa và tha nhân. Ngang qua quyền bính, con người khám phá ra tình yêu, sự tin tưởng và tình liên đới, cũng như tìm được chìa khoá mở ra những chân trời tươi sáng và hy vọng. Bởi vì, nó làm cho con người sống xứng với nhân phẩm của mình và không ngừng lớn lên. Nói cách khác, người nắm quyền là người có khả năng bắt nhịp cuộc sống người khác: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), “trở nên tất cả cho mọi người” (1Cr 9,22) để mưu ích cho anh chị em mình (x. 1Tx 1,5), sinh hoa kết quả cho Thiên Chúa (x. Rm 7,4) và xây dựng Hội Thánh (x. 1Cr 14,26).
Điều này đòi hỏi người lãnh đạo cần trang bị cho mình những đức tính cần thiết như: Tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, cởi mở, hiếu khách, hiền hoà và có khả năng giảng dạy (x. 1Tx 3,2-4; 1Tm 6,11; 1Tt 1,6-9). Họ phải nêu gương mẫu cho người khác về lời ăn tiếng nói, cách cư xử, đức ái, đức tin và lòng trong sạch (x. 1Tm 4,12; 2Tm 2,22); thái độ dịu dàng với mọi người và biết chịu đựng những thử thách, đau khổ (x. 1Tm 2,24). Người nắm quyền phải xác tín rằng quyền bính Chúa ban để xây dựng và củng cố, chứ không phải để phá đổ (x. 2Cr 13, 16). Thánh Phaolô đưa ra khuân mẫu cho người nắm quyền bính: Xem người dưới như ruột thịt và đối xử trọn tâm tình của người cha (x. 1Cr 4,14; 2Cr 3,16; 1Tx 2,11), hay như sự dịu dàng của người mẹ hiền (x. 1Tx 2,7; Gl 4,19).
Với thánh Phaolô, điều có sức chinh phục người khác không phải là quyền- luật cho bằng một trái tim biết rộng mở và cùng đồng hành với những nỗi thăng trầm của họ. Hơn ai hết, chính thánh nhân là mẫu gương tuyệt hảo cho những ai hành quyền: “Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi quí mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa” (1Tx 2,7-8). Ở đây, cách hành quyền không mang màu sắc áp đặt. Trái lại, luôn kêu gọi và mở ngỏ cho người khác đáp lại với tất cả tự do: “Chúng tôi khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi anh vào nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người” (1Tx 2,11-12).
Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho những người đang hướng dẫn chúng ta được khôn ngoan, bác ái, từ tâm, hiền lành và dạt dào hồng ân Chúa, để các ngài dẫn dắt đoàn chiên Chúa tín trao luôn an hòa và thăng tiến như Thiên Chúa muốn.
68. Suy niệm của JKN.
VÌ THĂNG TIẾN BẢN THÂN HAY VÌ ĐẠI CUỘC NƯỚC TRỜI?
Câu hỏi gợi ý:
1. Các môn đệ Đức Giêsu hy vọng gì nơi Đức Giêsu? Các ông phản ứng thế nào khi Ngài báo trước rằng Ngài sẽ bị giết chết? Việc tiên báo cái chết của Ngài ảnh hưởng gì đến niềm hy vọng của các ông?
2. Trước sứ mạng của Đức Giêsu, não trạng của Ngài khác với các môn đệ chỗ nào? Tâm trí các môn đệ bị thu hút bởi đại cuộc của Thiên Chúa hay bởi sự thăng tiến bản thân của các ông?
3. Những người mang danh theo Chúa mà coi trọng việc thăng tiến bản thân hơn đại cuộc của Thiên Chúa thì Giáo Hội Chúa sẽ ra sao? sẽ phát triển hay bị trì trệ? Tại sao?
CHIA SẺ
1. Bối cảnh của bài Tin Mừng
Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê một cách âm thầm không cho ai biết. Ngài muốn tạm gác việc loan báo Tin Mừng, giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng qua một bên để có thì giờ dạy dỗ các môn đệ, đặc biệt báo cho các ông biết một viễn cảnh sắp xảy ra mà các ông khó có thể hiểu và chấp nhận. Đó là «Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người…». Phải báo trước viễn cảnh ấy để chuẩn bị tinh thần cho các ông, để các ông không quá ngỡ ngàng và thất vọng khi nó xảy đến, mà sẵn sàng đón nhận nó. Đây không phải lần đầu tiên Ngài nói với các môn đệ điều này, Ngài đã từng «nói rõ điều ấy không úp mở» với các ông trước đó không lâu (x. Mc 8,31-33), nhưng lúc đó các ông tỏ ra không thể chấp nhận được. Thái độ không chấp nhận này đã bị Đức Giêsu quở trách rất nặng lời, đến nỗi Ngài đã gọi Phêrô là: «Xatan!» khi ông muốn can Ngài. Chính vì lần trước các ông bị quở trách nặng nề như thế, nên lần này bài Tin Mừng cho biết: «Các ông sợ không dám hỏi lại Người».
Các môn đệ Đức Giêsu quan niệm rằng Thầy mình đến để giải phóng dân Do-thái về mặt chính trị, và Ngài sẽ làm vua. Điều các ông hằng mơ tưởng bấy lâu nay là: mai mốt khi Thầy mình làm vua thì mình cũng sẽ làm quan, nắm những chức vụ chủ chốt trong triều đình của Ngài. Nhưng những chức vụ chủ chốt ấy dẫu sao vẫn có chức lớn hơn chức nhỏ hơn, thế là các ông bàn tán với nhau xem ai là người được Đức Giêsu giao cho chức vụ lớn nhất. Nhưng thực tế không xảy ra như các ông nghĩ. Cách suy nghĩ của Thiên Chúa khác hẳn với cách suy nghĩ của con người. Sở dĩ các ông không thể chấp nhận việc Ngài chết, vì nếu Ngài chết thì những mơ tưởng đẹp đẽ của các ông sẽ biến thành mây khói, và các ông sẽ lại trở về với những thực tại tầm thường của mình.
2. Hai não trạng: một vì đại cuộc, một vì thăng tiến bản thân
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hai quan niệm, hai não trạng khác nhau giữa Đức Giêsu và các môn đệ Ngài. Đức Giêsu thì quan tâm tới đại cuộc của Thiên Chúa, và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đại cuộc ấy. Còn các môn đệ thì lòng trí đang bị thu hút vào việc thăng tiến bản thân, coi việc được làm môn đệ Đức Giêsu như một cơ hội hết sức thuận lợi cho việc thăng tiến ấy. Các ông chưa nghĩ gì tới đại cuộc cũng như việc hy sinh cho đại cuộc cả. Não trạng của các môn đệ cũng là não trạng của tuyệt đại đa số Kitô hữu chúng ta. Nhưng muốn thật sự theo Đức Giêsu, tất cả chúng ta đều cần phải sửa đổi lại cách suy nghĩ của mình, đồng thời mặc lấy cách quan niệm và suy nghĩ của Ngài, là Thầy của chúng ta.
Thực ra, quan tâm hay lo lắng cho việc thăng tiến bản thân tự nó là điều rất tốt, đó là một động lực hợp pháp và tốt lành đã tạo nên biết bao nỗ lực hay công việc tốt đẹp ở trần gian này. Tuy nhiên, đối với những tâm hồn thiếu tình thương, ích kỷ, thiếu đạo đức, việc thăng tiến bản thân cũng là động lực làm nên bao tội ác. Biết bao người sẵn sàng đạp trên đầu trên cổ người khác, sẵn sàng âm mưu thâm độc, bỉ ổi, hèn hạ để hại người, giết người, hầu bước lên những địa vị cao cả ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội. Vì thế, lòng ham muốn thăng tiến bản thân là một con dao hai lưỡi: nó có thể tốt mà cũng có thể xấu. Nó chỉ tốt khi nào ta đặt nó dưới sự chỉ đạo của Luật Chúa, của tình thương, của lương tâm.
Đối với những người thật sự muốn theo Chúa và tiến tới trên con đường nhân đức, thánh thiện, thì cần phải coi rất nhẹ việc thăng tiến bản thân để có thể hết mình với đại cuộc của Thiên Chúa. Để sẵn sàng hy sinh tất cả, dẫu là những cơ hội thăng tiến bản thân, thậm chí cả mạng sống mình, cho đại cuộc của Thiên Chúa. Đại cuộc của Thiên Chúa chính là kế hoạch cứu độ nhân loại, thăng tiến tâm linh con người, thực hiện Nước Trời không chỉ trong thế giới mai hậu mà còn ở ngay trần gian này.
Nói thế không có nghĩa là người theo Chúa phải luôn luôn khước từ mọi cơ hội thăng tiến bản thân, từ bỏ mọi địa vị hay quyền lực. Người thật sự hiến mình cho đại cuộc chỉ coi địa vị, quyền lực, danh vọng như những phương tiện để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, để phục vụ con người, và coi bản thân mình chỉ là dụng cụ mà Thiên Chúa dùng để thực hiện kế hoạch của Ngài mà thôi. Thái độ của họ đối với địa vị, quyền lực, danh vọng là không ham muốn cũng không tránh né: sẵn sàng đảm nhận khi thấy đó là một phương tiện để phục vụ tốt, nhưng cũng sẵn sàng từ khước khi thấy mình bất xứng hay khi có người khác xứng đáng hơn…
Một số khá đông người trong Giáo Hội – từ giáo dân cho đến giáo sĩ – coi việc làm tông đồ, đời tu trì… như những cơ hội hay môi trường thuận lợi để thăng tiến bản thân mình. Họ cũng tỏ ra rất hăng hái nhiệt thành trong công việc của Chúa, nhưng động cơ thúc đẩy lại mang tính vị kỷ chứ không phải vị tha. Khi đã đạt được những chức vị cao trong Giáo Hội theo khả năng của mình, họ trở nên ù lỳ, ngại dấn thân, thích hưởng thụ… vì mục tiêu đã đạt được, không cần phải phấn đấu để lên cao hơn nữa… Nếu những cấp lãnh đạo Giáo Hội gồm toàn những hạng người này, thì Giáo Hội sẽ bị trì trệ, không phát triển được, nhất là khi Giáo Hội gặp phải những giai đoạn khó khăn, bị bách hại, đòi hỏi các cấp lãnh đạo phải dấn thân, phải thật sự hy sinh và quảng đại cho Giáo Hội.
3. Người làm lớn phải có tinh thần phục vụ cao
Bất kỳ tập thể nào – trong Giáo Hội hay ngoài xã hội – muốn thăng tiến cũng đều cần có những người tài đức biết quên mình để phục vụ cho sự phát triển và thăng tiến của tập thể. Nhưng những người phục vụ cho sự phát triển tập thể có thể được thúc đẩy bởi một trong hai động lực trái ngược nhau. Một đằng thật sự vì đại cuộc, vì ích lợi chung của tập thể. Và một đằng vì sự thăng tiến của bản thân (để đạt được những chức vụ cao, để nắm quyền hành trong tay, để được nổi tiếng, được ca tụng, tung hô, nể phục, để thỏa mãn nhu cầu «phình to bản ngã», để hưởng thụ cuộc đời). Người thật sự vì đại cuộc có thể hy sinh tất cả cho đại cuộc, còn người vì sự thăng tiến bản thân thì lại sẵn sàng hy sinh đại cuộc cho sự thăng tiến của mình. Hạng này coi đại cuộc như một phương tiện hữu hiệu để mình tiến thân.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, trước tinh thần vì sự thăng tiến bản thân hơn là vì đại cuộc của các môn đệ, Đức Giêsu đưa ra nguyên tắc cho Nước Trời và Giáo Hội của Ngài: «Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người». Ngài muốn khuyên những ai đang muốn thăng tiến bản thân hãy từ bỏ ý hướng vị kỷ ấy để hướng lòng về đại cuộc, về hạnh phúc chung của tất cả mọi người. Chỉ những người có tinh thần cao cả như thế mới xứng đáng làm lớn, giữ địa vị lãnh đạo. Và chỉ khi những người này nắm quyền lãnh đạo, Giáo Hội hay xã hội mới thật sự thăng tiến và phát triển.
Để cụ thể hóa tinh thần ấy, «Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”» Ngài muốn nói: người làm lớn phải coi trọng và phục vụ tất cả mọi người, dù là người bé mọn nhất trong xã hội hay Giáo Hội. Tính phân biệt giầu nghèo, sang hèn, thánh phàm, giáo sĩ giáo dân… đều không xứng hợp với những người lãnh đạo trong Giáo Hội hay trong Nước Trời. Khi đối xử tốt với một người giàu có hay có chức vị lớn, rất có thể ta làm vì một ý đồ ích kỷ. Nhưng khi đối xử tốt với một người nghèo hay một kẻ bé mọn, một trẻ em, thì việc đối xử ấy thường không vì một ý đồ ích kỷ mà vì tình thương. Đó cũng chính là làm cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Cách hành động vị tha như thế phải là hành động của những người làm lớn trong Giáo Hội: luôn luôn hành động vì ích lợi hay hạnh phúc của mọi người chứ không vì sự thăng tiến hay hạnh phúc của mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết nghĩ đến đại cuộc của Thiên Chúa. Xin mở lòng con ra để có thể ôm cả thế giới vào lòng. Đừng để lòng con chật hẹp khiến con chỉ biết nghĩ đến mình, đến hạnh phúc hay đau khổ của mình, đến sự thăng tiến của riêng mình. Xin ban cho con một tâm hồn vị tha, biết quên mình trước những nhu cầu của tha nhân.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam