Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 55
Tổng truy cập: 1371781
NGỌN ĐÈN TÂM HỒN CỦA TA CÓ ĐƯỢC CHÚA THẮP LÊN KHÔNG?
NGỌN ĐÈN TÂM HỒN CỦA TA CÓ ĐƯỢC CHÚA THẮP LÊN KHÔNG?
Anh chị em thân mến,
Lúc Mẹ Têrêsa Calcutta ở nước Úc, một hôm Mẹ đến thăm một người nghèo già không ai biết tới. Căn phòng của ông dơ bẩn, đồ đạc ngổn ngang, lại không cửa sổ, không một bóng đèn. Mẹ bắt tay vào dọn dẹp, nhưng ông quát lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi!" Nhưng Mẹ vẫn tiếp tục. Khi mọi thứ vào ngăn nắp, Mẹ tim thấy một cây đèn dầu ở góc phòng đầy bụi. Mẹ hỏi: "Sao lâu rồi ông không thấp đèn lên?"- "Thắp làm chi? Có ai tới thăm tôi đâu!" - "Nếu sau này khi nữ tu của tôi tới thăm ông, ông hứa sẽ thắp đèn lên nhé!" Ông trả lời cởi mở hơn: "Vâng, tôi sẽ làm như vậy!" Sau đó mỗi ngày, các nữ tu đều tới chăm sóc cho ông...Một hôm ông nói với một chị em: "Bây giờ tôi biết tự dọn dẹp cho mình rồi. Cám ơn các cô. Các cô làm ơn nói lại với Bà nữ tu đầu tiên rằng: ngọn đèn mà bà đã thắp lên nay vẫn tỏa sáng." (Trích "Sợi chỉ đỏ")...
Qua câu chuyện này, ta thấy Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn đèn dầu cho ông già nghèo. Điều đó đã không vô ích. Chúa Giêsu muốn thắp lên ngọn đèn tâm hồn trong ta, ta có muốn nó luôn sáng không? Đây là đề tài chúng ta sẽ suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay...
a/. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn nạn ta cần tìm hiểu:
Một: Chúa Giêsu kêu gọi: "hãy theo Thầy"; chính khi Chúa kêu gọi là Người muốn thắp lên ngọn đèn trong tâm hồn chúng ta... Trong những ngày đầu tiên ra đi rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người mà nói: "Nước Thiên Chúa đang đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Đang đi dọc theo bờ biển, Chúa thấy hai anh em ông Simon đang thả lưới xuống biển; Chúa gọi họ: "hãy theo Ta...." Lập tức, họ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn gieo vào tâm hồn các môn đệ niềm tin đầu tiên, cũng là hình ảnh Chúa thắp lên trong tâm hồn ngọn đèn niềm tin. Đó cũng chính là hình ảnh Mẹ Têrêsa thắp lên cho ông già nghèo bị bỏ rơi, ánh đèn dầu, ánh đèn mà bao lâu nay chính ông không buồn thắp lên, cũng không được ai thắp lên cả. Ông hầu như đã bị mất niềm tin nơi mọi người, như hình ảnh cây đèn bị bỏ xó, không ai quan tâm tới nữa. Ông cũng không hi vọng ngọn đèn của mình được sáng lên.
Hai: Các môn đệ bỏ hết mọi sự mà theo Chúa: Khi bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, chính là các môn đệ muốn giữ chiếc đèn tâm hồn của mình, đã đuợc Chúa thắp lên, để nó được sáng luôn luôn, không tắt nữa. Thái độ của các môn đệ sẵn sàng bỏ hết mọi sự để theo Chúa cũng nói lên thái độ tích cực của mình, sẵn sàng theo Chúa, sẵn sàng từ bỏ bản thân, ý riêng mình để nghe lời Chúa, sẵn sàng giữ gìn ngọn đèn cho nó luôn tỏa sáng, như câu chuyện ông già nghèo sẵn sàng nghe lời Mẹ Têrêsa Calcutta, giữ ngọn đèn dầu sáng lên mỗi khi chị em tới thăm. Chúa Giêsu có nói hứa sẽ biến họ thành kẻ lưới người ta, không chỉ là người chài cá. Lúc đó, các môn đệ có thể không hiểu bao nhiêu. Ở đây ta chỉ nói đến thái độ sẵn sàng, thái độ của lòng tin. Chính Chúa đã thắp lên trong họ ngọn đèn lòng tin; phần họ, họ lại sẵn sàng gìn giữ ngọn đèn lòng tin được tỏ sáng...
b/. Câu chuyện: Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Brasil kể rằng: "Anh ruột của tôi có rửa tội hồi nhỏ. Lớn lên học trường dòng, nhưng rồi lôi thôi; sau đó lại bỏ đạo luôn. Sau khi tôi làm linh mục, anh về sống chung với tôi. Mỗi lần tôi đi giảng tỉnh tâm, anh hỏi: Chú sẽ nói về cái gì? Tôi giải thích cho anh nghe bài giảng của mình. Tám năm sau, anh bị bệnh hiểm nghèo sắp chết. Biết mình không sống được, anh gọi tôi: Tôi thấy nơi chú, giữa bài giảng và việc làm của chú không có sự cách biệt; Vậy tôi có thể dựa vào lòng tin của chú mà rước lễ được không? Tôi nói: Em tin lòng thương xót của Chúa sẽ tha thứ cho anh. - Nhưng tôi chưa đi xưng tội? Tôi định tìm một linh mục cho anh, nhưng anh xin xưng tội với tôi...Sau khi rước lễ xong, anh thều thào: Bây giờ tôi tin Chúa, không phải dựa vào lòng tin của chú, mà thực sự tôi xác tín Chúa thương tôi...Sau đó anh chết cách bình an. (Vietcatholic news 12. 2007).
Đức TGM Brasil đã nói với người anh của mình: "Hãy theo Chúa"; Ngài không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính cách sống của mình. Anh của Ngài đã tin, người anh đã muốn giữ ngọn đèn mà em của ông thắp lên trong tâm hồn của mình; chính vì lẽ đó, trong giờ phút cuối cùng, ông đã ăn năn trở lại và đã chết bình an, nghĩa là ông giữ cho chiếc đèn tâm hồn mà em ông thắp sáng lên, không hề tắt nữa.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Câu chuyện trên đẹp quá, phải không anh chị em? Nhưng nó sẽ đẹp hơn nhiều, nếu mỗi người kitô hữu chúng ta biết để Chúa Kitô thắp chiếc đèn tâm hồn cho mình, nghĩa là mình sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi: "Hãy theo Thầy". Ta có nghĩ rằng Chúa Kitô muốn nói với ta: "Hãy theo Thầy". Tin như vậy, Ta có sẵn sàng bỏ hết mọi sự mà theo Chúa không?
57. Nhìn về tương lai - Lm. Jos Nguyễn Hữu An
Có một thầy ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là "Tượng Chúa ban ơn"
Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.
Một hôm vắng người, thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: "Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá".
Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: "Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết". Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.
Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.
Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy thầy vẫn yên lặng.
Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.
Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.
Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, thầy Xê-bat-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.
Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: "Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá, con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa."
Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?
Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ. Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn. (Trích tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, trang 27)
Câu chuyện này nhắc chúng ta nhớ lời Chúa trong sách Isaia: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu.
Trong suy nghĩ của con người,chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm đã kể.
Đó là những người chài lưới, "ăn với sóng, nói với gió", ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ. Tại sao Chúa Giêsu không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái?
Cũng như chúng ta cũng hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Người là Đấng Giải Thoát khi Người đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng?
Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.
Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa. Con người là thụ tạo.
Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.
Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.
Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.
Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.
Về mặt xã hội, hai mươi mấy năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. "Chủ nghĩa lý lịch" tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ do cha mẹ, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.
Cho nên xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai, lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai. Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời... Và trên hết cũng như sâu hơn hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về tương lai.
58. Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu)
Ninivê kinh thành sám hối: một kinh thành "lớn quá trời rộng ba ngày đàng" (Ga 3,3), đặc biệt đó là một kinh thành ngoại giáo. Chính trong kinh thành này, lời sấm của Ngôn sứ Giona đã vang dội khắp hang cùng ngõ hẻm, dội tới cung điện đức vua. Điều kinh ngạc là dân thành đã "tin vào Thiên Chúa" và tin vào lời rao giảng sám hối của sứ giả Thiên Chúa sai đến. Nhà vua đã ra chiếu chỉ bắt toàn dân từ vua quan tới thứ dân phải theo nghi tiết sám hối... Và Thiên Chúa đã chấp nhận tấm lòng thống hối của Ninivê.
Đức Kitô, sau thời gian tĩnh tâm trong sa mạc đã khai mào việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tại Galiê:
"Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên" (Mc 1,14)
Theo địa dư, Galilê giáp với xứ Samarie và miền Syrô-Phénicie, ngoài dân địa phương là người Do Thái lập cư, còn có các sắc dân thiểu số ngoại bang khác cư trú, họ là những người ngoại giáo. Điều đáng lưu ý là Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ Galilê. Rồi sau khi sống lại, Ngài cũng hẹn với các môn đệ của Ngài ở Galilê (Mc 14,28 và 16,7). Quả thực, Tin Mừng đã được công bố cho cả dân tộc Do Thái và dân ngoại.
Một trong những điều kiện tiên quyết để đón nhận nước Thiên Chúa chính là lòng hối cải: "Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,14). Đọc hạnh các thánh, nhất là những vị đại thánh, chúng ta kinh ngạc và thán phục con đường cải quá tự tân dẫn các ngài từ con đường sa đọa tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa: Một Augustin, một Charles de Foucauld... và biết bao những tâm hồn lành thánh khác. Lòng hối cải thường bắt đầu với sự đánh động từ thâm sâu của Thiên Chúa, nói một cách khác chính ân thánh của Thiên Chúa biến cải tâm hồn và làm cho con người tìm về đàng ngay nẻo chính. Tiếp đến là một đoạn tuyệt, cắt đứt với đời sống dĩ vãng, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người được tái tạo trong ân thánh. Dân thành Ninivê đã nhận lấy lời cảnh cáo của sứ giả Thiên Chúa, đã ăn năn sám hối và chắc hẳn đã cải bỏ nếp sống lăng loàn cũ để bắt đầu cuộc sống mới trong đức tin vào Thiên Chúa.
Lý do khiến con người hối cải thật lớn lao: để tiếp nhận Nước Thiên Chúa, đón nhận ơn cứu độ. Con người từ bỏ kiếp sống nô lệ tội ác trở về với thiên chức con cái Thiên Chúa. Trong cái nhìn vĩnh cửu và khải huyền đó, thánh Phaolô đã khuyên tín hữu thành Corinthô hãy hướng nhìn về tương lai:
"Vì bộ dạng thế gian này đang qua đi" (1 Cr 7,31)
Dân thành Ninivê sống vào thế kỷ thứ 8 trước kỷ nguyên, rồi đến các tín hữu thành Côrinthô cũng như những người đồng thời với Đức Kitô quả thực họ đã qua đi. Bao nhiêu đế quốc đã sụp đổ hoang tàn không còn vết tích. Và thế gian với những phù hoa của nó: tiền tài, danh vọng và sắc dục... tất cả cũng sẽ qua đi. Sống trong kiếp phù du, con người thường bị vật chất ru ngủ, quên đi kho tàng khôn sánh ví là Nước Thiên Chúa. "Và tức khắc họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài", các môn đệ đầu tiên theo Đức Kitô hẳn đã hiểu phần nào Tin Mừng nước Thiên Chúa họ đã nghe Thầy mình rao giảng, họ đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, ngay cả những gì cấp thiết nhất cho kế sinh nhai của họ. Còn chúng ta, những người con đang sống trong thế giới mau qua chóng hết này, chúng ta phải có thái độ và nếp sống nào đối với Tin Mừng Nước Thiên Chúa chúng ta đã lãnh nhận?
59. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Con người ai cũng nặng tình gia đình không thể rời xa cha mẹ. Thế mà, anh chị em đã từng chứng kiến: biết bao người đã dám từ bỏ cha mẹ mình cách dứt khoát, để chạy theo tiếng gọi của tình yêu. Khi đó họ không còn phải suy nghĩ gì nhiều đến cha mẹ mình nữa, chỉ còn có con tim là trên hết. Tiếng gọi của con tim nó bao phủ tất cả, nó lấn át tất cả. Khi đó họ không cần biết những gì sẽ chờ đợi mình, không cần biết tương lai sẽ ra sao. Họ chỉ cần biết, giờ đây họ hành động theo lệnh lệnh của con tim mách bảo và bước theo tiếng gọi của tình yêu. Như thế họ bắt đầu một cuộc đời mới mà không cần suy nghĩ gì nhiều. Mỗi người đều trải qua giai đoạn như thế, cứ sự thường thì chăng ai hối tiếc về việc làm đó của mình cả.
Các tông đồ cũng thế. Các ông cũng bước đi theo tiếng gọi: hãy theo Ta. Chúng ta nhìn xem thái độ của các ngài như thế nào? - Không một tiếng trả lời, vội đứng dậy, bỏ tất cả để ra đi. Các ông đã bỏ cha mẹ, bạn bè thân hữu, tài sản, cả những gì đã từng làm vướng bận tay chân các ngài bấy lâu nay: đó là chiếc lưới với những mớ dây chằn chịt đã từng trói chặt đôi chân các ngài, không cho các ngài đi đâu . Thế mà giờ đây tất cả cả những thứ đó đều trở nên vô dụng trước tiếng gọi của tình yêu cao cả. Các ngài đã dứt khoát những gì gần gủi với mình bấy lâu nay để bước đi mà không cần biết đi đâu, không cần biết tương lai như thế nào và cũng chẵng cần biết phải làm gì. Giờ đây các ngài chỉ cần biết nghe theo tiếng gọi và đáp trả là đủ. Cuộc đời các ngài đã trung thành với tiếng gọi. Các ngài đã làm tròn những gì mà tiếng gọi đòi hỏi, cho đến đỗi đã dám hy sinh cả mạng sống vì tiếng gọi. Lời mời gọi đó vẫn còn vang lên mãnh liệt qua từng thời đại. Cũng có biết bao người không thể từ chối hay cưỡng lại được nên cũng đã bước theo và trung thành cách tốt đẹp.
Ngày hôm nay, tiếng gọi tình yêu cao cả đó cũng đã vang đến bên tai mỗi người chúng ta, và chúng ta cũng đã đáp lại . Mỗi người cũng đã dứt khoát và bước đi theo tiếng gọi. Nhưng rồi từng ngày, từng ngày trôi qua và giờ đây mỗi người nhìn lại mình xem: Chúng ta đã sống theo tiếng gọi như thế nào? Mệnh lệnh con tim thuở ban đầu giờ đây chắc không còn hiệu quả lắm đối với chúng ta. Bởi vì thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn trở về cây da cũ bến đò xưa, để tìm lại những bạn bè năm xưa. Đó là mỗi khi phạm tội, là chúng ta đã trở về với con người chưa được kêu gọi. Chúng ta cũng còn để cho những mớ chày lưới rối tung đó quấn chặc những bước chân của mình để rồi không thể tiếng bước thêm được nữa. Cũng có những lúc chúng ta để cho những tình cảm riêng tư trong con người nỗi lên lấn át cả tiếng gọi linh thiêng của mối tình cao cả mà ngày nào mình đã can đảm bước theo. Nhưng giờ đây đôi lúc chúng ta sợ sệt: sợ không còn ai yêu thương mình, nếu sống theo tiếng gọi mà mình đã bước theo, sợ thiệt hại bản thân nếu sống đúng với những gì tiếng gọi đòi hỏi, sợ mất đi một chút thời giờ quí báu để hưởng thụ cho thân xác nếu mình sống đúng với những gì sứ mệnh của tiếng gọi đòi hỏi. Nỗi lo sợ đó là những mớ dây chày lưới đã trói bược đôi chân, khiến chúng ta không thể bước đi thoải mái theo tiếng gọi và trung thành với những gì mà tình yêu cao cả đòi buộc chúng ta.
Nếu tất cả mọi hành động, mọi lời nói của chúng ta đều phát xuất bởi tình yêu , nếu chúng ta biết đối xử với người khác bằng tất cả tình yêu thương mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nếu chúng ta biết sống như thế nào để người khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện nơi chúng ta thì như thế mình đã sống trọn vẹn và trung thành với tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết yêu thương thật sự, để trung thành đáp lại lời mời gọi của Chúa trong đời sống hằng ngày.
60. Đức Giêsu hành động nhờ trung gian các môn đệ
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê, cc.14-15) và phần đầu của hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (cc. 16-20).
Tin Mừng không phải là bản công bố một loạt các chân lý rõ ràng và tách biệt. Ngược lại, đây là một bản tường thuật lôi kéo độc giả vào, đặt câu hỏi cho độc giả, gây ra những nỗi ngờ vực và những câu hỏi. Nhưng chính là nhờ cứ tiếp tục tự hỏi trong công việc giải thích, mà độc giả–thính giả trở thành môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng bước đi đàng sau Thầy. Đọc lần đầu tiên, hoặc đọc những đoạn rời rạc, độc giả thấy ý nghĩa của Tin Mừng không rõ ràng. Do đó độc giả cần có can đảm đọc tiếp, và cứ để cho những thắc mắc mở ra và chờ đợi các câu trả lời đến dần dần.
Cùng với việc Đức Giêsu xuất hiện, hành trình của các môn đệ cũng bắt đầu. Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Galilê. Qua các hành động của Người, Nước Thiên Chúa cũng đến gần.
2.- Bố cục
Bản văn gồm hai đoạn nhỏ có thể văn khác nhau:
1) Một “bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c. 14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15);
2) Bài tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20):
a- Đức Giêsu thấy (cc. 16.19),
b- Đức Giêsu gọi: đến, theo (cc. 17.20a),
c - Các ông đáp: từ bỏ và đi theo (cc. 18-20b).
Người ta thường coi “bộ ba” Gioan Tẩy Giả – Phép Rửa – Cám Dỗ như một phần Mở của TM Mc, còn “bản tóm tắt” là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Toàn bản văn chúng ta đang khảo sát là phần khai mạc sứ mạng của Đức Giêsu với khởi đầu công việc rao giảng của Ngài và việc kêu gọi các môn đệ. Trong Mc, có nhiều đoạn nhắc lại và nối kết hai điểm này: x. 3,7-12.13; 6,6b.7-12).
Tuy nhiên, người ta cũng có thể coi 1,1-15 là một khối, được đóng khung bởi hai từ “Tin Mừng” (cc.1 và 15) (x. Gnilka). Sang phần kế tiếp, tác giả đưa vào một phần mới với “biển hồ Galilê”. Như thế, có thể nói, nhờ lối cấu trúc đóng khung, ta hiểu lúc đầu Tin Mừng được giới thiệu tổng quát, sau sẽ được giới thiệu chi tiết.
Các câu 14-15 long trọng giới thiệu các lời nói đầu tiên của Đức Giêsu theo Mc, do đó, cần lưu ý đến tầm quan trọng của những lời này. Trong Mt và Lc, Đức Giêsu đã nói trước khi đi vào đời sống công khai: qua ba mẩu đối thoại với quỷ (Mt 4,3-10; Lc 4,3-12); trước đó, Mt 3,14-15 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Gioan Tẩy Giả, còn Lc 2,48-49 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Đức Maria tại Đền Thờ. Những lời đầu tiên của Đức Giêsu có ý nghĩa đối với nền thần học Mt và Lc, thì hẳn cũng có ý nghĩa đối với nền thần học Mc... Nhưng bản văn song song đích thực chính là lời nói công khai đầu tiên của Đức Giêsu được ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại:
a) So sánh Mc với Mt
Mt 4,17 |
Mc 1,14-15 |
Đức Giêsu rao giảng |
Đức Giêsu bắt đầu rao giảng |
|
Tin Mừng của Thiên Chúa: Thời kỳ đã mãn |
Anh em hãy sám hối |
|
vì Nước Trời đã đến gần |
Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đã đến gần Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng |
Công thức của Mt thì ngắn và mờ nhạt hơn công thức của Mc. Điểm nòng cốt (Nước Thiên Chúa và hoán cải) được đóng khung bởi hai yếu tố bổ sung: “thời kỳ đã mãn”, và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”.
Ngay trong bản văn Mt, câu nói ngắn ngủi của Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả nói trước đó: Tác giả Mt dùng cách đó để khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng (việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Thầy). Nhưng vì thế, khi so sánh với bản văn Mt, ta thấy bản văn Mc phong phú hơn, độc đáo hơn, đặc biệt với từ “Tin Mừng” đặt trên môi miệng Đức Giêsu.
b) So sánh Mc với Lc (Lc 4,14-15): Tác giả Lc nói rằng Đức Giêsu giảng dạy nhưng không ghi lại một lời nào của Người; ngược lại, ngay sau đó, trong câu truyện hội đường Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu đọc đoạn văn Is 61, mà theo Lc, là cả môt chương trình. Mà Lc lại dùng động từ “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai) (Lc thích dùng động từ này hơn là danh từ “Tin Mừng”). Đây là điểm song song đáng lưu ý với bản văn Mc. Trong cả hai bản văn, quang cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một Tin Mừng.
Mc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “Tin Mừng” (HL. euangelion) khi ngài dùng từ này mà đóng khung bản văn của ngài: “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Từ ngữ “Tin Mừng” được lặp lại ba lần để đóng khung hai đoạn văn trong cùng một phân đoạn, khiến ta hiểu đây là “từ chìa khoá” vừa của phần Mở vừa của “bản tóm tắt”. Đàng khác, nếu từ “Tin Mừng” đóng khung những lời nói đầu tiên của Đức Giêsu, điều này có nghĩa là, muốn hiểu những lời này, ta phải đi từ “Tin Mừng”.
3.- Vài điểm chú giải
- Tin Mừng (14.15): Tác giả dùng từ ngữ “Tin Mừng” ở dạng tuyệt đối (= không có bổ ngữ theo sau) 5 lần, mà ta có thể phân phối thành hai loạt: trong quan hệ với việc rao giảng cho Dân ngoại (13,10; 14,9; 16,15) và khi nói về việc các môn đệ bị bách hại và phải biết hy sinh (8,35; 10,29). Trong hai bản văn cuối cùng, đáng lưu ý là “Tin Mừng” được đặt song song với Đức Giêsu: “vì tôi và vì Tin Mừng”, y như là một sự đồng hoá. Tin Mừng được nói đến y như là một nhân vật. Trong tác phẩm Mt, từ ngữ này chỉ được dùng 3 lần trong thuật ngữ “Tin Mừng về Nước Trời”, còn Lc thì không bao giờ sử dụng. Hẳn đây là sáng kiến của riêng tác giả Mc. Nhưng cũng rất có thể là ngài đã nhận lấy ý niệm này từ Phaolô, vì vị tông đồ đã sử dụng từ ngữ “Tin Mừng” khoảng 60 lần, và có tới khoảng 30 lần dùng từ ngữ này ở thể tuyệt đối (Các bản văn chính: 1 Tx 2; 1 Cr 9; Rm 1; 15; Pl 1 và 4). Từ ngữ này có nhiều nghĩa:
+ việc loan báo một sứ điệp hạnh phúc: nội dung của sứ điệp này;
+ hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô nơi Dân ngoại;
+ giá trị tối cao mà thánh Phaolô phải đón nhận vì vượt quá ngài vô cùng;
+ nhất là, đây luôn luôn là một thực tại sống động, năng động, một biến cố đang diễn tiến: sự xuất hiện của vinh quang (2 Cr 4,4), sự mạc khải đức công chính của Thiên Chúa đang hoạt động để cứu độ loài người (Rm 1,16). Phaolô có thể nói rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa quyền năng do phục sinh từ cõi chết” (Rm 1,4) hoặc Tin Mừng là “quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin” (Rm 1,16). Nhìn theo quan điểm cứu độ, Phaolô cũng như Máccô đồng hoá Đức Giêsu và Tin Mừng (so sánh Mc 1,14-15 với Rm 1,1-5.16).
Các độc giả của Phaolô, sống trong đế quốc, đã quen với những từ ngữ như “quang lâm”, “giáng lâm”, “tiền hô”, “công bố” (HL. kêrygma)… Nhưng tư tưởng của Phaolô không bắt nguồn trực tiếp từ nghi thức đón tiếp hoàng đế, mà là từ một nền tảng Cựu Ước: từ các câu chuyện các vua Saun, Đavít và Salômôn (x. 1 Sm 31; 2 Sm 1,4; 1 V 1) trong đó Tin Mừng có ý nghĩa là chiến thắng, giải phóng, sự hiển ngự của một vị vua. Đặc biệt từ sách Sách Yên Ủi Israel (Is 40–55) trong đó có từ ngữ “Tin Mừng”: hai lần ngài đã quy về Is 52,7 (x. Rm 10,15; Ep 6,15). Sách II Isaia đã dùng từ “Tin Mừng” mà áp dụng cho một biến cố cụ thể: biến cố giải phóng những người lưu đày, nhờ chiến thắng của vua Kyrô và sắc lệnh cho phép họ hồi hương và tái thiết Đền Thờ. Khi giải phóng Dân Người, Đức Chúa (Yhwh) tỏ ra cho Dân ngoại thấy Người là Đấng Cứu độ đầy quyền lực, là Đấng công chính, Đấng yêu thương. Thiên Chúa đã thiết lập triều đại của Người khi tích cực can thiệp mà cứu độ Dân Ngài và tỏ mình ra cho họ. Vậy Tin Mừng là việc công bố cho muôn dân biết cuộc đăng quang này của Thiên Chúa.
Đối với Phaolô và cả Mc nữa, Tin Mừng là một cuộc đăng quang hoàng đế, là một triều đại bắt đầu (x. Rm 1,1-4). Nhưng nếu Phaolô đặt biến cố đăng quang vào lúc Đức Giêsu chết và sống lại, Mc lại đưa biến cố ấy ra trước, đặt vào đời sống công khai của Đức Giêsu. Đối với Mc, quyền lực của Đấng Phục Sinh đã được bày tỏ cách kín ẩn trong những lời nói và việc làm của Đức Giêsu trần thế. Được loan báo trong bản tóm tắt, Tin Mừng sẽ được bung ra trong những bài tường thuật kế tiếp: lời rao giảng với uy quyền, cuộc chiến đấu chống Satan, các phép lạ và, có thể, trước tiên, việc chọn lựa các môn đệ. Từ đó, biến cố cứu độ khởi đầu cho Triều Đại của Thiên Chúa (“Tin Mừng của Thiên Chúa”: Mc 1,14) chính là bản thân Đức Giêsu (“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”: 1,1) đang hành động và rao giảng, Người chính là “Triều-Đại-hiện-thân” (Origiênê). Như Phaolô nói, và như Mc đã hiểu rất đúng: Tin Mừng của Thiên Chúa, chính là Con của Người. Và Đức Giêsu có thể nói: “Triều Đại (Nước Thiên Chúa) đang ở đó” bởi vì chính Người đang ở đó.
Sự song song giữa hai bản văn của Phaolô (Rm 1,1-5 và Rm 1,16-17) và Mc (Mc1,14-15) còn cho thấy một yếu tố khác nữa: lời đáp của con người với biến cố cứu độ hệ tại một thái độ duy nhất, đức tin. Hoán cải, chính là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Tin Mừng và dấn thân phục vụ Tin Mừng.
- Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ: Trong Mt, có một bản văn hầu như tương tự bản văn Mc, còn trong Lc, hoàn cảnh khác hẳn: đây là một bản văn độc đáo với ba yếu tố: giảng dạy đám đông, mẻ cá lạ lùng và việc kêu gọi Phêrô. Có thể nói bài tường thuật về việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên đã có trong truyền thống ở dạng độc lập.
Đọc lướt qua, chúng ta có ấn tượng đây là một sự kiện tầm thường. Đọc kỹ hơn, ta thấy hoàn cảnh không đơn giản mấy. Trong thực tế, có hai bài tường thuật nhỏ, khá giống nhau, ta có thể đọc riêng rẽ, nhưng chúng được nối kết với nhau về thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh, làm thành một khối rất thống nhất.
Nói là hai bài tường thuật vì các đoạn văn này được xây dựng theo cùng một mẫu, theo cách lược đồ (làm bảng nhất lãm thì thấy rõ). Ta có thể đọc thêm bài tường thuật về ơn gọi của Lêvi (x. 2,14) để thấy những đặc điểm tương tự.
|
Phêrô-Anrê |
Giacôbê-Gioan |
Lêvi |
1. |
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê |
Đi xa hơn một chút |
Đi ngang qua (trạm thu thuế) |
2. |
Người thấy Simon với em là Anrê |
Người thấy Giacôbê với người em là Gioan |
Người thấy Lêvi con Anphê |
3. |
đang quăng lưới xuống biển vì họ làm nghề đánh cá |
đang vá lưới ở trong thuyền |
đang ngồi ở đó (trạm thu thuế) |
4. |
Người bảo: Các anh hãy theo Tôi (Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá) |
Người liền gọi các ông |
Người bảo ông Anh hãy theo Tôi |
5. |
Lập tức hai ông bỏ chài lưới |
Và các ông bỏ cha mình là Dêbêđê (ở lại trên thuyền với những người làm công) |
Ông đứng dậy |
6. |
mà đi theo Người |
mà đi theo Người |
đi theo Người |
Có hai yếu tố không đổi: khi đi ngang qua, Đức Giêsu thấy ai đó với nghề nghiệp; Người kêu gọi, người ấy bỏ nghề, đi theo Người. Đây là cái khung trong đó ta chỉ cần thay đổi tên người được gọi và kiểu sống của kẻ ấy.
Trong thực tế, sự song đối không hoàn toàn sít sao. Nếu đọc các bài tường thuật từ trái qua phải, ta nhận thấy rằng, cứ sang một cột, lại mất đi một yếu tố. Nhưng dù cho hai bài tường thuật đầu vừa theo một lược đồ tương tự vừa có thể tách rời nhau, ta vẫn có thể nói rằng dường như chúng không được viết độc lập với nhau; trái lại, chúng bổ túc cho nhau rất khéo. Cho dù công thức “họ làm nghề đánh cá” được dùng cho Simôn và Anrê, ta vẫn hiểu rằng Giacôbê và Gioan cũng làm nghề ấy. Mỗi bài mô tả một phương diện của nghề đánh cá (quăng lưới; vá lưới) nhưng cả hai mới cung cấp một bức hoạ đầy đủ về nghề này. Muốn biết bốn người đã bỏ gì lại, phải cộng các chi tiết của hai bài: lưới, thuyền, cha; nghĩa là: nghề nghiệp và gia đình. Nhưng đặc biệt hai câu 17 và 20 soi sáng lẫn nhau: Lời hứa “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” chỉ được ngỏ với Simôn và Anrê, nhưng rõ ràng cũng có liên hệ đến Giacôbê và Gioan. Câu “Người gọi các ông” (bản văn 2) không nhắc lại “Các anh hãy theo tôi” (bản văn 1). Câu 17 xác định đối tượng của việc Đức Giêsu kêu gọi (một sứ mạng), còn c. 20 giải thích lời mời gọi bước theo Đức Giêsu (một ơn gọi). Như thế, những chi tiết hơi khác nhau trong hai bài lúc đầu đã khiến người ta nghĩ đến những bài tường thuật tiểu sử, nhưng vì đặc tính đúc sẵn của chúng, có lẽ phải coi đây là một thể văn riêng. Nhiều nhà chú giải cho rằng bài tường thuật này đã dựa theo một bài mẫu là ơn gọi ngôn sứ Êlisa (x. 1 V 19,19-21). Những điểm giống nhau giữa hai bản văn cho thấy tác giả đã dựa vào sách 1 Vua, những chỗ khác nhau cho thấy rằng ngài cũng có quan điểm riêng của ngài.
+ Giống nhau: Hai bản văn có cùng một cấu trúc, hầu như có cùng những từ ngữ giống nhau: Êlia (như Đức Giêsu) đi qua, gặp một người đang làm việc, mời người ấy đi theo mình. Người môn đệ mới liền bỏ nghề và cha mà đi theo Thầy. Trong trường hợp Êlisa, điểm thứ năm chi tiết hơn: ông huỷ tất cả những gì liên hệ với cuộc sống trước đây, và ông từ giã cha mẹ (= hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ). Điều lạ lùng là yếu tố này chỉ được nhắc lại trong một bài tường thuật về một ơn gọi hụt do Lc viết (9,61-62) ở cuối một chuỗi ba câu truyện (Mt chỉ ghi giữ hai truyện đầu: Mt 8,18-22): Ở đây ta gặp lại lời xin được từ giã gia đình và lời nói về “cái cày”. Như vậy, dường như truyền thống liên hệ đến ơn gọi của Êlisa, bằng ảnh hưởng trực tiếp nhưng cũng bằng tương phản, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác các bài tường thuật về ơn gọi trong Tin Mừng. Các điểm khác nhau còn cho thấy rõ điều này hơn.
+ Khác nhau:
(1) Từ biệt cha mẹ. Câu trả lời của Êlia có thể có vẻ hàm hồ, nhưng Do Thái giáo coi lời ông như một lời cho phép. Còn trong ba bài tường thuật của Lc (9,57-62), Đức Giêsu không chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào. Trong cuộc kêu gọi các ngư phủ, không hề có lời nào cho thấy họ xin từ biệt cha mẹ. Ngược lại, mọi sự đi theo chiều hướng một sự đoạn tuyệt tận căn.
(2) Êlia “gặp thấy” Êlisa gần như do tình cờ và dùng một cử chỉ mà mời ông đi theo. Ngược lại, Đức Giêsu “thấy” những kẻ Người gọi, một cái nhìn diễn tả một sự lựa chọn trước; ngoài ra, Người còn nói một lời (“Hãy theo tôi”) chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người.
(3) Êlisa đi theo Êlia chỉ như một người tôi tớ; còn bốn người được Đức Giêsu kêu gọi, thì được Người cho biết sẽ giao cho họ một sứ mạng. Các từ ngữ gợi ý một sự chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trong thực tế Đức Giêsu xác định một sự thay đổi hoàn toàn chiều hướng sống.
Lời Đức Giêsu làm cho bốn ông trở thành “ngư phủ lưới người” chính là trọng tâm, xoay quanh đó là bài tường thuật ơn gọi nhằm một sứ mạng. Chúng ta nhận thấy có những điểm nổi bật:
+ Sáng kiến của Đức Giêsu cho thấy uy quyền tối cao và tính hữu hiệu của lời Người. Không phải là người môn đệ đi tìm một vị thầy dạy suy tư, nhưng là Đức Giêsu đi bước trước. Như Yhwh đã thấy Môsê, đã nhận ra Giêrêmia, Đức Giêsu thấy, chọn và gọi những kẻ Người muốn. Ngay từ đầu, Người đã xử sự như thầy và chúa tể.
+ Lời đáp của kẻ được gọi: tuyệt đối vâng lời Đức Giêsu, như trường hợp các ngôn sứ; đoạn tuyệt trọn vẹn với hoàn cảnh trước đó (gia đình và nghề nghiệp); dâng mình hoàn toàn cho Đấng kêu gọi để sống với Người một cuộc sống mới.
+ Đức Giêsu kêu gọi để giao phó một sứ mạng. Đối với Giáo Hội tiên khởi, bài tường thuật này là nền tảng cho quyền bính tông đồ. Sứ mạng của các ông không đến từ các ông, nhưng từ một tiếng gọi và nó bén rễ trong sự kiện các ông đã bước theo Đức Giêsu.
- “Kẻ lưới người như lưới cá” (halieis anthrôpôn) (c. 17): Tại Sumer (thiên niên kỷ iii) và tại Mari (thiên niên kỷ ii), trong một ngữ cảnh nói về chiến tranh, tấm lưới cá là một dụng cụ giúp đạt chiến thắng trên kẻ thù và là biểu tượng diễn tả việc Thượng Đế thực thi công lý. Trong nhiều bản văn ngôn sứ, đặc biệt Gr 16,16; Kb 1,14-15, ta thấy những tư tưởng và hình ảnh này liên hệ đến việc Yhwh phán xét Israel: trong dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-49), hình ảnh ám chỉ cuộc chọn lọc trong ngày tận thế. Nhiều cách diễn giải: “you will catch men as if you were catching fish” (Barrow Eskimo), “just like you catch fish, I will make catch men (San Blas), “give power to bring men” (Black Bobo), “make you become ones who are men bringers (Moré), “fishers who fish (or catch) men” (Bratcher & Nida).
- “Lập tức hai ông bỏ …”: Tác giả Mc chỉ áp dụng hai lần động từ HL aphiêmi, “leave, abandon”; “rời bỏ, bỏ rơi” cho các tông đồ (ở đây và 14,50). Có lẽ ngài muốn nói: bỏ của cải mình cũng chẳng ích gì nếu lại bỏ rơi Đức Giêsu trước cái chết, hay chỉ “theo Người xa xa” (14,54). Kể từ việc tuyên xưng đức tin tại Xêdarê và lời loan báo Khổ Nạn lần đầu, Mc đưa vào vào đề tài con đường (x. 8,27. “Con đường” đánh dấu các chặng lên Giêrusalem: 9,33; 10,32). Nhưng trên con đường này, mặc dù đi đàng sau, các môn đệ không muốn theo Đức Giêsu tiến về cuộc Khổ Nạn. Ngược lại, người môn đệ chân chính, là anh mù Báctimê, khi đã thấy, thì theo Đức Giêsu trên con đường này (10,52). Kể từ nay, bước theo Đức Giêsu, chính là vác thập giá (x. 8,34). Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan chỉ thực sự đi theo Đức Giêsu khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. 1,38; 2,15), và hy sinh mạng sống “vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng” (8,35).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
* Gọi bốn môn đệ đầu tiên (16-20)
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người. Ngoài ra, bởi vì ngoại trừ trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu không làm gì mà không có các môn đệ. Điều này có hai ý nghĩa: 1) Ngay khi xuất hiện, Đức Giêsu tạo lập một cộng đoàn, một gia đình (x. 3,20-35) gồm các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai đi” (3,14). 2) Các ông là những người tiếp nối công trình của Người, các ông phải làm chứng về những hoạt động của Người. Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.
Ở đây, chúng ta ghi nhận Simôn nổi lên như người thứ nhất trong anh em do chính sáng kiến của Đức Giêsu (sẽ có lúc tên ông không được nêu ra đầu tiên nữa: x. 16,7); chính Người đã tách ông ra khi thiết lập Nhóm Mười Hai, Người đã đổi tên Simôn thành “Phêrô” (x. 3,13-19).
+ Kết luận
Vậy bài tường thuật này có một ý nghĩa thần học. Nhưng còn giá trị lịch sử thì sao? Dường như bài này đã gây nhiều vấn nạn, và các Tin Mừng viết sau (như Lc và Ga) đã trình bày việc kêu gọi đúng thực tế hơn. Dù vậy, bên kia tính chất lược đồ thần học, bài này cũng phản ánh những nét lịch sử:
- Các môn đệ đã thực sống quanh Đức Giêsu (“bước theo, đi đàng sau” là động từ xác định quan hệ của một nhóm môn đệ với một vị thầy (Rabbi).
- Con người Đức Giêsu có sức thu hút người ta đi theo Người vô điều kiện (nhiều đoạn Mc cho thấy như vậy).
- “Bước theo” Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu.
- Có thể coi câu nói “những kẻ lưới người” là câu nói của chính Đức Giêsu, vì không có bản song song trong truyền thống kinh sư Do Thái hay Hy Lạp.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tác giả muốn nêu bật sự nối tiếp giữa cuộc đời Đức Giêsu và Giáo Hội. Cuộc đời Đức Giêsu được giới thiệu bởi một vị Tiền Hô “bị nộp”. Cuộc đời các ông cũng sẽ được mạc khải bởi một Đấng “bị nộp” và “sống lại”. Đọc câu truyện hôm nay, thực sự phải nhận ra, đây chính là Đấng Phục Sinh vừa xuất hiện trên bờ biển, liên kết con người vào Tin Mừng bằng lời quyền năng của Ngài. Kể từ nay, Galilê chính là toàn trái đất, và bốn vị tông đồ là cộng đoàn mênh mông gồm những người bước theo Đức Giêsu.
2. Người Kitô hữu hôm nay cũng là những người đã nhận được lời kêu gọi: “Hãy theo tôi”. Họ không tự ý ra trình diện Đức Giêsu, không thỉnh nguyện được tham gia vào công trình của Người. Đức Giêsu cũng không nhận họ như là những cộng sự viện có tiền lương và có thời gian nghỉ hè. Người kêu gọi họ. Tiếng gọi của Người rất đòi hỏi, nhưng đưa lại trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc đời họ.
3. Đức Giêsu không đề nghị cho họ một chương trình đã được hoạch định sẵn, nhằm thuyết phục họ là dấn thân theo chương trình ấy là chuyện hợp lý. Người gọi họ đến với Người. Thật ra tiếng gọi của Người cũng là một mệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho họ là bản thân Đức Giêsu. Người đi trước họ, và họ phải bước theo Người. Nội dung cơ bản của tiếng gọi, tức của cuộc sống mới của các môn đệ, là sự quy hướng về Đức Giêsu, sự hiệp thông đời sống với Người. Người môn đệ ký thác vào sự hướng dẫn của Người.
4. Tiếng gọi này đặt người môn đệ vào trong một tương quan riêng tư với Đức Giêsu, làm cho người ấy trở nên thành viên của một cộng đoàn và tạo ra tương quan của người ấy với những người được gọi khác. Đi theo Đức Giêsu không phải là từng cá nhân riêng lẻ, nhưng là một cộng đoàn các môn đệ. Nhưng không phải là các môn đệ mà là Đức Giêsu, bằng tiếng gọi của Người, xác định ai thuộc về cộng đoàn này.
5. Tiếng gọi này là một lời mời để cho Người đào tạo: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Người trao cho họ một nhiệm vụ mới và Người chuẩn bị họ. Họ sẽ dẫn những người khác đi trên cùng một nẻo đường mà họ đang theo, tức sống hiệp thông với Đức Giêsu.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam