Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1365964

NGÔN SỨ BỊ TỪ CHỐI

NGÔN SỨ BỊ TỪ CHỐI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

I/. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Tục ngữ có câu “Lời thật mất lòng”. Chúa Giêsu ưu tiên loan Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nadarét, thế mà họ lại xua đuổi Ngài. Thời bây giờ cũng vậy, nhiều người không muốn nghe những lời xây dựng chân thành, thậm chí còn ghét những người nói thẳng nói thật.

Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về thực tế chua chát ấy, và xin Chúa giúp chúng ta đừng rơi vào thói xấu ấy.

II/. Gợi ý sám hối

  • Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con bỏ ra ngoài tai những lời xây dựng chân thành của kẻ khác.
  • Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con có phản ứng không tốt với người khác chỉ vì họ đã nói thẳng nói thật.
  • Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đối xử bất công: vui vẻ với người khen nịnh, và khó chịu với người chân thành góp ý.

III/. Lời Chúa

1/. Bài đọc I (Gr 1,4-5,17-19)

Giêrêmia tự thuật về việc Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ: Thực ra Giêrêmia không muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Nhưng vì tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.

2/. Đáp ca (Tv 70)

Thánh vịnh 70 quãng diễn tâm tình của ngôn sứ Giêrêmia. Đó là tâm tình cậy trông và phó thác: “Con ẩn náu bên Ngài lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ… Xin Ngài như núi đá cho con tru ẩn, như thành trì để cứu độ con”.

3/. Tin Mừng (Lc 4,21-30)

Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:

1/. Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.

2/. Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.

3/. Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.

4/. Bài đọc II (1 Cr 12,31–13,13) (Chủ đề phụ)

Sau khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là Đức Mến.

  • Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị thực (“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng… mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chủm choẹ xoang xoảng”).
  • Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức khác (“Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Mến”)

IV/. Gợi ý giảng

* 1. Cần có ngôn sứ

Mỗi thời kỳ lịch sử đều có ngôn sứ. Mỗi thời kỳ lịch sử đều cần ngôn sứ. Bởi vì “ngôn sứ” là sứ giả của Lời Chúa, nếu không có ngôn sứ thì có thể Lời Chúa sẽ bị yếu đi.

Thời Cựu Ước có các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkiên v.v. Thời Tân Ước có Chúa Giêsu, có các tông đồ… Thế kỷ XIII có Phanxicô Assisi… Thế kỷ XVII có Vinh Sơn Phaolô… Thế kỷ XX có Têrêsa Calcutta v.v.

Thực ra con người ngôn sứ chẳng có gì khác lạ hơn người thường: dân làng Nadarét đã nhận định về Chúa Giêsu “Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc Giuse đó sao?” Ở một vài phương diện nào đó, ngôn sứ còn thua kém người khác nữa: Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa “Lạy Chúa, con không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ”.

Nhưng ngôn sứ hơn người là do Lời Chúa: ngôn sứ nghe được Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa, và nhiệt thành chuyển đạt Lời Chúa đến cho mọi người.

Dù “hơn người”, nhưng không hẳn ngôn sứ được người quý mến, trái lại thường bị người chống đối và bách hại, bởi vì “Lời thật mất lòng”.

Tuy thường bị người ta đối xử tệ, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.

Sứ mạng ngôn sứ rất khó khăn và bạc bẽo. Nhưng ngôn sứ sẽ chu toàn sứ mạng nhờ cậy dựa vào sự trợ giúp của Chúa.

Qua bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ của Ngài.

* 2. Kiên vững – Dịu hiền

Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Trữ bảo Án Tử: “Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức”.

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:

“Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu”.

Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.

*

Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại: “Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành: Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi” (Lc 4,29-30). Chúa Giêsu chính là Sự Thật tuyệt đối, nên từ nơi Người toát ra sức mạnh phi thường, khiến đám người bạo động phải đứng như trời trồng để Người đi qua.

Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin rằng “Thần khí Chúa” lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc.

Họ cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai.

Họ càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình” (Lc 4,24).

Thế mới ứng nghiệm lời ông Simêon: “Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới đời chống báng” (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.

Nếu dân làng Nadarét ép Chúa Giêsu làm phép lạ để minh chứng Người là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Chúa Giêsu chứng minh giáo lý của Người là chính thống.

Nếu dân làng Nadarét tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn phạm thượng, thì các người Pharisêu cũng kết tội Người dựa vào thế giá cửa quỉ vương.

Nếu dân làng Nadarét cố tìm cách giết Chúa Giêsu, thì dân thành Gíêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Người trên thập giá.

Mỗi người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì “Nếu thế gian đãghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước” (Ga 15,18), nhưng ít có ai cảm nhận được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Người có căm thù những kẻ ruồng rẫy Người không? Người có đầu hàng trước nghịch cảnh này chăng? Nói như Martin Luther King: “Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và con tim dịu hiền”.

Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Người sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị tại một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Người chỉ là Đấng có con tim dịu hiền, thì Người sẽ là một Thiên Chúa uỷ rnị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng.

Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Người không hề chai đá và tinh thần của Người không chút bạc nhược. Người có tinh thần đủ kiên vững để vượt trên thế giới, và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.

Nếu có một bài học nào được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay thì đó chính là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể “băng qua giữa họ mà đi”, nhưng Người cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Người, khi chúng ta muốn “xô Người xuống vực thẳm”, thì chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.

Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Người cũng là Đấng có tính dịu hiền trong tình thương và ân sủng.

Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.

Thiên Chúa ban ân sủng Cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.

*

Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con.

Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muôn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen (TP)

3/. Ưu tiên cho ai?

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành…. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực”

Nguyên do gây đổ vỡ là quan niệm về ưu tiên. Dân làng Nadarét nghĩ rằng Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Ngài đã từng làm phép lạ ở thành Capharnaum xa lạ thì Ngài phải làm nhiều phép lạ hơn nữa ở Nadarét này mới phải, vì đây chính là quê hương của Ngài kia mà: “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào”. Phần Chúa Giêsu thì muốn dành ưu tiên cho những người nghèo khổ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi… để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…”

Nói cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ trương ưu tiên theo sứ mạng. Tình cảm thường hẹp hòi, sứ mạng thì bao la. Tình cảm thường mù quáng, sứ mạng mới sáng ngời.

Chúng ta thường bị tình cảm làm mù quáng và lệch lạc, ngay cả khi chúng ta làm việc bác ái và làm công tác tông đồ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến sứ mạng. Nếu có ưu tiên thì hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở.

* 4. Trở lại quê hương

Sau nhiều năm xa cách ngôi làng Transkei là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, Nelson Mandela có dịp trở lại đấy. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư có nhà cửa ở thủ đô Johannesburg. Ông đã ghi lại cảm tưởng như sau: “Trở lại một nơi chẳng có gì thay đổi để khám phá ra rằng mình đã đổi thay. Quê hương thì vẫn như xưa, chẳng có gì khác hơn hồi mình sinh ra và lớn lên ở đấy. Nhưng tôi nhận ra rằng suy nghĩ và cách nhìn của mình đã khác xưa rất nhiều”. Vì thế Nelson Mendela rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê cũ, nhưng ông không ở lại đó, vì nó đã trở thành quá chật hẹp đối với ông.

Có lẽ cảm nghĩ của Chúa Giêsu cũng giống như thế khi Ngài trở về Nadarét. Những người đồng hương của Ngài chẳng có gì thay đổi: họ vẫn mãi coi Ngài là con bác thợ mộc chứ không phải là Đấng Messia; họ vẫn quen lối suy nghĩ hẹp hòi cho rằng ơn cứu độ là đặc ân của người Do Thái, chứ không thể chấp nhận rằng mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.

Chúa Giêsu trở về quê hương để mang cho đồng hương của Ngài một sự đổi mới. Tuy nhiên họ không chịu thay đổi. Vì thế nên Ngài không thể ở lại quê hương, Ngài đành ra đi, tiếp tục đến những nơi khác. (FM)

5/. Đức Mến

Có một sự liên kết thiết yếu giữa Đức Tin và Đức Mến. Câu chuyện sau đây cho thấy rõ điều ấy:

George Herbert là một Linh mục, một thi sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm khi ông đang trên đường đến tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một người nghèo bị té ngựa. Ông đã dừng lại, cởi áo dòng, xắn tay áo để đỡ người ấy lên, đỡ con ngựa lên và giúp chất hành lý người ấy lên lưng ngựa. Xong xuôi mọi chuyện, ông mới tiếp tục đến phòng hòa nhạc.

Bình thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay tay chân và quần áo của ông đều dính đầy bụi bẩn. Vì thế bạn bè rất ngạc nhiên. Khi ông kể lại chuyện mình đã làm dọc đường thì một trong các người bạn tỏ ra không đồng ý vì cho rằng việc đó không cần thiết và cũng không phải là trách nhiệm của ông. George Herbert đã trả lời như sau: “Tôi thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ. Hôm nay tôi có dịp giúp đỡ người nghèo khổ. Nếu tôi không ra tay giúp thì tức là tôi không làm đúng như lời mình cầu nguyện. Cũng giống như cây đàn chưa lên dây đúng cung vậy.”

Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”. Những việc làm biểu lộ đức tin dễ thấy nhất là những việc bác ái.

Ngày nay, hai chữ được người ta nói nhiều nhất là “tình yêu”. Nhưng hình như cái mà người ta gọi là tình yêu trong các phim ảnh và bài hát thường chẳng phải là tình yêu gì cả. Đó chỉ là khát vọng, chiếm hữu và chế ngự. Nó ngược hẳn với tình yêu.

Một trong những lý do là ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn về tính phức tạp – hay phức hợp – trong bản chất con người. Từ đó người ta làm gì cũng do bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Đàng sau một việc xem ra bất vụ lợi thì cũng có động cơ vụ lợi.

Bởi thế, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta coi chừng những động cơ đàng sau những việc tốt chúng ta làm. Ngài nói rằng Đức Mến đích thực thì “không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc”. Ngài còn nói “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. (FM)

V/. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu những lời Kinh thánh chúng ta vừa nghe. Nhờ Người, chúng ta dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta:

1/. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để đem Tin mừng đến cho muôn dân trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin mừng của Hội thánh / luôn đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.

2/. Khát vọng sâu xa nhất của con người ngày nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Chúa / ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.

3/. Hiện nay đức tin / đức cậy / đức mến / cả ba đều tồn tại / nhưng cao trọng hơn cả là đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn cố gắng sống trọn vẹn nhân đức quan trọng này.

4/. Nhờ bí tích Thánh Tẩy / người Kitô hữu trở nên anh em với nhau / vì có cùng một niềm tin và một Cha chung trên trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi kỳ thị hẹp hòi / những chia rẽ bất hòa / để tất cả chúng ta nên một trong Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI/. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đang ở trong ngôi Nhà Thờ này như những anh chị em ruột thịt sum họp trong mái ấm gia đình. Đúng vậy, vì chúng ta đều là con của cùng một Cha chung trên trời. Giờ đây chúng ta hãy nghĩ đến Cha chúng ta và hãy cùng nhau thưa chuyện với Ngài qua lời kinh Lạy Cha.

VII/. Giải tán

Do Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được chia xẻ sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng vừa cao đẹp vừa khó khăn ấy. Nguyện xin ơn sủng Chúa luôn phù giúp anh chị em. Chúc anh chị em ra về bình an.

CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C

RAO GIẢNG TẠI NAGIARÉT THẤT BẠI– Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt

Nhiều nhà chú giải Kinh Thánh nhận thấy có nhiều sự rời rạc trong đoản văn này, hay ít ra có những nhược điểm văn chương “lạ lùng nơi một tác giả cẩn thận như Luca” (A. George), điều đó giả thiết Luca đã dùng nhiều nguồn liệu mà ông đã không khéo tổng hợp. Nhưng hình như cảm tưởng này là do việc người ta muốn tìm nơi Luca một lược đồ của Macco, trong lúc Luca lại thay đổi toàn diện cơ cấu trình thuật của Macco, không những chỉ làm cho trình thuật ấy thành một toát yếu biểu tượng về cuộc đời Chúa Giêsu và một bản tóm lược những đề tài của mình, nhưng còn qui hướng trình thuật ấy vào một cao điểm: Chúa Giêsu từ chối dành riêng ơn cứu độ cho quê hương Ngài, đó là lý do người Do thái từ chối và giết Ngài.

Những “rời rạc” mà các nhà chú giải đưa ra có thể được tóm tắt như sau:

1/ Sự bất tương xứng giữa phản ứng đầu tiên của cử tọa – tất cả đều rất thán phục (c.22) – và những lời giận dữ của Chúa Giêsu ở các câu 23-27.

2/ Thiếu đồng nhất trong diễn từ của Chúa Giêsu (cc.23-27): ở c.23, Chúa Giêsu biết trước người ta sẽ xin Ngài làm phép lạ (điều này giả thiết họ đã tin), trái lại qua câu 24, hình như Ngài phàn nàn là bị bạc đãi. Ngoài ra, ở c.23 có đối chọi giữa Caphanaum và Nazaret, ở cc. 25-27 giữa Israel và lương dân. Cuối cùng, câu 24 cho thấy chính người Do thái loại trừ các tiên tri, còn các câu 25-27 lại nói chính các tiên tri từ chối làm phép lạ tại Israel.

Có nhiều cách giải thích các lủng củng trên: như nói đến sự khác biệt về các nguồn liệu, hoặc bằng cách ép nghĩa chữ emarturoun, (họ làm chứng “ils témoignaigent”) và ethaumazon (họ thán phục ils s’étonnaiment, câu 22), hoặc bằng cách giải thích sở dĩ thính giả tức giận là vì Chúa Giêsu, khi trích Isaia, đã bỏ sót câu loan báo Đấng Messia sẽ trả thù, hoặc xem các lời của Chúa Giêsu đủ nói lên phản ứng của thính giả, hoặc đặt câu 5a của Macco ngay từ đầu đoản văn và giả thiết Luca đã đọc Macco theo mạch văn đó: “giọng điệu bất ngờ của Chúa Giêsu thì có thể hiểu được, nếu cho đến bây giờ Ngài đã không có thể làm một phép lạ nào ở Nazareth. Nếu đồng ý như thế, tất cả thật dễ hiểu, rõ ràng (C. Masson).

Sở dĩ có nhận xét về các “rời rạc” đó, là vì dựa vào lược đồ của Macco:

a) Sự rạn nứt giữa Chúa Giêsu và người đồng hương xảy ra ở các câu 22-23.

b) Ở câu 24 Chúa Giêsu nói là đã bị bạc đãi ở quê hương, đó có phải là điều Luca muốn nói? Dù sao, phương pháp tốt nhất là phải tiên thiên nghiên cứu trình thuật Luca như là một đơn vị văn chương có mạch lạc, và tìm điểm cốt yếu của nó bằng phương cách dựa vào lược đồ của Luca, chứ đừng dựa vào lược đồ của Macco. Như thế sẽ rõ là sự rạn nứt giữa Chúa Giêsu và người đồng hương chỉ xảy ra sau câu 27.

Thực ra, các thính giả Chúa Giêsu đã phản ứng tích cực. Marturoin (làm chứng – témoigner, câu 22) được dùng một mình hay với một datif, trong ngôn ngữ Luca, luôn có nghĩa tích cực: xem Cvsđ 6,3; 10,22; 13,23; 15,8; 16,2; 22,12; đặc biệt trong Cvsđ 14,3). Nghĩa tích cực này đồng nghĩa với “họ ca tụng Ngài” của câu 15.

Còn chữ “thaumazoin” (thán phục “s’étonner” c.22) nếu có thể diễn tả một sự ngạc nhiên vì gương xấu (x. Mc 6,6; Lc 11,38) thì ở Lc nó thường chỉ một ngạc nhiên đầy thán phục (1,63; 2,18; 7,9; 8,25; 9, 43; 11,14; 20,26; Cvsđ 3,12; 4,13). Vậy người ta có thể xem phản ứng đầu tiên của đám thính giả ấy là một ngạc nhiên đầy thán phục. Hình như Luca không muốn nhấn mạnh đến sự thán phục này: ông không lấy lại lối diễn tả dài dòng của Mc, cũng không còn dùng tiếng: “họ đã vấp phạm vì Người” (Mc 6,3). Phải đợi đến câu 28 mới gặp được thành ngữ của Luca tương đối với “họ đầy căm tức”. Vậy đối với Luca, đâu là lý do xác đáng để người Nazaret căm tức? Và trong sự rạn nứt này, câu 24 có vai trò gì?

Conzelmann khám phá 2 cao điểm trong các câu 23-27. Quả thực câu 23 được xây dựng trên sự đối thoại giữa Nazaret – Carpharnaum, các câu – trên sự đối chọi khác nhau giữa người Naaret – dân ngoại. Cao điểm thứ hai này làm nên lời tuyên bố rõ rệt về ơn cứu độ phổ quát, là bước đầu của nền thần học về dân tuyển chọn tiềm ẩn trong tác phẩm của Luca, và chỗ đứng của nó ngay từ lần rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu đem lại cho tác phẩm Luca một tầm quan trọng đáng kể. Và đối với Luca, chính lời tuyên bố đó là lý do khiến người Nazaret giận dữ. Thực ra phải lưu ý rằng chính “khi nghe những lời ấy”, nghĩa là khi nghe các câu 23-27 thì họ ly khai với Chúa Giêsu.

Điều này có thể giúp chúng ta khám phá ý nghĩa cao điểm thứ nhất và tương quan thực sự của câu 24 với toàn văn mạch. Nơi câu 23 Chúa Giêsu linh cảm các người Nazaret với chiêu bài là người đồng hương của Ngài, sẽ xin Ngài gia ân giáng phúc của thời đại thiên sai mà Ngài mới tuyên bố (có lẽ linh cảm này được diễn tả ở câu trước đó. Thực ra, nếu chấp nhận phản ứng đầu tiên của thính giả là tích cực, thì có thể giải thích câu “người này không phải là con ông Giuse?” như là một cảm thức của người Nazaret về những đặc ân dành cho họ qua sự kiện Chúa Giêsu là một người trong họ). Chúa Giêsu đề phòng họ khỏi những cơn cám dỗ đó (chữ “eipen de”: “nhưng Ngài nói”, mà cuốn BJ dịch thoáng là: “rồi Ngài nói thêm”, cho thấy sự tương phản với lời yêu cầu vừa được đưa ra: “quả thật, ta bảo các người, không một tiên tri nào dektos en tại quê hương mình).

Do ảnh hưởng của đoạn Mc song song atimos (bị khi khinh chê, không vinh dự) và so với dechomai (tiếp nhận), người ta dịch dektos bởi “được tiếp nhận” (acceptus) (bản Vulgata), “được ưu ái” (en faveur) (Gheorge), “được trọng đãi” (bien reen) (Osty – BJ), “được hoan nghênh”

Theo một bài của Grundmann trong “Theologisches Wortorbuch” chữ này (dùng 32 lần trong bản LXX) thường được dùng để dịch chữ Hy bá râson (tình yêu, ân huệ, ý muốn). Phải phân biệt cách dùng chữ này trong văn chương tế tự, được áp dụng vào các hy lễ, chữ này có nghĩa thứ nhất (“được tiếp đón” hay “có thể được tiếp đón”: accepte – acceptable) với cách dùng trong Isaia-đệ-nhị nó mang ý nghĩa thiên sai và hoàn toàn tích cực: “thi ân, thuận lợi” hay cứu độ (favorable, salvifique): xem Is 49,8: “trong thời thuận tiện (dektos), ta sẽ nhận lời ngươi” và Isaia 61,2 (được trích dẫn lại trong Lc 4,19): “Hãy loan báo năm nhân hậu của Giavê” (bản dịch của J.Coenig, Pleiade 1959). Qua hai ví dụ trong Isaia, thời gian (hoặc năm) dektos có nghĩa là thời gian thuận tiện (favorable) cho dân Israel, đó là thời gian cứu độ, thời gian thực hiện ý định của TC. Violet, theo một phương pháp khác Grungmann cũng đi đến một kết luận tương tự (trong ZNV 37,1938, 251-271): theo ông, detos đồng nghĩa với charis (ý muốn nhân hậu, lòng nhân hậu, dự định thuận tiện). Ngoài các ví dụ nói trên, có thể thêm Xac 28,38 (dektos trong dùng như một danh từ và có nghĩa: ân huệ, lòng nhân hậu).

Những phần phân tích đó cho thấy chữ dektos đã biến đổi về ngữ học: từ ngữ thụ động “có thể trong tiếp đón, được tiếp đón, được đặc ân” dần dần chuyển sang nghĩa tích cực: “có thiện cảm, thuận tiện”. Trong TƯ, ngoài hai đoản văn Lc 4,19 trích Is, và Lc 4,24 mà chúng ta đang nghiên cứu, chữ dektos được dùng 3 lần: hai lần theo nghĩa thụ động (cả hai đều trong sạch văn tế tự: Cvsđ 10,35 và Ph 4,18), và một lần trong nghĩa tích cực: “Vì người phán: vào thời thuận tiện (dektos, favorable), Ta đã nhận lời ngươi; vào ngày cứu độ, Ta sẽ cứu ngươi. Đây là thời thuận tiện, bây giờ là ngày cứu độ” (2Co 6,2)

Như thế có thể kết luận, đối với người đọc bản 70, chữ: dektos có thể có nhiều tiểu dị và nhất là khi trích dẫn Isaia, có một nghĩa khác xa nghĩa nguyên ngữ (dechomais, recevoir, nhận). Vì thế thật có lý khi dịch eniauton dekton trong Lc 4,19 thành “năm hồng ân” (année de grâce, bản dịch của Osty, Goerge, hay”năm tiếp nhận”(année d’accueil, bản dịch của TOB).

Như thế, đâu là hậu quả việc Lc muốn móc nối với sách Isaia-đệ-nhị? Nếu Lc đã cố tâm đổi công thức cổ truyền của câu nói logion, (được Mc và Mt viết là “bị khinh chê” và Gio 4,44: “không được hưởng một đặc ân nào”) để dùng lại một chữ (không được biết nơi các tác giả nhất lãm) của văn mạch trước đó, chính là vì ông muốn cho cách dùng thứ hai của chữ này cũng một nghĩa như cách thứ nhất và như vậy phải hiểu câu 24 như sau: “không một tiên tri nào có thiện cảm (favorable) với chính quê hương mình.

Từ đây tương quan của câu 24 với văn mạch được sáng tỏ: nó đi nghịch với câu 23 (Chúa Giêsu từ chối lời xin phép lạ) và được nối kết với các câu 25-27 bởi hai ví dụ trong CƯ (lưu ý là nơi Lc 11,29-32 cũng có một lược đồ như vậy). Ngoài ra có một sự tương đồng về thể văn đối ứng với một tương đồng về ý nghĩa: “quả thực, Ta bảo các ngươi” (c.24). Và “Ta bảo thật các ngươi” (c.25); điều quan hệ cũng chính một ý nghĩa nhưng được viết dưới một hình thức khác. Chúa Giêsu làm ngơ khi đứng trước môi trường xã hội của mình. Cũng thế, ta mới hiểu tại sao Lc xóa bỏ Mc 6,4b (“nơi bà con và nơi nhà mình”) vì nhằm nới rộng nghĩa của chữ “quê hương” được dùng trong nghĩa hẹp nơi câu 23 (Nazaret) và nghĩa rộng nơi các câu 25-27 (Israel).

Dưới viễn tượng đó trình thuật Lc không còn đứt đoạn: chắc hẳn câu 21 không phải là tổng hợp bài diễn từ của Chúa, nhưng lại là giáo đầu của bài giảng về bản văn Isaia. Trong đó Ngài công bố thời thiên sai bắt đầu. Bấy giờ Lc ngắt bài diễn từ một chút để cho thấy phản ứng đầu tiên của thính giả (ngưỡng mộ Chúa Giêsu), rồi tác giả tiếp tục bài diễn từ nơi các câu 23-27 (“và Ngài nói cùng họ” của câu 23 đáp lại “bấy giờ Ngài bắt đầu nói cùng họ” của câu 21) và bấy giờ Chúa Giêsu minh giải câu 21 bằng cách vạch trần là Ngài không muốn giới hạn sứ mệnh của mình trong thành hay trong quốc gia mình: cũng như Elia và Elisê đã không chỉ có thiện cảm (favorable) với dân Israel, thì Ngài cũng không chỉ có thiện cảm với quê hương mình. Nơi Luca, chính điểm này gây phản kháng nơi người Nazareth.

Một dư âm của bài giảng này hình như còn sót lại ở Lc 4,42 – 43 trong đó dân chúng Caphanaum muốn giữ Chúa Giêsu ở lại với họ. Để trả lời Ngài cũng lấy lại gần nguyên văn lời tiên tri Isaia mà Ngài đã giải thích trong hội đường xứ Nazareth: “Ta còn phải loan báo Tin mừng Nước TC cho nhiều thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến”. Ở đây thái độ của Chúa Giêsu cũng như trước Ngài không muốn ai độc quyền chiếm hữu Ngài.

Vậy trong trước tác của Luca không có một rời rạc nào, và ta hãy mau phục hồi uy tín cho Luca: trình thuật của tác giả thật rất mạch lạc và kỹ lưỡng (với điều kiện là gán cho tiếng dektos nghĩa tích cực (sens actif) của nó, thì sẽ có được sự mạch lạc của đoạn văn). Điều đó không lạ gì vì đây là đoạn văn có tính cách khai mào đoản văn, thì dĩ nhiên một văn sĩ cẩn thận như Luca phải lưu ý trau chuốt cách đặc biệt.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Các lời đầy ân sủng”: một số nhà chú giải dịch câu “epitois logois tês charitée” như vậy, hoặc theo tương tự như “các lời ân sủng”, “các lời được linh ứng”… bằng cách giả thiết câu đó tiềm tàng các đặc tính văn chương Semit. Nhưng việc dùng mạo từ “la” (au sujet des paroles de la grâce) cũng như các đoạn song song trong Cvsđ và văn mạch thì thiên về lối dịch “các lời của ân sủng” (A.Goerge) hay “sứ điệp của ân sủng” (TOB), nghĩa là sứ điệp do ân sủng đem đến, hay sứ điệp loan báo ân sủng (Cvsđ 14,3; 20,32).

“Người này phải là con ông Giuse sao?”: vì câu này nằm trong bối cảnh thán phục và ca tụng, nên đừng xem đây là khởi điểm việc người Nazaret bất bình, phẫn nộ: trong bản văn không có điểm nào cho phép giải thích như thế. Đúng hơn phải xem câu đó diễn tả 1 sự tính toán đầy tư lợi: nếu người này là con Giuse, bây giờ trở thành tiên tri và thần thông, tại sao lại không lợi dụng địa vị ấy để mưu ích cho làng họ? Cách giải thích vấn nạn đó của người Nazaret được xác nhận qua lời Chúa Giêsu chú giải ngay sau đó. Câu ngạn ngữ “thầy lang ơi, hãy cho thân nhân của ông được hưởng các phép lạ của ông trước khi cho người lạ hưởng. Ở đấy nghĩa câu ngạn ngữ là đúng như thế. Vì thế Chúa Giêsu khi giải thích tư tưởng của cử tọa, đã áp dụng ngạn ngữ đó cho Ngài: “Với tư cách là người đồng hương với Ta mà các ngươi giục ta làm ở đây các phép lạ Ta đã làm ở Capharnaum. Nhưng (ở đầu câu 24, tương tự với tiếng Hy lạp de) vị tiên tri không luôn thi ân cho quê hương mình… hãy xem Elia và Elisê: các Ngài đã tận tình giúp đỡ người ngoại bang trong khi tại Irael không phải là không có nhu cầu”.

Được đọc trong nghĩa đó, bản văn sẽ rất mạch lạc: Chúa Giêsu từ chối ràng buộc ơn cứu độ của Ngài trong mối liên hệ máu mủ hay thân quen. Ngài là tiên tri, Ngài hành động theo sứ mệnh thần linh. Dân Nazareth không thể áp lực bắt Ngài hành động theo ý họ. Phải từ bỏ mọi yêu sách, đòi hỏi, khi đứng trước TC: Ngài ban ơn cho ta hoàn toàn theo tự do của Ngài, và chỉ có một tâm hồn khiêm nhượng, tín thác mới có thể trông chờ (chứ không đòi hỏi) phép lạ.

“Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”: chúng ta hãy nhớ rằng, sau khi phân tích tiếng dektos trên đây thì phải dịch: “Không một tiên tri nào có thiện cảm với quê hương mình”. Công thức này cho thấy tính phổ quát. Luật chung không có luật trừ. Tuy nhiên theo Mt 13,58 và Mc 6,5 ghi lại thì Chúa Giêsu cũng làm một vài phép lạ ở Nazareth. Vậy ý nghĩa của câu nói Chúa Giêsu phải hiểu như sau: tiên tri không có cảm tình với người đồng hương hơn những người xa lạ, tất cả chỉ là vấn đề đức tin và ý hướng tốt là đủ; kể cả cộng đoàn Kitô giáo nguyên thủy cũng không có tư cách nào để được hậu đãi.

“Đã có nhiều bà góa trong Israel thời Elia”: sự đề cập đến: “quê hương” nơi câu trước cho phép Chúa Giêsu mở rộng cuộc tranh luận. Không những chỉ có Nazareth và Caphanaum, nhưng là dân Israel và dân ngoại. Cũng như Nazareth không có quyền đòi hỏi gì dù với tư cách là nơi chôn nhau cắt rún của Đấng Messia, của Đấng đem đến ơn cứu độ, cũng thế Israel không được lấy cớ là nơi phát sinh Đấng cứu thế để đòi hỏi quyền lợi về ơn cứu chuộc. Ơn cứu độ là một ân sủng. Và chính vì tính cách phổ quát rỗi này mà Chúa Giêsu khiến người Nazareth hết sức bất bình. Nếu họ muốn ném đá Ngài, rõ ràng là chính vì Ngài (xuất hiện như) là một kẻ phạm thượng khi từ chối ban cho Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu độ, vì ném đá là một hình phạt dành cho những kẻ phạm thượng (x. Lv 24).

“Nhưng Ngài rẽ qua giữa họ mà đi”. Thật khó mà tìm thấy một chỗ nào gần Nazareth có dốc núi để có thể xô người tử tội xuống để rồi ném đá. Nhưng Luca lưu tâm đến ý nghĩa cảnh tượng hơn là chi tiết. Khi đưa Chúa Giêsu ra ngoài thành để mưu toan giết Ngài, những người đồng hương đã cho thấy trước án quyết đẫm máu dân Israel sẽ gây ra cho Chúa Giêsu. Về phần Chúa Giêsu, Ngài thoát khỏi họ như Ngài sẽ còn làm nhiều lần cho đến khi tới giờ Ngài (x. Gio 7,10; 7,44; 8,59; 10,39). Việc dự phòng cho đến ngày cuối cùng của Chúa Giêsu đối với Luca quan trọng hơn phương cách Ngài thực hiện: tác giả nói một lời về việc Ngài có dùng phép lạ hay không để lẩn thoát. Bấy giờ Chúa Giêsu bỏ đi. Kiểu nói này được dùng nhiều lần và rất có ý nghĩa, như ông sẽ còn ghi lại nhiều lần, vì Chúa Giêsu tiến lên Giêrusalem (9,51; 13,22.33; 17,11; 19,28), tiến lên thánh giá và vinh quang.

KẾT LUẬN

Con người không có tư cách gì để đòi hỏi ân huệ của Thiên Chúa. Không phải những liên hệ máu mủ, đồng quê đồng xứ có thể đòi hỏi ơn cứu độ của đấng Messia. Vì chưng hồng ân của Thiên Chúa, ơn cứu độ ban cho nhân loại trong Đấng Messia, trước hết hoàn toàn là do ân sủng. Đó chính là điều mà người Nazareth đã không muốn hiểu. Chính thái độ này của dân Israel đã khiến Chúa Giêsu có dịp ngỏ lời với tất cả mọi người.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1/. Vì Chúa Giêsu là người đồng hương với mình nên người Nazareth tưởng Ngài có bổn phận ban cho họ những hồng ân Ngài có thể giúp đỡ họ. Như thế có thể nói vì là người đồng hương với Chúa Giêsu, nên người Nazareth có quyền đòi độc quyền chiếm hữu một vài ân huệ của Chúa Giêsu. Người ta thấy Chúa Giêsu đã kịch liệt chống đối lời đòi hỏi đó. Trước mặt Thiên Chúa và Đấng tiên sai, không ai có quyền đòi hỏi gì.

Chúng ta phải luôn luôn sáng suốt để khỏi rơi vào những lầm lỗi của những người Nazareth. Chúng ta được rửa tội trong giáo hội công giáo, được hưởng nền giáo dục Kitô giáo, đạo dòng lâu đời, tất cả những điều ấy không có quyền gì trước mặt Chúa. Chúng ta có cảm tưởng rằng Thiên Chúa thuộc về những người công giáo, đến nỗi chúng ta có thói quen liên kết Thiên Chúa  và giáo hội, Thiên Chúa và những người Kitô hữu. Nhưng chính ra Thiên Chúa không thuộc về những Kitô hữu, nhưng chính Kitô hữu thuộc về Thiên Chúa. Cũng có rất nhiều người trong thâm tâm không hề biết Ngài nhưng lại thuộc về Ngài – có lẽ còn thuộc về Ngài cách sâu xa hơn chính chúng ta. Thiên Chúa không dành ân sủng của Ngài cho riêng những người công giáo, cũng như Chúa Giêsu không dành phép lạ ưu tiên cho những người Nazareth. Thiên Chúa hoàn toàn tự do, nếu không Ngài sẽ không còn là Thiên Chúa. Vì vậy trước mặt Ngài chúng ta không thể đòi hỏi gì hết; chúng ta chỉ có thể nhìn nhận thân phận bất xứng, nghèo nàn của mình, và nài xin Ngài đoái thương nhìn đến thân phận tôi tớ thấp hèn của Ngài.

2/. Điều làm những người Nazareth cay cú nhất không phải là Chúa Giêsu phung phí những phép lạ của mình trong những thành khác của Israel nhưng trước hết là vì Chúa Giêsu bằng cách viện cớ vào gương hai vị tiên tri Elia và Elisê là hai vị tiên tri lớn thời xưa, minh định rằng Ngài cũng có quyền làm những phép lạ cho dân ngoại: một tiên tri không ưu tiên dành ân huệ cho quê hương mình. Đối với người Do thái, vì ý thức mình là dân chúa chọn, họ lấy làm tức giận và không thể tưởng tượng được rằng Đấng Messia, Đấng Thiên Chúa sai đến, lại lưu tâm đến dân ngoại. Sự minh định của Chúa Giêsu là một tiếng chuông rót vào tai họ như là một lời phạm thượng đáng phải ném đá. Chúa Giêsu thường gặp thái độ trong mấy măm sống công khai. Ở đây nhắc lại dụ ngôn những người thợ (làm vườn nho vào giờ thứ 11: những người thợ giờ thứ nhất đã bất bình vì lòng quảng đại của ông chủ vườn nho đã thuê những người vào trước hết cũng bằng những người cuối hết). Đối với họ thì lòng tốt này là một điều bất công. Nhưng cách tính toán của Thiên Chúa không phải là cách của chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã muốn chọn dân Do thái làm dân riêng Ngài (Đnl 7,6) không phải là vì Ngài không ưa thích dân tộc khác, nhưng chính là vì Ngài muốn dùng dân này như dụng cụ để mạc khải ơn cứu độ cho các dân tộc khác. Nếu nhờ phép rửa tội và nền giáo dục Kitô giáo, Thiên Chúa đã chọn chúng ta làm con cái Ngài, cũng không phải vì Ngài không ưa thích gì dân ngoại, nhưng chính vì Ngài muốn dùng gương lành của ta để lôi kéo họ đến cùng Ngài. Và nếu Thiên Chúa không thương ta, Ngài ban cho dân ngoại ân sủng hơn chúng ta (ân sủng do lòng quảng đại để sống một đời ngay thật, xứng hợp với lương tâm và trình độ ánh sáng chân lý mà họ có) thì lúc đó chúng ta cũng đừng căm phẫn về lòng tốt của Ngài, nhưng trước hết phải ca tụng Thiên Chúa là Đấng thiện hảo “muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhìn biết chân lý” (1Tm 2,4).

3/. Mặc dù có ý định ném đá Chúa Giêsu, nhưng người Nazareth đã thất bại, Ngài vượt qua giữa họ mà đi bằng yên: giờ Ngài chưa đến. Điều này cho thấy rõ ràng, người Do thái giết được Chúa Giêsu vì Ngài đã tự do quyết định như vậy. Cái chết của Ngài lúc đó là một cái chết tự do ưng thuận.

home Mục lục Lưu trữ