Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 57

Tổng truy cập: 1365550

NGƯỜI CHA TUYỆT HẢO

NGƯỜI CHA TUYỆT HẢO

 

AM Trần Bình An

Sau tiếng gọi cửa nhà ông Mạc Văn Mỹ, sinh sống cạnh nhà thờ Xóm Chiếu, một chàng trai cao lớn ra đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu và một cách giao tiếp chào hỏi khá nhanh nhẹn. Ít ai có thể nghĩ rằng đây là chàng trai Mặc Đăng Mừng đã từng bị bệnh down từ khi mới chào đời. Tuy nhiên, qua những năm phấn đấu không ngừng cùng với sự đồng hành của người cha, hiện nay chàng trai này đã biết chơi đàn Organ, bơi lội, đai nâu võ Aikido và đặc biệt anh vừa nhận chứng chỉ nghề tại trường ĐH Văn Lang với chuyên ngành đồ họa.

Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ luôn rộn rã tiếng cười, ông Mạc Văn Mỹ (bố của Mừng, 66 tuổi) vui mừng đem khoe cuốn album hình ảnh của con trai trong lớp học đàn, học võ và những tấm huy chương Mừng đạt được trong các kì thi thể dục thể thao. Bắt đầu câu chuyện về cuộc đời và nghị lực của cậu con trai mình, ông Mạc Văn Mỹ cho hay, ông và vợ mình là bà Đặng Thị An (66 tuổi) cưới nhau vào năm 1970, sinh được Mừng năm 1988. Từ khi biết Mừng mắc bệnh down, ông Mỹ như mất đi tất cả, nhiều lần ông định đầu hàng nghịch cảnh, nhưng ông nghĩ lại vì thương cho số phận chẳng may của con trai mình. Ông Mỹ đã đưa Mừng đi nhiều nơi chữa trị nhưng không có kết quả. Không muốn con chấp nhận số phận, ông Mỹ đã tự tìm hiểu nhiều phương pháp tự dạy cho con học và tập cho con vượt qua căn bệnh để hòa nhập cùng cộng đồng. Ông Mỹ bồi hồi nhớ lại: “Không muốn con bị người khác chê cười, nên tôi đã tìm phương pháp để dạy cho con biết học Anh văn, học nghề và học nhiều thứ khác để cháu được phát triển tư duy một cách bình thường". Những ngày đầu tiên cho con đi học ông Mỹ muốn con mình được học đàn, để kích thích các dây thần kinh lên não. Nhiều lần ông Mỹ tìm đến các nơi dạy đàn để đăng kí cho con học, nhưng đều bị từ chối. Không bỏ cuộc, nhiều tháng liền ông tìm đến phòng dạy đàn ở nhà thờ để học lỏm cách đánh đàn, rồi về bàn với vợ gom góp tiền mua đàn về dạy cho con tập đánh đàn. Ngoài việc dạy con đánh đàn, ông Mỹ còn dành thời gian mỗi buổi chiều để tập cho Mừng đi trên những viên đá xanh, giúp kích thích các dây thần kinh từ lòng bàn chân lên não, khiến việc tiếp thu của Mừng nhạy bén hơn.

“Khi đó tôi gõ cửa nơi bán đàn để xin cho con vào học, nhưng thầy bảo con tôi bị bệnh thế thì học được gì. Lúc đó buồn lắm nhưng tôi bảo với họ, là nếu con tôi biết đánh đàn, thì phải nhận dạy cho cháu, thế là họ cho đánh thử, khi con đánh được một đoạn nhạc, thì họ tỏ ra rất ngạc nhiên và sau đó nhận dạy cháu đến bây giờ”, ông Mừng tâm sự. Đến năm Mừng theo học ở trường Võ Thị Sáu, ông Mỹ phải đưa đón con đi học, rồi ngồi lại trường để đợi đón con về. Những ngày nghỉ, ông dạy cho con trai học thêm Anh văn. Thấy việc học phổ thông quá khó đối với con, ông quyết định cho Mừng nghỉ học lớp 9 và tìm trường dạy nghề đồ họa cho Mừng theo học. Với những môn học có tính sáng tạo, Mừng tỏ ra rất thích thú. Những ngày con đến học môn đồ họa ở trường đại học Văn Lang, ông Mỹ xin thầy dạy cho phép được vào học cùng con, những ghi chú của thầy cô dặn dò ông tỉ mỉ ghi chép lại, để về nhà giảng lại cho con. Cứ như thế sau 5 tháng Mừng đã hoàn thành khóa học chứng chỉ nghề kĩ thuật viên đồ họa. Ngoài khóa học trên, ông Mỹ còn cho con mình tham gia rất nhiều khóa học khác như: kỹ năng sống, võ thuật, Anh văn… để Mừng có điều kiện phát triển tốt và tăng tính tư duy hơn. (Hành trình 27 năm của người cha biến đứa con bị bệnh Down thành người bình thường, Tri Thức Trẻ​)

Người cha kể trên chứa chan tình phụ tử, mới kiên nhẫn suốt 27 năm dạy dỗ, huấn luyện đứa con bệnh hoạn nên người hữu dụng, thật đáng khâm phục. Nhưng còn có một Người Cha tuyệt vời hơn thế nữa, luôn thương yêu, thương nhớ, thương xót con cái ngay từ khi lọt lòng mẹ đến trọn cả cuộc đời. Đó chính là Người Cha Tuyệt Hảo ở dụ ngôn trong Tin Mừng Luca hôm nay.

Đức Giêsu chuẩn bị rất chu đáo trước khi bắt đầu thuật dụ ngôn này. Người cẩn thận giáo đầu bằng hai dụ ngôn con chiên đi lạc và đồng tiền bị đánh mất, tha thiết mời gọi lòng ăn năn, sám hối. Vào nội dung chính, Đức Giêsu phác hoạ chân dung Người Cha Tuyệt Hảo, tràn trề tình yêu dành cho hai người con, mặc dù cả hai người đều không cảm nghiệm thấu đáo tình phụ tử vĩ đại đó.

Thương yêu

Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Không hề can ngăn, thắc mắc, khó dễ, lưỡng lự, Người Cha yêu thương con quá đỗi, sẵn sàng chiều theo ý con, mặc dầu Người Cha nhìn thấy tương lai đen tối, mịt mù của con. Người Cha thương yêu ban cho con đầy đủ tài sản, hình hài, tâm trí, lẫn linh hồn. Hơn thế nữa, Người còn ưu ái trao thêm sức mạnh, tài năng, nghị lực, ý chí, chẳng thiếu thốn chi cả. Chàng trai thứ hăm hở vào đời chinh phục lợi danh, chinh phục địa vị, chinh phục cả những bóng hồng. Thế nhưng, chẳng bao lâu, chính chàng lại bị thế gian khắc phục, bị chế ngự bởi tiền tài, chức tước, lợi lộc, đam mê, hưởng thụ. Chàng trở nên nô lệ cho thân xác, vật chất, thế gian.

Tuy Đức Giêsu đã khẳng nhận: “Ai phạm tội thì thành nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, (chỉ) người con mới được ở luôn mãi.” (Ga, 8, 34-35), nhưng tình phụ tử cao cả vẫn tìm cách cứu vãn con người khỏi thân phận nô lệ: “Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự tự do.” (Ga 8, 36) Vì thương yêu, Thiên Chúa Cha ban chính Con mình, là Đức Giêsu nhập thể làm người, chịu khổ nạn, chịu chết để cứu chuộc, nhân loại mới thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, trở lại làm con Chúa.

Thương nhớ

Mặc dù thương con vô ngần, Người Cha đành gạt nước mắt, thổn thức nhìn con ra đi, trái tim Cha rướm máu đào, cũng đành nín thinh, cam chịu. Khi con đi xa rồi, Người Cha thương nhớ con da diết, ngày ngày đều ra đầu ngõ lóng ngóng, mong tin con, chờ đón con về. Chàng trai thứ trở về thật, vì sa cơ thất thế, vì chẳng còn chốn nương thân, cũng chẳng có gì có thể làm dịu cơn đói khát dai dẳng bao tháng ngày. Chỉ còn con đường sống duy nhất là trở về với Người Cha thân thương.

Có lẽ chàng trai nghe được lời mời gọi thương nhớ của Cha: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. (Mt 11, 28) Chàng dứt khoát trở về nhà Cha.

Anh ta còn ở đằng xa, thì Người Cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Ôi giây phút trùng phùng hội ngộ, những giọt nước mắt nóng bỏng, vui sướng, lăn trên gò má nhăn nheo, dãi dầu mưa nắng mòn mỏi đợi chờ.

Thương xót

Nhìn thấy con thảm hại, rách rưới, gầy gò, ốm yếu, xanh xao, Người Cha chạnh lòng thương xót, không kịp để con nói hết lời tạ tội, đã chủ động chạy đến ôm hôn con, vội sai gia nhân mang áo mới, nhẫn ngọc, giầy da cho chàng. Giải thoát chàng khỏi kiếp vong thân, nô lệ, phục hồi lập tức phận làm con cho chàng. Rồi Người hân hoan mở tiệc, mời hàng xóm láng giềng đến chung vui, bởi “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Làm sao diễn tả nổi niềm vui tưng bừng trên Thiên Quốc, khi có người hoán cải hồi hương. “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15, 10)

Nhưng cuộc vui chưa được trọn vẹn, khi người anh cả cố chấp, đố kỵ, hẹp hòi, không thèm nhận lại người em hoang đàng trở về. Anh giận dỗi không chịu vào nhà dự tiệc. Như vậy, tuy ở nhà với Cha, nhưng người anh cả gần mặt cách lòng, tâm hồn đi hoang từ lâu. Làm sao hiểu nổi Lòng Thương Xót vô ngần của Người Cha.

Vậy người anh cả có vâng lời Cha, đón tiếp em mình, hay người em có thật lòng yêu thương và trở lại mãi với Người Cha và anh? Dụ ngôn vẫn còn bỏ ngỏ cái kết hoàn toàn có hậu, thiếu vĩ thanh. Bởi vì Đức Giêsu muốn mời gọi từng Kitô hữu, sẵn sàng nhập vai vào hai người con, cùng diễn tả cuộc đoàn tụ, hiệp nhất, yêu thương, bình an và hạnh phúc trong nhà Người Cha Tuyệt Hảo.

Mới đây, ĐGH Phanxicô giới thiệu về Người Cha với mười lăm trẻ em từ khắp thế giới, trong buổi gặp gỡ chiều thứ hai, 22-02-2016, tại thính phòng Phaolô VI: “Đừng sợ nếu con lỡ phạm tội. Tình yêu của Chúa Giêsu lớn hơn hết mọi sự, cứ đến với Chúa và để Chúa ôm con.”(JB Thái Hoà, Andrea Tornielli, Vatican Insider)

“Hạnh phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu, mà người ấy tập yêu suốt đời.” ( Đường Hy Vọng, số 462)

Lạy Chúa Giêsu chí ái, xin dủ lòng thương xót chúng con, vốn như hai người anh em trong dụ ngôn, người bỏ nhà ra đi hoang, người ở nhà mà xa cách Cha. Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng con biết quy hướng về sự thiện, tốt lành, thánh đức, để chúng con can đảm từ bỏ cám dỗ, thế gian, xác thịt, mà ăn năm sám hối trở về tình yêu của Người Cha Nhân lành, để chúng con biết khoan dung hầu được tha thứ, biết cho đi hầu được lãnh nhận, biết yêu thương để được hưởng Lòng Thương Xót.

Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ luôn gần gũi, đồng hành với Con Mẹ, xin Mẹ đừng để chúng con xa rời Chúa, đừng nghe theo đam mê, dục vọng, tiền bạc, danh vọng mà bỏ nhà Cha Nhân Lành. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn biết sám hối trở về, biết yêu thương tha thứ cho nhau, để luôn được sống trong tình yêu Chúa. Amen.

 

23.Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy

ĐƯỜNG CỦA CON NGƯỜI và ĐƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA

Dụ ngôn “ Người cha nhân hậu” trong bài Tin Mừng hôm nay đã nêu rõ những con đường khác nhau: Con đường của người con thứ, con đường đã dẫn đưa cậu đi đến một miền đất xa lạ, cách xa khỏi cha cậu. Con đường của người cha ra đón cậu con thứ

Con đường của người con cả.

Và con đường người cha đi gặp người con cả.

Ðó là những con đường khác nhau, và chúng sẽ: hoặc dẫn tới đích, hoặc chúng chỉ là những ngõ cụt hay là những con đường mất hút trong rừng sâu và không tìm được lối ra.

Thứ nhất: Con đường đi tìm lại sự tự do.

Với số gia tài trong tay, người con thứ đã bỏ nhà cha mình và trẩy đi đến một miền xa lạ. Cậu muốn tận hưởng hạnh phúc và sự tự do riêng của mình theo ý muốn. Người cha đành phải để cho cậu ra đi. Giờ đây mọi sự chỉ còn tùy thuộc vào thái độ của cậu trước các thách đố của đời và liệu cậu có đứng vững được hay không! Vâng, vấn đề có tính cách quyết định là ở chỗ: Tâm tình cậu con vẫn còn luôn tưởng nhớ đến cha cậu và luôn gắn bó với ông, cũng như cậu biết xử dụng phần gia tài được chia cho cậu, đúng với ý cha cậu; hay: Cậu đã cắt đứt mọi liên hệ với cha mình và tổ chức một cuộc sống riêng không dính dáng gì với cha nữa, nếu không nói là một cuộc sống phản lại cha! Sự tự do với cha hay một sự tự do không có cha! Chúng ta đọc thấy trong câu chuyện dụ ngôn. Người con thứ đã tìm cách sống sự tự do của mình không có cha!

Nhưng chúng ta cũng thấy được rằng con đường của người con thứ - với sự tự do không có cha - đã đưa dẫn cậu tới sự bất hạnh, tới một tình trạng bất tự do.

Thật vậy, những ai không còn muốn liên hệ gắn bó với cha mình, thì sẽ ràng buộc mình với nhiều thứ khác: tiền bạc, các đòi hỏi tự nhiên, các thú vui lệch lạc rẻ tiền, v.v... Người ta sẽ trở thành nô lệ cho những thứ đó và tự đánh mất các phẩm chất, tư cách và chính bản ngã của mình. Người ta sẽ trở thành một con người thiếu nội tâm. Ðó chính là sự đánh mất bản sắc riêng!

Câu chuyện dụ ngôn đã nói lên tình trạng buồn thảm đó khi tường thuật: con đường của cậu con thứ đã kết thúc nơi những con heo. Nói cách khác: Người con thứ đã không đứng vững được trước các cám dỗ và thử thách của đời. Cậu đã thất bại trong mọi lãnh vực: tài chánh, luân lý, đạo đức, nhân bản. Cậu thực sự hoàn toàn kiệt quệ và phá sản! Cậu đã đánh mất tất cả. Trong thực tế, cậu quả là một người con hoang đàng dại dột!

Tuy nhiên, trong trái tim cậu, sự khao khát mong muốn sự tự do quá mãnh liệt, khiến cậu ngay giữa cảnh mất mát thất bại đã can đảm đứng lên và bước theo con đường dẫn về cùng cha cậu. Ðó chính là con đường dẫn tới sự tự do chân thật, một sự tự do cậu chỉ có được qua sự gắn bó mật thiệt với cha!

Thứ hai: con đường của người con cả - một con đường rừng!

Người con cả trong dụ ngôn tuy luôn có mặt bên cạnh với cha cậu, nhưng lòng cậu lại cách xa cha. Con đường của cậu xem vẻ bên ngoài không đi xa khỏi cha như con đường của đứa con thứ. Nhưng người con cả cũng không đi chung với cha cậu trên cùng một con đường, khi ông đi ra đón người con thứ của mình đang quay gót trở về cùng ông.

Ai không liên kết gắn bó với cha, thì cũng không tìm ra con đường dẫn tới người anh em của mình. Người con cả nói với cha cậu: “ Thằng con của cha đó đã ăn chơi trác táng và phung phá tiền bạc của cha với bọn đĩ điếm...!” Người cha liền nhân từ và đầy thông cảm cắt nghĩa cho cậu hiểu: “ Em con đã quay trở lại nhà, nó đã chết nay sống lại, nó đã mất nay lại tìm thấy...!” Ai không đi trên con đường dẫn tới người anh em của mình, người đó cũng lỡ bước trên con đường dẫn về cùng cha.

Thứ ba: Con đường của người cha!

Con đường của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh tượng trưng cho con đường của Thiên Chúa. Con đường đó dẫn tới nhân loại. Người cha chạy ra đón tiếp đứa con hư hỏng trở về. Ông vui mừng ôm con vào lòng, chứ không hề trách móc la mắng con, như thể: Lỗi lầm của mi thật quá nặng nề. Cái dại của mi thật không sao nói hết... Nhưng tao tha cho lần này là lần chót...! Không. Ông không hề nói gì cả, ông chỉ vui mừng ôm lấy con! Ðó không phải là “ chiến thuật” sư phạm, nhưng là dấu chỉ của tình thương và lòng nhân hậu chân thành của một người cha: Con tôi đã mất và nay lại trở về với tôi! Ðứa con hoang đàng hư hỏng nay lại trở về trong nhà cha cậu và được nhận lại quyền làm con của mình.

Ðúng vậy, tình yêu đích thực không bới mói tội lỗi, nhưng là trao ban sự tha thứ và niềm vui mừng. Tuy nhiên người cha cũng đi ra gặp cậu con cả và cắt nghĩa cho cậu hiểu để cậu cùng mừng với ông. Vì ông rất biết là một bữa tiệc chỉ trọn vẹn khi mọi người cùng vui vẻ với nhau!

Nói tóm lại, qua dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu muốn nói cho chúng ta những điều này:

1. Thiên Chúa là một Thiên Chúa đi tìm kiếm con người, một Thiên Chúa mời gọi con người đến dự tiệc với mình, một Thiên Chúa vẫn giữ vững lời mời, cả khi chúng ta tỏ ra thất trung và đi theo con đường của mình tự chọn lấy, chứ không bước đi trên con đường của Người đã chỉ cho.

2. Thiên Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, đến nỗi một kẻ dù đã sa ngã và lâm vào vòng tội lỗi, vẫn có thể trở thành một người tốt lành được. Người không bao giờ loại trừ ai, vì trong tình yêu của Người, Thiên Chúa không hề thất tín. Tình yêu của Người vô cùng bao la, đến nỗi Người vẫn luôn kiên tâm chờ đợi mong mỏi cả những kẻ đã bỏ Người đi xa muôn dặm. Người đi gặp gỡ họ và đón tiếp họ, như thể không hề có gì đã xảy ra, tương tự như người cha đón tiếp người con hư hỏng trong dụ ngôn.

3. Thiên Chúa là một Thiên Chúa của tình yêu thương, của niềm hoan lạc vui mừng, Ðấng hằng muốn cùng chung vui với con cái loài người chúng ta.

Chớ gì tất cả những mặc khải đó mang lại cho tất cả chúng ta sự can đảm và sức mạnh, để tìm ra được con đường sám hối, con đường dẫn chúng ta tới cùng Thiên Chúa và tới cùng những người anh em đồng loại của chúng ta. Amen.

 

24.Lòng Cha trời cao biển rộng - AM. Trần Bình An

Có trường hợp sau khi bỏ nhà đi hoang trở về, các cậu ấm cô chiêu cảm thấy tởn tới già, như trường hợp của K. ở huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang). Sau khi liên tục chứng kiến cảnh cha mẹ mình cứ xung đột, lại thường xuyên bỏ bê con cái, để lo chuyện làm ăn, nên K. đã bỏ nhà lên TP.HCM đi hoang với một bạn “chat” có cùng cảnh ngộ.

Được chừng 10 ngày, K. cảm thấy nhớ nhà, nhưng không biết làm cách nào trở về, vì trong túi không còn một xu. May thay, nhờ một phụ nữ người Hoa tốt bụng cho 50.000 đồng, K. đã đón xe tốc hành về nhà. Kể từ ngày đó, cha mẹ của K. cũng giảm bớt sự căng thẳng với nhau và chăm sóc anh em K. rất chu đáo.

Tuy vậy, khi tiếp xúc với mọi người, K. cảm thấy xấu hổ vô cùng. Vì theo K.: “Ở nhà có cha mẹ, có chăn êm nệm ấm tội gì không ở, đi hoang chi cho... muỗi cắn và bị mọi người dòm ngó bằng cặp mắt lúc nào cũng đề phòng.” (Người Lao Động)

Câu chuyện trên cũng như dụ ngôn người con hoang đàng trở về hôm nay, (Lc 15, 11- 32) vẫn còn là một đề tài nhức nhối và nóng bỏng trong xã hội hiện đại.

Đi hoang trở về

Người con thứ đi hoang đã sám hối trở về. "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” (Lc 15, 18-19)

Người cha già cả, dẫu tuổi cao sức yếu, vô cùng hân hoan mừng rỡ, thấy con từ đàng xa, đã lật đật, bước thấp bước cao, chạy đến ôm hôn. Cuộc trở về trở nên sự kiện long trọng, nổi đình đám của một gia đình đang ưu uất, buồn bã, phân ly bấy lâu nay.

Khi vào bước đường cùng, người con thứ mới chạnh lòng nhớ đến Cha già xa xăm. Chàng mới nhận ra tấm lòng nhân hậu của Cha, khiến cho đôi chân lãng tử quay trở về.

Người Cha lâu nay bị lãng quên, nay kịp thời lóe sáng như ngọn hải đăng, dẫn dắt và cứu thoát chàng khỏi chốn tối tăm, vô vọng. Trong cảnh khốn cùng, tất cả đều qua đi, chỉ còn lại tình yêu, ta có thể sở hữu tình yêu mãi mãi, trong khi những thứ khác thì qua đi. (1Cr 13,8b-10).

Mỗi khi tôi sa cơ thất thế, hoạn nạn hay khốn khổ, sao tôi không nhớ ra, vẫn có Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi chở đợi tôi tha phương, trở về nương tựa? Việc gì tôi cứ mãi lo âu buồn bã, thất vọng với cõi đời u ám, lọc lừa, bất nhân?

Đi hoang ở nhà

Người anh trái lại, tuy ở nhà mang tiếng là phụng dưỡng cha, nhưng lòng dạ đen tối, chất chứa đố kỵ, ghen tuông, hằn học, khi thấy “thằng con của cha đó” trở về. Anh không thèm nhìn mặt đứa em, đã cải tà quy chánh. Nghe biết chuyện, anh còn nổi giận, không thèm bước vào căn nhà, đang rộn rã niềm vui tái ngộ.

Lòng dạ cố chấp, tánh tình hẹp hòi, nhỏ mọn, đã cản bước chân anh hội nhập vào cuộc chung vui và tha thứ. Tuy anh ở với cha già, nhưng chỉ có thân xác hiện diện, còn tấm lòng, tinh thần anh đã đi hoang từ hồi nào! Hóa ra, anh cũng chỉ thèm thuồng của cải, vật chất, tầm thường, phù vân, như chú em ngày xưa. Anh chỉ mong được một “con dê con,” để tưng bừng liên hoan đánh chén, bù khú với chúng bạn.

Thực ra, anh kiêu căng, tự phụ là đứa con hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết vâng nghe người cha. Cho nên, anh mới không hề ngượng mồm, vanh vách kể công: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà…” Anh nào cảm nhận, thán phục, kính trọng, và ca ngợi tấm lòng Người Cha Nhân Lành vô bờ, chứa chan yêu thương, tựa như trời cao biển rộng!

Giọng lưỡi anh chẳng khác chi lời cầu nguyện của người Pharisiêu, huênh hoang, lớn giọng, kể lể công trạng:“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam bất chính ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).

Tôi cũng hay coi thường, khinh miệt người khác sống theo thế gian, chộp giật, mánh mung, cơ hội, háo của, háo danh, tham quyền cố vị… Nào khác chi người anh trong dụ ngôn này, cũng kể lể, so sánh, dèm pha, chê bôi, để tôn mình, khoe khoang lòng đạo đức, tốt lành. Thiệt là quá đáng! Làm sao vui lòng Người Cha Nhân Lành được?

Người Cha Nhân Lành

Các nhà chú giải Kinh Thánh đều tỏ ra bất đồng tình về cái tựa Người Con Hoang Đàng, đặt cho dụ ngôn này, vì làm sai lệch ý nghĩa. Có lẽ lấy tựa là Người Cha Nhân Lành thì phù hợp hơn.

Người Cha nhẫn nhục, chia tài sản cho con thứ, dù biết chàng sẽ phung phí ăn chơi sa đọa. Người vẫn tôn trọng sự tự do của chàng. Rồi sau này lại nhẫn nhục, năn nỉ người con cả, nguôi cơn giận hờn vào nhà chung vui.

Người Cha còn quảng đại nhân từ, quên sạch mọi tội lỗi, mọi lỗi lầm, bất hiếu, không để con thứ kịp nói hết lời ăn năn, sám hối, mà hoan hỉ, vội sai ngay gia nhân hầu hạ, phục dịch chàng. "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc 15, 22-24)

Người Cha nói chẳng khác chi ông chủ tìm lại được con chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc.” (Lc 15, 6) Hoặc như bà góa hớn hở tìm được đồng tiền rơi mất: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” (Lc 15, 9)

Tôi khá nhiều khi thất vọng, không nhớ đến Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi trông mong tôi trở về mái nhà ấm cúng, bình an. Có lẽ vì tôi chủ quan, cho mình đã ngoan đạo, mà thực ra, chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc, theo chân Pharisiêu, mà tâm hồn cứ mãi đi hoang, đi bụi, mãi thèm “con dê con”, mải mê ham vui, mải mê đố kỵ, ganh ghét,…

May thay, bí tích hòa giải đã giúp tôi hoán cải trở về với Người Cha Nhân Lành. Người hằng mong tôi sám hối trở về với tình thương vô bến bờ. Lúc đó, Người mặc cho tôi tấm áo linh hồn mới tinh tuyền, đeo vào tay nhẫn vàng vương quyền, ban cho tôi đôi dép của người tự do, thoát ách nô lệ tội lỗi. Người tưởng thưởng tôi Bữa Tiệc Thánh Thể với chư Thánh Thiên quốc, trong tiếng đàn ca, múa hát tưng bừng của các Thiên Thần hoan hỉ chào đón. Người Cha Nhân Lành chẳng hề tiếc gì, để mừng con trở về vòng tay yêu thương.

Người lạc đường, thất vọng; người không biết đích, vô vọng, người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha Nhân Từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng. (Đường Hy Vọng, 664)

Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con luôn biết hồi tâm, nhận ra sự dại dột và tệ bạc của mình trước tình yêu vô bờ bến của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn biết trông cậy vào lòng Người Cha Nhân Lành, để ăn năn, sám hối trở về với Ngài.

 

25.Chúa Nhật 4 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”

Suy niệm:

Theo truyền thống phụng vụ của Giáo hội Công Giáo, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui, hay còn gọi là Chúa Nhật Letare. Letare là chữ đầu của bài Ca Nhập Lễ trích từ sách ngôn sứ Isaia 66,10-11: “Vui lên nào Giêrusalem hỡi…”. Niềm vui của Chúa Nhật IV Mùa Chay là đã đi được nửa chặng đường của việc giữ Mùa Chay Thánh…

Bài đọc I mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đã cho Dân Người tiến vào đất mà Thiên Chúa đã hứa. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với dân Do Thái. Niềm vui ấy được tiến triển trong Tân ước. Bài đọc II cho chúng ta thấy, nhờ Chúa Kitô mà con người được hòa giải với Thiên Chúa Cha.

Thực ra, người cha người mẹ nào cũng mong muốn con cái thành người, sống đúng với Đạo Trời. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của cha mẹ chứ chưa nghĩ về việc con cái có thể phụng dưỡng được mình hay không. Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh về một gia đình người cha nhân hậu đối xử với hai đứa con trai đáng cho chúng ta liên hệ về chính mình.

Theo truyền thống văn hóa Á Châu, con cái chỉ đề cập đến việc chia gia tài khi cha mẹ đã qua đời, hoặc nếu khi cha mẹ còn sống thì chính người cha người mẹ muốn chia gia sản cho con cái mới là lẽ thường. Còn việc con cái đề nghị cha mẹ chia gia tài ngay lúc các ngài còn sống thì chẳng khác gì trù cho cha mẹ chết, và sẽ bị xem là nghịch tử. Dầu vậy, người cha trong đoạn Tin mừng vẫn rất mực thương con, sẵn sàng chấp nhận đề nghị của con, ông chia cho cả hai đứa con.

Nhận được gia tài, thay vì phụng dưỡng cha, người con thứ để mặc người cha già lủi thủi ở nhà. Nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng. Đến khi hết tiền hết bạc, nó phải chăn heo, loại động vật mà văn hóa Do Thái xem là dơ bẩn và họ không chăn heo và cũng không ăn thịt heo bao giờ. Người con thứ lâm vào cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.” Hậu quả của việc phung phí gia sản đã dẫn người con đến sự cùng tận của kiếp người, sống không ra người.

Người con thứ dự tính trở về mái nhà của cha không phải vì thương cha mà là vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” Lúc gặp khốn cùng, con người mới nghĩ về Thiên Chúa, chạy đến với Ngài. Nhưng lắm khi những điều con người ta suy tính trong lòng chỉ là vụ lợi, việc cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng. Dẫu vậy, Thiên Chúa chấp nhận một cuộc trở về không hoàn hảo, vì Ngài có thể vẽ đường thẳng từ những đường cong.

Lẽ thường của một người cha hẳn là rất giận đứa con, có thể không nhìn mặt, hay ít ra cũng chửi cho nó một trận. Nhưng người cha trong câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa nhân từ đến tột cùng. “Anh ta còn ở đằng xa, cha anh chợt trông thấy, liền động lòng thương” Từ khi đứa con ra đi khỏi nhà cha, hằng ngày người cha tựa cửa mong ngóng đứa con trở về, và còn ra cả góc phố đi đi lại lại trông đợi con và hy vọng con sẽ quay về. Vì thế, khi thấy bóng dáng của người con còn thấp thoáng từ xa, ông đã trông thấy. Đoạn Tin mừng mô tả người cha “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Đâu rồi một người cha theo văn hóa Đông Phương với định kiến “kính nhi viễn chi”, nào là phải có vẻ mặt cương quyết, khuôn phép uy nghiêm, cử chỉ từ tốn. Nhưng không, người cha chạy tới ôm con như một đứa trẻ chờ mẹ đi chợ về, tiếng nói của con tim khiến ông bỏ qua mọi khuôn phép vốn có.

Người con thứ dự định một bài diễn văn thật dài gồm hai phần: phần thứ nhất là “con đáng tội với trời và với cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”, và phần thứ hai là “xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Quả thật, tục ngữ có câu: “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nhưng dầu người con cái trong gia đình có như thế nào thì đối với cha mẹ, con vẫn là con, vẫn là đứa trẻ non nớt mà mình phải bao bọc. Chính vì thế mà người cha đã cắt ngang, không cho anh nói phần thứ hai để tránh cho anh sự nhục nhã, và cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông phục hồi lại địa vị làm con của người con thứ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” Việc người con trở về đáng để vui mừng: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Ông sẵn sang thứ tha để mở cánh cửa cho con mình trở thành một con người mới, có một khởi đầu lại.

Liệu người cha có thiên vị tình thương dành cho người con thứ không? Người con cả nghĩ như thế, nên anh căm phẩn trách cứ cha. Hẳn là chúng ta cũng đồng cảm với người anh. Nhưng cùng nghe kỹ lại xem: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè”. Những lời trách cứ này là những lời đạo mạo của người Pharisêu tự kiêu xem mình tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, coi mình tốt lành và sẵn sàng lên án tội lỗi của người khác một cách không thương tiếc. Người con cả sống với cha nhưng anh đâu coi ông là cha của mình mà như tương quan ông chủ với đầy tớ, vâng lời cha mà như là thi hành lệnh của chủ, sống với cha mà đếm từng năm tháng, và kể công trách móc cha.

Tệ hơn nữa, anh dùng từ “còn thằng con của cha kia”, vì tính ghen tỵ nhỏ nhen, anh sẵn sàng cắt đứt tình anh em với người em mình khi nó hoạn nạn, điều này cũng đồng nghĩa với việc anh cắt đứt tình cha con. Anh đang ở nhà đó, nhưng lòng anh đã ra đi, vì thế anh cũng cần phải sám hối và quay về.

Cách xử sự của người cha dành cho người con thứ đi hoang thế nào thì ông cũng xử sự bao dung với đứa con cả ganh tỵ như thế. Với giọng nhất mực trìu mến, người cha nói với con đầy tâm tình: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con”. Đây là một lời đầy tế nhị để nhắc khéo cho cậu rằng ông cần “tình cha con” chứ không phải là “nghĩa chủ tớ”. Ông yêu thương, chẳng tiếc gì với con thứ, thì cũng vậy, những gì của ông cũng là của con cả.

Xét mình trong mùa Chay Thánh này, chúng ta nhận thấy dáng vấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua gia đình, xóm làng, đồng nghiệp, giáo xứ, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta làm biếng cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lại phạm tội trọng mất lòng Chúa. Có khi chúng ta thấy dáng vấp của chúng ta nơi người con cả kiêu ngạo, ích kỷ, xét đoán, nói xấu, ghen ghét anh chị em mình. Nhiều lúc chúng ta cũng tưởng rằng mình đang giữ đạo rất tốt, tham dự Thánh lễ Chúa nhật đều đặn, giữ Mười Điều Răn chỉ vì sợ Chúa phạt… Chúng ta cần nhìn lại thái độ sống của mình với Chúa trong tương quan cha-con hơn là nghĩ đến việc xét xử, bằng không chúng ta chỉ sống giữ luật vì sợ sệt hơn là yêu mến.

Người cha năn nỉ người con cả bước vào tham dự niềm vui đoàn tụ. Vậy chúng ta hãy tự trả lời cho câu hỏi: Người con cả có chịu bước vào nhà không? Mùa Chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa, làm hòa với anh chị em, nối lại sự nguội lạnh trong đời sống gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa tình anh chị em với nhau. Amen.

 

26.Người con cả là chúng ta

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ một mình thánh Luca ghi lại, với 2 câu hỏi: (1) Tại sao lại để mắt tới người con cả? (2) Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ, thái độ như người con cả này?

1. Tại sao lại để mắt tới người con cả?

- Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý- khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nói…): “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo để ăn mừng nó!” Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên đàng những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói:”Tôi nói thật cho các ông: những người thu thuế, tội lỗi, đĩ điếm, sẽ vào Nước Trời trước các ông”.

Chúng ta, những người đạo gốc –đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa– chịu thương chịu khó dậy sớm đi lễ, tối đến đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục…, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được (ở đây tôi không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong – chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang!).

Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn hôm nay, nên vẽ bức tranh này như sau: “Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha… Còn người cha là một cụ già đáng kính, toả sáng, tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều . Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, người nghiêng một bên, nhắm một mắt, tất cả thái độ của anh ta như toát ra lời trách móc người cha yếu đuối, nhu nhược. Mái tóc của anh làm nổi rõ vầng trán hẹp, cặp lông mày nhướng lên, đôi môi mím lại, chẳng đẹp gì… và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con họ.

Đó, thái độ của chúng ta, -tôi không vơ đũa cẳ nắm-, nhưng hầu như phần đông chúng ta, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả: khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.

2. Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ và thái độ như người con cả này?

Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày làm công, ai nấy đều được 1 đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ! Người chủ nói: “Hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ?” Ngoài câu trả lời này, thì dựa theo đoạn thoại của hai cha con trong dụ ngôn này: người con cả nói: “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình) – đáp lại, người cha nói: “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với “con của cha”. Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại, có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh đàn chị trong đức tin đối với người khác (người chưa Đạo)… hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.

Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật "mắt đền mắt, mạng đền mạng" được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin. Thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên: “Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn!” Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa.”

Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: “Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa.” Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng: Lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.”

Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ “trung tín” (vì ở mãi với cha), nay nếu thêm lòng “quảng đại” nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự “khoan dung tha thứ” của Người Cha đối với đứa em.

Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà nhân từ nữa. Kinh Tin Kính mà chúng ta sắp tuyên xưng –một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói nhân từ, nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ trong đó mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng nhân của Chúa đối với con người hèn yếu chúng ta. Amen.

 

27.Trở về với Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh)

Dụ ngôn người cha nhân hậu trong trang Tin mừng chúa nhật hôm nay cho thấy sự cần thiết của việc trở về cùng Thiên Chúa.

Người con thứ sau khi đã phung phí hết tài sản, đã đi vào đường cùng của sa đoạ, đã đánh mất đi phẩm giá của một con người qua việc thèm khát những thức ăn của bầy heo. Nay anh đã hồi tâm, ước mong thay đổi thái độ sống, muốn quay trở về với người cha nhân hậu của mình.

Và thực sự, anh ấy đã thực hiện thật nghiêm túc với điều mà mình mong muốn. Khi trở về với người cha, người con thứ đã bộc lộ sự khiêm tốn xuất phát từ chuỗi ngày quá khứ đen tối mà anh đã kịp nhìn nhận, khi anh thưa cùng người cha:" Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng được gọi là con cha nữa..."(Lc 15,21)

Trước thái độ hối cải của người con, chúng ta hình dung như thế nào về tâm trạng của người cha trong lúc này? Đó là sự đón tiếp mừng rỡ hơn xua đuổi, đồng thời niềm vui sướng của người cha trong lúc này đã làm cho ông quên đi gánh nặng đau khổ mà hôm nay chính đứa con này đã gây ra cho ông. Nói chung tâm trạng của người cha trong lúc này chỉ có một điều là vui mừng. Vui mừng khi thấy con trở về, vui mừng khi phục hồi phẩm giá lại cho con qua việc truyền cho đầy tớ phải mặc áo đẹp nhất cho con, xỏ nhẫn vào tay và xỏ dép vào chân cho con trai của mình. Và niềm vui mừng của người cha còn được thể hiện qua bữa tiệc rất ngon lành với con bê béo và rượu ngon. Thế nhưng bao nhiêu cử chỉ ấy cũng chưa đủ nói lên niềm vui nơi người cha nhân hậu mà chúng ta bắt gặp trong bài dụ ngôn thật độc đáo của chúa nhật hôm nay. Vì nguyên nhân sâu thẳm để người cha có được niềm vui thật sự là khi thấy người con tội lỗi không thất vọng về tình thương và ơn tha thứ của mình. Chắc hẳn thái độ hy vọng vào lòng thương xót của người con đối với cha, còn quý hơn sự hiện diện của anh ấy trước ánh mắt nhân từ người cha.

Thực ra thái độ không thất vọng vào tình thương của Thiên Chúa, không phải chỉ có trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể đâu. Nhưng trong thực tế đã có rất nhiều những mẫu gương nhờ lòng cậy trông và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà họ đã trở nên thánh. Ta thấy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ của Chúa, ông đã sám hối và được ơn biến đổi. Sau này vẫn được Chúa chọn làm trưởng Tông đồ đoàn. Phaolô trước khi trở thành tông đồ của dân ngoại thì ông đã bắt bớ và giết các tín hữu không nương tay. Nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ Phaolô vẫn được Chúa chọn làm tông đồ để thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Augustinô sau thời gian dài ăn chơi buông thả, nhưng nhờ tin vào ơn tha thứ của Chúa, nhờ những dòng lệ thành tâm hối hận, Augustinô đã được Chúa chọn làm Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Và còn biết bao nhiêu chứng nhân hy vọng khác nữa...

Đã là người thì ai cũng có tội. Đó là thân phận chung của con người. Nhưng chúng ta còn có lối thoát để được bình an với lương tâm và hạnh phúc trong nước Thiên Chúa. Lối thóat đó Chúa đã vẽ ra cho chúng ta, và Chúa đang chờ chúng ta ở cuối lối mòn này. Lối thoát ấy chính là đường hy vọng vào tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Khi ta đánh mất đi niềm hy vọng vào ơn tha thứ và tình thương hải hà của Thiên Chúa, thì kể như đời ta đã bế tắc, đi vào đường cùng của sự diệt vong, sự sống tương lai sẽ không còn hy vọng.

Vì thế, Cha Charles De Foucauld có để lại mấy dòng sau: "dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng điều đó... Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nan của con. Chúa không cho con nói: Tôi không thể đi tới được đường lên trời, khó khăn quá tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp... Vậy Chúa muốn con phải cậy trông luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa".

Như vậy thật may mắn cho chúng ta, vì bao nhiêu lần gục ngã do tội lỗi, chúng ta vẫn có quyền hướng về hạnh phúc tương lai đang chờ ta. Hạnh phúc đó lệ thuộc vào ta, khi trên hết mỗi người đừng đánh mất trước lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng đánh mất trước sự quảng đại ban ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa không bao giờ từ chối chúng ta khi chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Vì Thiên Chúa không nỡ lòng bẻ gẫy cây sậy đã dập và cũng không nhẫn tâm dập tắt tim đèn còn khói.

Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn. Thế nhưng hạnh phúc Thiên đàng thì con người lại càng khao khát và mong muốn hơn, và Thiên Chúa rất mong chúng ta có được hạnh phúc đích thực này.

Chúng ta sẽ có hạnh phúc khi chúng ta biết trở về cùng Thiên Chúa biết đặt tất cả lòng cậy trông vào ơn tha thứ vô tư của Thiên Chúa. Nói chung ta không được phép thất vọng về lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Hãy nhớ rằng Chúa chỉ dựng lên chúng ta một lần, nhưng ơn tha thứ cho những người trông cậy nơi Chúa thì Ngài vẫn tha thứ mãi, tha thứ vô điều kiện. Như vậy đón nhận ơn tha thứ của Chúa thường xuyên nơi Bí tích giải tội, hay trong những ngày còn lại của mùa chay thánh này, sẽ là lời minh chứng để nói lên tâm hồn chúng ta còn co hy vọng và tin tưởng nơi ơn tha thứ của Chúa hay không?.

 

home Mục lục Lưu trữ