Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 40

Tổng truy cập: 1370248

NGƯỜI ĐÃ TRAO BAN CHÍNH MÌNH

Người đã trao ban chính mình cho chúng ta

(Suy niệm của Lm Jude Siciliano – Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gòvấp)

 

Trong Tin mừng thánh của Gioan, người ta thường cố diễn giải Đức Giêsu trong khía cạnh tự nhiên; thánh Gioan gọi điều này là mức độ “xác thịt”. Trong khi Đức Giêsu lại cố gắng giúp họ ở một cấp độ sâu hơn, những điều thuộc về bản chất, ở mức độ của “tinh thần”. Ví dụ, khi Đức Giêsu ban nước hằng sống cho người phụ nữ bên bờ giếng (Ga 4,4-38), chị nghĩ Người đang nói về thứ nước tự nhiên không ngừng tuôn chảy. Nhưng Người muốn ban cho chị thứ nước là chính sự sống mới trong chị và làm thỏa mãn cơn khát thiêng liêng của chị.

Sự nhầm lẫn giữa những gì người ta hiểu về điều Đức Giêsu đang nói và điều Đức Giêsu thực sự muốn nói này là điều dễ thấy trong các bài đọc Tin mừng trong những tuần qua. Khi Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và rồi sau đó rút lui, đám đông phấn khích đi tìm Người, nghĩ rằng Người sẽ là nguồn cung cấp lương thực dồi dào cho họ. Đám đông đang hiểu ở mức độ “xác thịt” nhưng Đức Giêsu đang nói đến chuyện thiêng liêng. Người đang trao ban chính mình cho họ, Người là Bánh Hàng Sống – như Người nói với họ hôm nay.

Họ tranh luận với nhau về ý nghĩa của Người, nhưng Người vẫn tiếp tục nói về tư tưởng của mình “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”.

Đức Giêsu là Bánh Từ Trời xuống và Người mời gọi chúng ta tin và đón nhận Người như Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bài đọc hôm nay trích từ “diễn từ về bánh” nói về Thánh Thể. Đức Giêsu khẳng định rằng Người có sự sống “nhờ Chúa Cha” và Người sẽ chia sẻ sự sống ấy với những người tin cùng chia sẻ Thánh Thể. Vì thế trong diễn từ này, bắt đầu bằng phép lạ hóa bánh (6,1tt), Đức Giêsu đã tỏ bày sự hiện diện hai chiều cho chúng ta: Người hiện diện trong lời giảng cũng như trong Bí tích Thánh Thể. Phần đầu của diễn từ tập trung vào “bánh” là giáo huấn của Đức Giêsu và đòi phải tin vào lời của Người: sự sống đời đời là phần thưởng dành cho những ai tin vào Đức Giêsu. Nay Người lại dạy rằng ai ăn thịt và uống máu của Người sẽ nhận được sự sống đời đời. Trong những câu 51-58 có những dấu của từ ngữ mới trong suốt cả bài: “ăn”, “uống”, “máu”, và “thịt”.

Chúng ta có thể gọi những từ ngữ như thế là thô ráp hay ít nhất là phàm tục. Trong ngôn ngữ Kinh thánh, “ăn thị ai đó” là một tội ác dã man. Đó này nghĩa là làm hại ai đó. Uống máu được xem là một hành vi báng bổ bị Thiên Chúa cấm. Vì thế, có những ám chỉ liên quan đến hình ảnh “ăn thịt” và “uống máu”, hẳn đó không phải là việc đặt niềm tin và tiếp cận với Đức Giêsu.

Nhưng, chúng chỉ có thể nói đến Thánh Thể. Một số người cho rằng đoạn văn nguyên thủy của thông điệp này nằm trong diễn từ Tiệc Ly và công thức Thánh Thể. “…bánh Tôi ban chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống”. “Thịt và máu” dùng để ám chỉ đến toàn thể con người, vì thế Đức Giêsu ban trọn vẹn con người mình để chúng ta được sống – trước hết là trên thập giá và nay trong cử hành Bí tích Thánh Thể.

Diễn từ đòi hỏi tin vào Đức Giêsu và cho thấy rằng hồng ân mà chúng ta nhận được nhờ “tin” và “ăn” là chính Đức Giêsu. Tiến trình mạc khải trong diễn từ song song với việc chúng ta thực hiện trong Thánh Lễ: Đức Giêsu nói rằng Người trao ban chính mình cho chúng ta và Người dẫn chúng ta đến chỗ tin vào chính Người. Rồi chính Lời đó dẫn chúng ta đến bàn thờ để “cầm lấy và ăn” – “cầm lấy và uống”.

Do đó, hiển nhiên Bí tích Thánh Thể trở thành mầu nhiệm trung tâm trong đức tin của chúng ta. Đó là điểm trọng yếu đối với tất cả những gì chúng ta tin, tất cả những gì chúng ta là và chúng ta thực hiện. Ở đây chúng ta quy tụ quanh Lời, Bánh và Chén, quà tặng của Đức Giêsu là chính Người. Đến lượt mình, chúng ta cũng trao trọn vẹn con người mình cho Người bằng cách tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể. Chúng ta biết được trong diễn từ về bánh của thánh Gioan là Thiên Chúa hiện diện và sẵn sàng chia sẻ đời sống thần linh qua Đức Giêsu. Chúng ta đến với Thánh Thể với đôi tai bằng thịt để lắng nghe và mở lòng ra để đón nhận – nghe Lời và nhận Bánh được bẻ ra và sẻ chia.

Khi chúng ta đáp lại sau lời nguyện thánh hiến: “Khi chúng con ăn Bánh và uống Chén này trong Thánh Thể chúng ta loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Người đến”. Nói cách khác, khi chúng ta ăn và uống tại Tiệc Thánh Thể này chúng ta loan truyền ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu vì chúng ta. Những gì Đức Giêsu thực hiện cho chúng ta, chúng ta cũng có thể làm như thế cho những người khác. Sự sống mà Đức Giêsu có từ Chúa Cha, nay chúng ta cũng có được (“…tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.”). Vì thế chúng ta dấn thân hành động. Như đã từng nói, Thánh Thể không phải là một đối tượng, như là một hành động chúng ta tham sự vào và đáp lại trong đời sống mỗi ngày của chúng ta.

Làm cách nào chúng ta có thể phân biệt lời Đức Giêsu mời gọi đến dự tiệc mà Người vừa là chủ tiệc vừa là lương thực, với những bữa ăn khác mà chúng ta chia sẻ với nhau? Những ai nhớ trình thuật bánh ở Gioan chương 6 có lẽ cũng nhớ, hay nghe về, những lần khác Đức Giêsu đã cùng dùng bữa với các môn đệ. Chẳng lẽ những bữa tiệc bình thường đó lại không đặc biệt và là những khoảnh khắc ăn phúc đối với các môn đệ hay sao? Khi chúng ta ăn cùng nhau – không phải cách vội vã, nhưng với sự quan tâm và chăm sóc những người chúng ta chuẩn bị và chia sẻ bữa ăn – thì chẳng phải cũng là hành vi tôn giáo đó sao?

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều – còn có nhiều bữa ăn được chia sẻ và cả Bữa Tiệc Ly – Liệu các môn đệ buổi đầu ấy có ngồi xuống dùng những bữa ăn bình thường hằng ngày và không nhớ gì đến thứ lương thực được chia sẻ với Đức Giêsu và người khác chăng? Chẳng lẽ không có bữa ăn nào với bạn hữu mà không gợi lên những ký ức về bữa ăn với Đức Kitô và những gì Người dạy họ?

Trong thế giới hiện đại và đời sống gia đình của chúng ta có vẻ như không cho phép chúng ta có đủ thời gian và không gian cho những bữa ăn cùng nhau cách thong thả. Nhưng, tôi có thể sắp xếp để tạo những bữa ăn đặc biệt, Ai biết được, tôi có lẽ mới cảm nghiệm được, cách nào đó, Đức Giêsu cũng đang cùng bàn. Người nghèo không hề mất đi ý nghĩa và sự quý hóa của thức ăn. Họ có vẻ không đón nhận cách vô tư như chúng ta. Tôi không có ý lãng mạn hóa cái nghèo, nhưng chẳng lẽ quý vị không thấy rằng hầu hết những người nghèo trân trọng thức ăn như món quà được chia sẻ, được chúc lành hay được trân trọng đó sao? Và trong bữa ăn của họ chẳng phải Đức Giêsu cũng hiện diện như chủ tiệc và thức ăn đó sao?

Có vẻ như sách Châm ngôn, được mô tả như người phụ nữ trong bài đọc thứ nhất, đang bày cho chúng ta một bữa tiệc. Bà ấy rất bận rộn bày biện một yến tiệc và sai người đi mời chúng ta. Bà hết sức chu đáo đối với khách mời đến độ xây hẳn một cái nhà để thết tiệc. Bà kêu mời chúng ta bỏ đi những ngu si, những chọn lựa sai lầm và những nẻo đường ngang ngạnh. Thay vào đó, bà cho chúng ta sự khôn ngoan hiểu biết để chúng ta có thể đưa ra những chọn lựa tốt hơn. Vì thế, người khôn ngoan không chỉ học biết những gì liên quan đến tôn giáo mà còn cả những lẽ thường tốt đẹp nữa.

Sách Châm Ngôn khuyến khích chúng ta chọn Thiên Chúa và sự khôn ngoan mà Người ban tặng. Yến tiệc được mô tả trong bài đọc trích sách Châm Ngôn hôm nay là một sự gợi ý về bàn tiệc cánh chung được mô tả trong Isaia (55,1-5). Tân Ước cũng mô tả một bữa tiệc tương tự (Mt 22,1-14). Đức Kitô sẽ là chủ tiệc và việc hóa bánh ra nhiều là một sự tiên báo, một dấu, về những gì sẽ xảy ra – tất cả sẽ được ăn no nê và còn thừa rất nhiều.

Chúng ta có thể đọc bữa tiệc Khôn Ngoan như sự chuẩn bị cho Tiệc Thánh Thể, trong đó chúng ta được trao ban giáo huấn và thịt – là chính Thân Mình của Đức Kitô.

 

 

 

 

 

53. Hiệp nhất với Chúa trong Bí tích Thánh Thể

(Suy niệm của Lm Jude Siciliano. OP – Chuyển ngữ FX Trọng Yên. OP)

 

Sách Châm Ngôn mô tả tính Khôn Ngoan, một đặc tính của Thiên Chúa, qua hình ảnh của một phụ nữ. Đối với những ai khao khát tìm hiểu Thiên Chúa và đường lối của Người, thì sự Khôn Ngoan dọn ra một bữa tiệc sang trọng mừng đón tất cả. Và “Hỡi người ngây thơ hãy lại đây”. Khi Chúng ta đói khát Chúa, chúng ta không có hành vì nào bằng là chỉ muốn tóm lấy để ăn.

Có lẽ chúng ta đã tìm ăn nơi bàn tiệc khác; đã tìm sống theo khôn ngoan của người đời; đặt tin tưởng vào những của cải vật chất; dựa vào những sự vật hào nhoáng tạm bợ bên ngoài; trì hoãn việc tìm của ăn thiêng liêng v.v… Những ai trong chúng ta là người học hành cao, có thể nghĩ đọc sách sẽ giúp chúng ta giải quyết những thắc mắc của cuộc đời. Và rồi kết quả vấn đề mà chúng ta đang khao khát; chỉ như là uống nước trái cây cho đầy bao tử vì Chúng ta có thể cảm thấy thoải mái lúc đầu, nhưng một lát sau lại thấy hình như chẳng còn gì.

Sách Châm Ngôn tóm tắt những việc tìm kiếm ấy trong phần cuối đoạn 9, diễn tả “bữa tiệc” điên rồ và nực cười (9:13-18) đó là đi tìm sự khôn ngoan ở nơi mà mọi thứ đã không còn tồn tại. Ở Mỹ có rất nhiều tài liệu để đọc về giá trị dinh dưỡng của các món ăn và cho chúng ta biết chúng ta ăn những loại gì không đủ sức dinh dưỡng, và lâu ngày các thức ăn ấy sẽ làm hại hơn là giúp ích cho cơ thể chúng ta. Chúng ta hãy khôn ngoan tìm những thức ăn có thể bồi bổ sức khỏe, và đối với của ăn thiêng liêng cũng phải tìm những món ăn có hiệu lực thiêng liêng. Khôn Ngoan mời gọi chúng ta “Hãy đến! Hãy ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã hâm”.

Khôn Ngoan dùng từ ngữ diễn tả người phụ nữ tròn đầy của Chúa Giêsu, và diễn tả tình thương yêu của Đức Chúa, và Ngài lo lắng muốn chúng ta tìm kiếm của ăn đầy đủ dinh dưỡng. Đức Chúa nói với chúng ta “Ta thấy các con đói khát, và chỉ có mình Ta mới làm cho các con thỏa mãn. Ta gọi Con Ta đến với các con, đó là Khôn Ngoan hiện thực. Hãy ăn và uống của Con Ta cho vì đó là chính thân thể của Con Ta”. Và trong lúc quần chúng cãi vả nhau và với Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu nói ngay với những người đói khát. Cũng như Khôn Ngoan trong Châm Ngôn “Ta đã dùng bàn tiệc”, và mời gọi rất nhiều người đến dự để ăn uống, ăn “của ăn thật và của uống thật”.

Phúc âm thánh Gioan không đặt phép thánh thể vào bữa tiệc ly. Ba phúc âm Nhất lãm đều đặt phép Thánh Thể vào bữa Tiệc Ly, vì vậy thánh Gioan nghĩ Kitô Hữu đã biết chuyện Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể nên Gioan không viết lại nữa. Trong đoạn 6 thánh Gioan viết “lời bàn luận về Bánh Hằng Sống”. Trong lời bàn luận chủ đề về sự Khôn Ngoan hòa với chủ để phép Thánh Thể (Ga 6:35-50). Bài phúc âm đọc hôm nay diễn tả những từ như “ăn”, “của ăn”, “uống”, “thịt”, “máu”. Những từ đó rất cụ thể, sống động. Trong đoạn này Chúa Giêsu diễn tả một cách sống sượng làm người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.

Chúng ta đã thường nghe những lời này trong phụng vụ, trong Kinh thánh, và trong ngôn ngữ về đức tin, và chúng ta đã quen thuộc với những thành ngữ ấy. Nhưng chúng ta không cảm nhận được sự ngạc nhiên của những người lần đầu nghe những lời nói ấy. Phúc âm hôm nay cũng diễn tả ảnh hưởng của các lời nói của Chúa Giêsu đối với những người sống chung cùng thời với Ngài. Đám đông quần chúng nghe lời Chúa Giêsu, hiểu theo nghĩa đen của những lời đó, nên sau đó có nhiều người bỏ Ngài. Hiện nay chúng ta vẫn còn có những tranh luận giữa các giáo hội Kitô hữu về cách hiểu ý của Chúa Giêsu trong những lời Ngài đã nói

“Bài bình luận về Bánh Hằng Sống” do việc Chúa Giêsu đã cho đám đông quần chúng ăn bánh thật. Vì thế họ mới để ý nghe Ngài, vài họ đã được ăn no nê về vật chất. Nhưng đó chỉ là một dịp mở đầu để bàn thêm về những thứ bánh khác mà Chúa Giêsu sẽ cho chúng ta, đó là chính thân thể của Ngài. Và đây mơi là bánh giúp chúng ta no nê. Để diễn tả những ý nghĩa ấy, Chúa Giêsu dùng lời nói rất cụ thể. Hãy ghe lại những lời đó trong phép Thánh thể hôm nay “Hãy cầm lấy… mà ăn, đây là Mình Thầy. Hãy cầm lấy… mà uống, đây là máu Thầy”.

Có điều gì mà Chúa Giêsu không cho chúng ta không? Ngài có thể cho gì hơn là mình và máu Ngài không? Chúng ta có nghe được trong lời Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn ở gần chúng ta như thế nào không? Thiên Chúa muốn đời sống của Ngài hòa với đời sống của chúng ta để chúng ta thành một với Ngài. Chúa Giêsu đã hứa lời đó với chúng ta là nếu chúng ta ăn thịt và uống máu của Ngài thì chúng ta sẽ được sống muôn đời, không phải sự sống kéo dài ở đời này, mà chính sự sống viên mãn có ngay từ bây giờ mà chúng ta không phải chờ đợi.

Chúng ta hãy hy vọng, việc ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể ngày hôm nay sẽ nhắc chúng ta nhớ đến lời giảng dạy đó của Ngài. Chúng ta cũng hy vọng bữa tiệc Thánh hôm nay luôn luôn giữ chúng ta làm một với Chúa Giêsu, Để chúng ta bắt đầu ngay từ hôm nay lãnh nhận sự sống muôn đời của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Của ăn và của uống, Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta ăn và uống ngày hôm nay giúp chúng ta, những người tin Chúa Giêsu, thành một cộng đoàn. Lời Chúa Giêsu nói về máu Ngài là cho chúng ta nghĩ đến việc Ngài sẽ đổ máu trên cây Thánh giá. Chúng ta, những người dự vào tiệc thánh này, hãy nhìn xa hơn, như Chúa Giêsu đã làm, là chúng ta hãy nhìn vào những thiếu thốn, đau khổ của thế giới chung quanh chúng ta, và chính Chúa Giêsu cũng cho họ Mình và Máu Ngài. Chúng ta ăn và uống vì chúng ta tin. Những người khác phải thấy được đức tin của chúng ta thể hiện trong việc làm và lời nói. Chúng ta không thể sống đời sống của Chúa Giêsu mà không vào bàn tiệc Mình và Máu Ngài đã dọn cho chúng ta. Vì thế, hởi những kẻ, hãy tìm đến bàn tiệc Khôn Ngoan mà Chúa đã đặt sẵn cho chúng ta.

 

 

 

 

 

54. Đức Giêsu Tấm Bánh Bẻ Ra Cho Thế Giới Mới

(Suy niệm của Paul Nguyễn Cao Thắng, OP)

 

Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kết thúc việc mạc khải về Người là Bánh ban cho nhân loại. Lời trình bày đã đến cao điểm khi đòi buộc người ta phải tin và nhận lấy thực phẩm đặc biệt này, nếu không sẽ chết.

Trong cuộc sống thường ngày, con người thiếu lương thực, nước uống là chết. Cũng thế, người Kitô hữu không rước Chúa là không có sức sống. Chúa Giêsu hiểu nên Chúa thiết tha mời gọi ta rước lấy Chúa để có sự sống của Người. Và, 4 lý do Chúa nêu ra như một lời khẳng định đòi buộc người Kitô hữu phải dùng Thịt và Máu Người:

– Phải dùng mới có sức sống đời này.

– Phải dùng mới có sức sống đời đời.

– Phải dùng mới ở trong Chúa và có Chúa ở trong tâm hồn.

– Phải dùng mới có sức sống thông truyền từ Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa thấy rõ sự đói khát nơi con người, Chúa thấy rõ mảnh hồn cằn khô nơi chúng con. Và để chữa lành cơn khát, sự khô cằn ấy: chính Chúa đã trở nên Linh dược, Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng chúng con.

Lạy Chúa, hằng ngày chúng con bươn chải để tìm của ăn nuôi sống thân xác mà nhiều lúc quên lãng linh hồn cũng đang đói khát Chúa. Bao khổ đau, cơ cực; bao phiền muộn, bất hòa; bao thất bại và chán nản đè nặng cuộc đời… Vì rằng chúng con chưa thực sự có Chúa ngự trong lòng và từng ngày xác hồn của chúng con chưa có chính Chúa là sức sống nuôi dưỡng. Chúng con mãi tìm của phù vân và chóng hư nát, để rồi đón nhận Chúa là Bánh trường tồn cách hững hờ, vô tâm.

Lạy Chúa, sự sống của chúng con đâu chỉ đời này mà thôi, nên chúng con cần chính Chúa là lương thực đủ sức đưa chúng con vào đời sống vĩnh cửu. Chỉ có Chúa! Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện giữa chúng con – chỉ có Chúa là Đấng Hằng Sống mới thật là thần lương nuôi sống chúng con đời đời.

Thân lạy Chúa! Chỉ có Chúa ngự trong chúng con mới biến chúng con thành Kitô hữu. Một khi chúng con không rước Chúa, một khi chúng con hơ hững với Chúa ngự trong lòng, trong Bí tích Thánh Thể thì chúng con không còn xứng đáng là Kitô hữu nữa.

Lạy Chúa đang ngự trong Phép Nhiệm Mầu Cực Linh Khôn Sánh, chúng con mang thân phận yếu đối, cuộc đời với biết bao lỗi lầm xúc phạm đến Chúa, đến anh chị em; và chính tội làm cho chúng con bức bách mà chết, làm cho chúng con rơi vào hố sâu của bất an, của mất sự sống. Nhưng lạy Chúa, Chính nhờ Bửu Huyết và Thánh Thể Ngài mà chúng con được sống lại, được cứu rỗi, được thông truyền sức sống dạt dào từ nơi Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn ý thức và yêu mến Bí tích Thánh Thể; luôn năng rước Mình Máu Chúa vào lòng; và sống bằng chính sức sống cùng tình yêu của Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

55. Lương thực nuôi hồn

(Suy niệm của Tu sĩ Phạm Hùng Cường)

 

Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe tôi nghĩ đến một câu truyện được kể rằng:

Trong trận thế chiến thứ hai, quân phát xít Đức kéo vào những làng mạc giết hại người dân vô tội, một cuộc càn quét thật dữ dội và ác nghiệt, thấy thế chị Êlen vội bế con mình xuống hầm trốn, mẹ con chị đã hơn ba ngày ở dưới hầm mà bọn lính vẫn rảo quanh tìm kiếm những người sống xót để sát hại, sự tìm kiếm ấy mỗi lúc một gắt gao hơn. Với thời gian chị Êlen vừa đói vừa phải lo bảo vệ đứa con của mình nên đã cảm thấy mệt, đồng thời đứa bé trên tay lại luôn miệng kêu mẹ ơi con khát, vừa nghe lời đó chị Êlen thấy người mình run lên và lòng như lửa đốt, chị run lên vì sợ rằng qua tiếng kêu đó quân lính sẽ phát hiện ra mẹ con chị, còn chị như lửa đốt là bởi vì thương con đang đói, nên chị ôm ghì chặt con vào lòng, sau giây lát đứa bé lại rên rỉ kêu mẹ! con khát! Chị Êlen quờ quạng xem có tìm được gì cho con uống để đỡ khát chăng. Nhưng cũng chẳng có gì ngoài bóng tối, đứa con lại kêu lên Mẹ! khát! Chị Êlen xoay người, đưa tay lên miệng cắn đứt đầu ngón tay rồi đút vào miệng con và nói uống đi con nước đây! Chị Êlen lúc này cảm thấy như toàn bộ dòng máu trong cơ thể đang truyền sang đứa con của mình và từ đó người con ấy được hết khát.

Kính thưa qúy ông bà và toàn thể anh chị em đói đã là một nỗi lo cho con người nhưng khát còn là điều đáng lo hơn.

Qua câu chuyện trên đây thiết nghĩ rằng: Đối với mỗi người chúng ta, chúng ta chỉ bỏ một ngày không ăn uống gì là chúng ta đã cảm thấy khó chịu hoặc đói lả, chúng ta phải đi tìm cho mình những gì có thể giúp mình vượt qua cơn đói khát này. Vâng!thể xác là thế đó. Còn linh hồn thì sao? Chúng ta có thể để cho linh hồn chúng ta đói khát không? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng để linh hồn mình đói, nhưng nhiều khi chúng ta đã không nhận ra, mà chúng ta chỉ thấy bình thừơng như không có gì xẩy ra, thực ra cái bình thừơng ở đây lại là cái không bình thường. Không bình thường là vì linh hồn là sức sống cho thể xác, mà một khi thể xác không còn nhạy cảm nữa, thì cũng chính là lúc linh hồn đã suy thoái, tàn phai như thế làm sao có thể tồn tại được.

Vậy để có được một linh hồn khoẻ mạnh, chúng ta hãy cho linh hồn chúng ta được ăn uống đầy đủ. Lương thực của linh hồn ở đây không phải là thịt, cá hay rau quả mà chúng ta thường dùng hàng ngày, nhưng chính là mình và máu Chúa Giêsu, Chúa sẵn sàng cho chúng ta con người của Ngài.Ngài không nề quản bất cứ điều gì với chúng ta, Ngài sẵn sàng chịu nghèo đi để chúng ta được giầu có, Ngài bằng lòng chiụ đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chấp nhận chết đi để chúng ta được sống, tất cả những điều đó đều nhắm tới một mục đích duy nhất là để được kết hợp giữa Ngài với chúng ta. Một sự kết hợp không chỉ dừng lại ở gặp gỡ nhưng phải đạt đến đỉnh điểm là nên một với Ngài. Ngài đã hứa với chúng ta rằng “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi”

Vì thế, trước khi chịu tử nạn Chúa đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với chúng ta, và cho chúng ta đuợc no thỏa mỗi ngày qua Thánh lễ, có như thế chúng ta mới có thể cảm nghiệm được tình thương của Chúa dành cho chúng ta mỗi ngày một sâu hơn, khăng khít hơn và Chúa còn nói rằng: “Ai ăn thịt ta và uống máu ta, thì ở trong ta và ta ở trong kẻ ấy”. Từ đó ta thấy tình thương của Chúa dành cho ta thật bao la, hải hà. Nhưng chúng ta đã đáp trả lại tình thương ấy thế nào? hay đã nhiều lần chúng ta đáp trả tình thương đại lượng ấy bằng sự so đo, tính toán, ích kỷ… thậm chí có thể nói chúng ta còn làm ngơ trước tiếng mời gọi của Chúa. Trong khi đó Chúa thì mong sao có người đến nói chuyện và dùng bữa với Chúa, nhưng ngày qua ngày cũng chỉ có ta với ta. Vâng! Con người chúng con là thế đó!

Lạy Chúa chúng con là những con người yếu đuối thường hay phản bội, xin cho chúng con có được linh hồn khoẻ mạnh để soi sáng cho chúng con luôn nhận ra và chống lại những trước cám dỗ trong cuộc đời. Từ đó chúng con sẽ nhạy cảm hơn khi thấy linh hồn mình đói, có như thế chúng con mới biết chạy đến với Chúa, để Chúa cho linh hồn chúng con ăn từ đó linh hồn chúng con sẽ không bị đói nữa và sẽ được sống đời đời.

 

 

 

 

 

56. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh.

 

“Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.

Chữ “manna” chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với bạn và tôi. Chúng ta nghe rất nhiều khi đọc Thánh Kinh Cựu ước, nhất là sách Xuất hành. Sách Tân ước cũng đã có nhiều lần nhắc lại. Đặc biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại từ “manna” như một so sánh kém hơn để nói về Bí tích Thánh Thể, của ăn cao quý. Vậy manna có nghĩa là gì?

Câu chuyện về manna thật lạ lùng. Nó như một phương tiện cứu đói mà Thiên Chúa quan phòng, qua đó đã tỏ bày lòng yêu thương đối với dân của Người. Ngày ấy, dân đi trong sa mạc đến bốn mươi năm. Sa mạc chứ đâu phải đồng bằng. Đồng bằng còn có người khổ, người đói nói gì đến sa mạc đầy khắc nghiệt, đầy nguy nan. Vì thế cuộc sống sa mạc dẫu có đói rét, thiếu thốn đến mức cùng cực, không thể vượt qua đi nữa, vẫn là điều không lạ. Thiên Chúa nhìn thấy nỗi lầm than ấy của dân chúng. Manna là quà tặng mà Người ban cho họ để không chỉ làm lương thực mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Người. Người cho họ biết rằng, giữa nỗi cơ cực trăm chiều, Người vẫn ở bên họ, Người rất gần với họ.

Manna giống như một thứ nhựa cây, cứng lại khi gặp không khí. Muốn ăn, người ta phải giã nát ra rồi nướng thành bánh. Manna có đủ mọi mùi thơm ngon, điều đó biểu trưng cho lòng nhân hậu của Chúa.

Chúa Kitô ví Thịt Máu Người là BÁNH. Nói cho trọn nghĩa, Bánh ở đây nghĩa là lương thực. Lương thực – Bánh – này “bởi trời xuống”. Vì thế Bánh này là Bánh mà không một thứ lương thực nào ví bằng. Dẫu là manna, dẫu là lương thực đã từng biểu trưng cho lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Người, vẫn không thể và không bao giờ có thể mảy may sánh được. Bởi thế Chúa Giêsu khẳng định: “Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.

Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người. Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày nay lãnh nhận Bí tích Thánh Thể là ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng con người chính Người Con Một dấu ái. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lai sự no nê cho thân xác, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô trở thành Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình về quê trời, mà còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho thấy Chúa không bỏ dân của Người, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội Thánh và hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Người trong Bí tích Thánh Thể. Còn hơn cả mọi hiện diện bình thường, nơi bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau đớn tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người mất niềm tin vào cuộc đời, vào con người tìm được chỗ nương thân; người hấp hối tìm được sự nâng đỡ vững vàng để bước ra khỏi cuộc đời; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa quan trọng, rất quan trọng: Nếu ngày xưa manna là của ăn nuôi thân xác, ngày nay còn hơn bất cứ của ăn nào, Mình Máu Chúa Kitô ban cho ta ơn thần hoá…

“Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Bằng những lời chân thành như thế, Chúa Giêsu giới thiệu cách long trọng Bánh hằng sống, Bánh muôn đời tồn tại và đầy quyền năng trao ban ơn sống đời vĩnh cửu cho tất cả những ai rước lấy với lòng trong sạch, đơn sơ, ngay lành. Bánh ấy, quyền năng ấy chỉ có thể được trao ban bởi một mình Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Thiên Chúa đã làm người, để bằng tất cả mọi sáng kiến của Người, ta được sung mãn đến mức làm một với Thiên Chúa. Bởi vậy, khi dạy hãy ăn Thịt và uống Máu Người, Chúa Giêsu muốn ta đời đời ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa trong ta. Người muốn ta dùng chính nhân tính của Người mà nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn ta. Người muốn ta hãy bồi bổ đời sống của mình bằng sự sống của Người cho đến khi trong ta thấm đẫm, tràn ngập và đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa.

Vì Thánh Thể là một sự bồi bổ thần linh tuyệt hảo như thế, nên ăn Chúa Kitô là sống bằng chất bổ dưỡng có tên là CHÚA KITÔ. Vì thế việc rước lễ thường xuyên, cũng có nghĩa là ngay từ bây giờ bạn và tôi đã bước vào đời vĩnh cửu và chắc chắn sẽ được sống đời vĩnh cửu ấy.

 

 

 

 

 

57. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự sống

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

 

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).

Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ một câu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).

2.- Bố cục

Bản văn có thể được chia thành bốn phần:

1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);

2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);

3) Triển khai đề tài (6,53-56);

4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).

3.- Vài điểm chú giải

– từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.

– bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi Bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.

Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về Bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất định để gọi Bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết trên thập giá và Bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là Bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.

– làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).

– ăn… uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.

– thịt… máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.

– Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của Bí tích Thánh Thể.

– ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là một đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng một công thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).

– kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.

– chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.

* Xác định đề tài (51)

Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.

* Thắc mắc của người Do Thái (52)

Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).

* Triển khai đề tài (53-56)

Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của Bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là một bằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.

Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiêp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy… ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). “Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).

* Nền tảng của đề tài (57-58)

Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.

+ Kết luận

Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.

2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.

3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong Bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.

4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo Hội từ Bí tích Thánh Thể, 24).

 

 

 

 

 

58. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.

 

Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 53-59)

Mạc khải:(cc. 54-58)

Trong phần cuối này của diễn từ của Chúa Giêsu, từ vựng nói về Thánh Thể trổi vượt, với một thực tại chỉ có thể hiểu được tùy vào thời điểm của Giáo Hội. Giữa các câu 53 và 54-56, Gioan, thay vì từ “ăn” quen thuộc, lại sử dụng một từ sống sượng: “nhai, cắn”, để có thể nhấn mạnh sự chiếm hữu và sự nội tâm hóa cần thiết. Trong trường hợp này, có thể phần này của diễn từ chịu ảnh hưởng của các cuộc tranh luận trong cộng đoàn của Gioan về thực tại Thánh Thể. Ta liên tưởng đến các môi trường theo thuyết trực quan hay ảo thân thuyết, chủ trương liên kết với Chúa Giêsu mà không cần thông qua trung gian bí tích. Thánh Thể, mình và máu, thông ban cho tín hữu hai ân huệ mà các tín hữu thời Chúa Giêsu tìm kiếm: sự sống đời đời ngay từ lúc này đây và được ở lại với Chúa Giêsu: “ở lại với Chúa” đó là điều mà người Do Thái hướng đến khi tìm kiếm Chúa Giêsu (sự tìm kiếm Chúa Giêsu) mà không đạt được. Việc nhắc lại Caphanaum (c.59) đi theo việc nhắc lại lần đầu về địa điểm này trong 6,24. Sự mạc khải đã kết thúc, tuy nhiên nó không ngưng nghỉ tạo nên nhiều hiệu quả.

Tóm lại, đây là vài suy tư có hệ thống hơm, khả dĩ cung hiến những điểm chính yếu giúp hiểu rõ hơn sự hợp lý của bài diễn từ quan trọng này.

1. Diễn từ này cần được hiểu bằng cách so chiếu với phép lạ trước đó. Chúa Giêsu đưa ra một dấu lạ chiếm vị trí trong sự tiếp đãi bánh manna và ý nghĩa của nó. Điều can hệ ở đây, đó là căn tính của Chúa Giêsu và thân phận của Người đối với Do Thái giáo và nhất là với các biến cố căn bản của việc Xuất hành. Người mong muốn được nhận biết và đã thất bại. Do đó diễn từ cố gắng làm điều mà hành động đã không thể thực hiện được.

2. Lần mạc khải này được điều tiết bằng bốn lần thật, tôi bảo thật các ông. Nắm vững các điệu tiết này như những dấu chỉ sự tiến triển của dòng tư tưởng, ta sẽ có cơ may tôn trọng sự hợp lý của dòng văn bản. Ta nhận ra rằng mỗi một đơn vị được cấu tạo bằng một lần mạc khải và một lần biểu hiện sự cứng lòng không chịu tin, ngoại trừ đơn vị sau cùng chỉ có lời mạc khải của Chúa Giêsu chiếm lĩnh.

3. Sự kiên trì cứng lòng không chịu tin tạo cảm nghĩ rằng chúng ta đang đứng trước một bản văn tranh luận và biện giải. Cuộc tranh luận này để lộ ra thân phận dành cho người Do Thái và những gương mặt quan trọng của Israel. Dụng ngữ “tổ tiên các ông” được lặp lại nhiều lần, chỉ rõ sự rạn nứt đã xảy ra giữa người Do Thái và các Kitô hữu đang tranh luận. Lối diễn đạt như thế khiến nghĩ đến thời kỳ cộng đoàn chứ không phải thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Vả lại, còn có nhiều dụng ngữ khác xác nhận cảm nghiệm này, đặc biệt sự đối nghịch liên lỉ giữa bánh manna như lương thực của sự chết – “Tổ tiên các ông đã ăn và đã chết” (c.49) – và Chúa Giêsu như “bánh đem lại sự sống cho thế gian” (c.33).

4. Chính cá nhân Chúa Giêsu là tâm điểm của diễn tiến. Giữa bốn phần, ta thấy có sự tiến triển trong mạc khải.

Trong phân đoạn thứ nhất (cc.26-31), Chúa Giêsu trình bày mạc khải khi Người nói về mình ở ngôi thứ ba mà không hề xưng “Tôi”. Những người Do Thái là những chứng nhân và là những người thụ hưởng một dấu lạ. Thế nhưng họ tỏ ra không có khả năng nhận biết nơi Chúa Giêsu điều gì khác hơn điều họ chờ đợi: một Mêsia trần thế. Để thấu hiểu hiện tại, họ không thể tìm thấy cách đo lường nào khác hơn là cách đo lường của quá khứ: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna (c.31)…

Phân đoạn thứ hai (cc.32-46) đặt ở vị trí thứ nhất Thiên Chúa Cha và nhất là Chúa Con, “Đấng từ trời xuống” (c.33). Ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu xoay hướng lợi ích về bản thân mình: điều đó biểu lộ qua việc sử dụng ít nhất 18 đại từ ở ngôi thứ nhất. Cuộc thách đố: đó là tin rằng nơi con người Chúa Giêsu (“con ông Giuse, cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả” (c.42), Thiên Chúa tỏ hiện và tự hiến. Tin vào Chúa Giêsu, đó là được sự sống ngay từ lúc này đây và sống cho sự sống lại chung cục.

Phân đoạn thứ ba (cc. 47-52), theo cách thức Sêmit, lặp lại các chủ đề đã đưa vào và xác định chúng: Chúa Cha, từ nơi Người mà Chúa Con đã lãnh nhận mọi sự, không được nhắc đến trong phân đoạn này; ở đây Chúa Giêsu nói về chính mình và đưa vào chủ đề sự chết của Người như nguồn mạch sự sống cho thế gian. Chủ đề cho đến lúc đó đã tập trung ở đức tin vào Chúa Giêsu thì giờ đây nhắc đến sự chết của Người và Thánh Thể như bí tích tưởng niệm sự chết.

Phân đoạn sau cùng (cc. 53-59) đề cập cách rõ ràng về Thánh Thể: các từ ngữ được sử dụng rất thực tế: ăn thịt (“nhai” theo nghĩa từng chữ). Rõ ràng ở đây chúng ta đang ở trong thời kỳ của Giáo Hội: việc cử hành Thánh Thể là hành động đối lại ảo-thân-thuyết (giáo phái cho rằng Chúa Giêsu giả bộ làm người) và là sự quả quyết có tính bí tích về thực tại của sự nhập thể.

5. Sự mạc khải về mầu nhiệm của Chúa Giêsu ngày càng thâm sâu thì số môn đệ càng bớt dần. Trước tiến đó là người Do Thái “xầm xì” (c.41) như dân Israel xưa kia đã làm trong sa mạc: Xh 17,3. Tiếp đến ngày càng nhiều môn đệ “rút lui và không còn đi với Người nữa” (c.66); sau cùng, ngay giữa nhóm Mười Hai, cũng bắt đầu sự cứng lòng không chịu tin. Dù có lời tuyên xưng đức tin tuyệt vời của Phêrô, chương này kết thúc với một ghi chú bi quang: “Chính Giuđa, một môn đệ trong nhóm Mười Hai sẽ nộp Người” (c.71).

6. Toàn thể chương này xoay quanh vấn nạn: “Làm sao tìm gặp Chúa Giêsu?”. Dân chúng đi theo Người, tưởng đã gặp Người đến nỗi có thể “bắt ép Người” (c.15). Chúa Giêsu lẩn tránh được họ và dân chúng bắt đầu “tìm kiếm Người” (c.25). Khi đã gặp được Người trong hội đường, dân chúng cảm nghiệm có thể mất Người vì những kỳ vọng xem ra thái quá. Họ tranh luận nhau và kẻ trước người sau bỏ đi hết. Đối với các Kitô hữu sống sau thời Chúa Giêsu tại thế, Thánh Thể cho phép sự gặp gỡ là “ở lại với Người” (c.56). Phêrô, người phát ngôn của nhóm Mười Hai, ở lại với Người bởi vì “Người có những lời đem lại sự sống đời đời” (c.68).

Chương này dài và khó đã khiến nhiều nhà chú giải có những ý kiến khác nhau về ý nghĩa. Ngay các Giáo phụ cũng đã tranh luận về giá trị Thánh Thể của bài trần thuật. Vài vị đã quả quyết rằng hình ảnh của ăn uống là những biểu tượng của đức tin. Những vị khác lại nhận thấy một ý nghĩa đặc biệt trong các câu 53-58. dường như hiện nay những đối nghịch đó không còn mãnh liệt nữa, vì đa phần đều chấp nhận ảnh hưởng của Giáo Hội đối với chương này. Đặc biệt các quy chiếu Thánh Thể, không thể hiểu được trong thời gian Chúa Giêsu tại thế, lại có thể hiểu được và trở thành hiển nhiên sau việc lập Thánh Thể và việc cử hành bí tích của Giáo Hội.

 

 

 

 

 

59. Chú giải của Noel Quesson.

 

BÁNH HẰNG SỐNG

Thiên Chúa là duy nhất và Lời Chúa là duy nhất, nghĩa là được gom lại trong một sự phát âm duy nhất: Chúa nghĩ mọi sự trong chỉ một “Lời” lời của Người hoàn toàn duy nhất. Nhưng độc nhất và duy nhất đó, lời đơn giản đó lại được truyền đi thành vô số những chân lý khác nhau, qua những lời nói khác nhau của con người. Cũng như ánh sáng trắng trong tính duy nhất của nó, gồm chứa mọi màu sắc của cầu vồng, rất khác nhau, khi chúng xuyên qua lăng kính của chúng ta. Vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy người ta đưa ra nhiều giải thích về mầu nhiệm bánh sự sống. Mỗi cách giai thích là một sự tiếp cận, một phiến diện của chân lý độc nhất. Chương 6 Tin Mừng Thểo thánh Gioan có thể được hiệu bằng 4 cách:

1. Một vài tác giả thời xưa đã nghĩ đến ý nghĩa thuần túy thiêng liêng “Bánh sự sống ” đó là con người và sứ điệp của Đức Giêsu, mà ta “đồng hóa” nhờ đức tin.

2. Một số lớn những nhà chú giải Thánh Kinh thời nay, trái lại cho rằng cách nói này hoàn toàn thuộc về Bí tích Thánh Thể: “Bánh sự sống”, chính Thánh Thể mà chúng ta ăn thực sự trong một thứ bữa ăn hiện thực, trong đó chính thân Thể của chúng ta cũng đóng vai trò của nó.

3. Nhiều nhà phê bình đưa ra một ý kiến trung dung: Phần đầu diễn từ cho đến câu 50 nhắm vào đức tin… làm cho chúng ta được nuôi dưỡng bằng Đức Giêsu nhờ thông hiệp với tư tưởng và lời của Người. Phần 2 của diễn từ, bắt đầu từ câu 51 tức là bài đọc Chúa nhật này, nhằm Bí tích Thánh Thể, làm cho chúng ta kết hiệp với Mình Máu Chúa cách Bí tích, trong một “dấu chỉ hữu hiệu”.

4. Cuối cùng, đối với một số tác giả hiện đại, diễn từ của Chúa Giêsu nhắm cả vào Đức tin và Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, có một sự kết hợp mạnh mẽ giữa hai đề tài này: Đức tin hoàn toàn nơi Chúa Kitô đòi hỏi phải tìm Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, vì Bí tích Thánh Thể là “mầu nhiệm đức tin” tuyệt vời.

Suy niệm về Lời và Con Người của Đức Giêsu (phần đầu của Thánh lễ: Phụng vụ Lời Chúa) và rồi thông hiệp với Mình Máu Thánh Người (phần 2 của Thánh lễ: Phụng vụ Thánh Thể), là 2 phần nối tiếp nhau. Làm sao ta có thể nói, người ta thực sự tin vào Đức Giêsu, con Thiên Chúa đã nhập thể không mà ta lại không làm theo lời Người và đón nhận “Mình Thánh” Người? Đức Giêsu thường nói về đức tin trước khi nói cách rõ ràng về Bí tích Thánh Thể, vì sự hiện diện nhiệm mầu” của Người chỉ thực sự nuôi dưỡng những kẻ tin. Ta cũng thấy được sự quan trọng phải đến dự lễ đúng giờ: Nhờ đức tin, chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa là chính Đức Giêsu, để có thể được nuôi dưỡng bằng chính Người trong mình Chúa đã được phó nộp vì chúng ta. Không có 2 phần trong Thánh lễ, phần đầu có thể tùy ý không bắt buộc. Ngay từ đầu, chúng ta đã thông hiệp với Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa.

Đức Giêsu nói: “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”.

Đây là câu 51 lần đầu tiên một từ mới xuất hiện và sẽ được lặp lại 11 lần trong phần cuối diễn từ của Đức Giêsu: “thịt và máu” “ăn và uống”. Chứng từ này rất hiện thực chúng ta không làm sao chỉ có thể hiểu một cách tượng trưng được.

Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.

Họ đã hiểu theo một cách thực tế nhất, và họ đã bất bình. Nếu họ nghĩ đến việc đón nhận Thánh Thể cách thiêng liêng, thì họ đã không bất bình.

Đức Giêsu nói với họ: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông sẽ không có sự sống nơi mình”.

Thay vì làm dịu bớt sự căng thẳng, Đức Giêsu lại càng nhấn mạnh đến tính thực tế của đời Người, và từ bây giờ trở đi, Người còn thêm 2 từ “thịt” và “máu”… Và vấn đề không chỉ nguyên là “ăn” mà còn là “uống” nữa. Việc rước Chúa dưới “hai hình” nằm trong truyền thống xa xưa bắt nguồn từ Đức Giêsu, đến nỗi người ta tự hỏi làm sao có thể bỏ truyền thống này, và cần. phải bao lâu nữa người Kitô hữu mới muốn lăp lại truyền thống này.

Sự liên kết hai chữ “thịt” và “máu” có thể được hiểu bằng nhiều cách.

Theo tâm thức của người Sê-mít, kiểu nói này ám chỉ toàn diện con người, tất cả những gì làm nên thực tại cụ thể con người, với những khả năng và giới hạn của nó. Cũng theo tâm thức của người phương Đông, “máu” thật là linh thiêng, bởi vì nó là biểu tượng phi thường của “sự sống”, đến độ có thể dùng chữ này thay thế chữ kia (“nếu các ông không uống sự sống của Người, các ông sẽ không có sự sống của Người trong mình”).

Nhưng cuối cùng và quan trọng nhất, đó là sự phân cách giữa 2 yếu tố này: Mình Tôi và Máu Tôi, gợi lên cho biết Đức Giêsu sẽ chết cách nào, bằng cách “tách rời máu Người ra khỏi thân mình Người”. Đức Giêsu vừa nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”: Ở đây rõ ràng Chúa muốn ám chỉ đến lễ hy sinh Thập giá Chúng ta thâm tín với Đức Giêsu, Người cần phải hy sinh để cứu chuộc thế gian. Người biết Người phải “hiến dâng” mạng sống của Người để cho thế gian được sống.

Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.

Đừng quên rằng Thánh Gioan viết những câu này trong Tin Mừng của ông vào khoảng năm 90 hay 100. Nghĩa là từ 60 năm qua, ông đã cử hành Bí tích Thánh Thể với những cộng đoàn Kitô hữu. Làm sao mà độc giả của ông lại không áp dụng ngay những lời này vào Bí tích Thánh Thể mà họ đã “ăn và uống” thực sự, trong một bữa ăn huynh đệ thân mật. Vả lại, nếu Đức Giêsu không nói như thế thì làm sao các tông đồ trong bữa tiệc ly đã có thể hiểu được việc Đức Giêsu làm? Sự thiết lập Bí tích Thánh Thể, chiều 11 tối Thứ Năm Thánh sẽ không thể hiểu được đối với Nhóm Mười Hai, nếu Đức Giêsu đã không chuẩn bị cho các ông, bằng cách này hay cách khác… Và ở đây, trình thuật của Gioan rất quan trọng: Chắc chắn ông đã hiểu rõ những gì Đức Giêsu nói hôm đó khoảng một năm trước cuộc thương khó của Người, và Gioan đã đưa vào trình thuật của ông tất cả những hiểu biết về sự Phục sinh mà ông đã ghi nhận được qua những biến cố sau cùng này.

Vì Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống.

Thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu, chiều tối Thứ Năm. Nhưng chúng ta thấy có sự song song rất ăn khớp với Tin Mừng nhất là Mátthêu, Máccô và Luca: Thực sự đó chỉ là một Tin Mừng với những từ ngữ khác nhau. Chúng ta đừng quên một tính từ mà Thánh Gioan thường hay dùng, đó là chữ “đích thực”. Chữ này phải làm chúng ta chú ý, nó có nghĩa “coi thường”. Đó là “của ăn đích thực” một của ăn không giống như những thức ăn khác. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con những chỉ dẫn chính xác, rất quan trọng, giúp chúng con vượt lên trên những quan điểm nhân loại, quá chật hẹp thuần túy.

Sau đó, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta 3 hiệu quả của Bí tích Thánh Thể.

1) Sự sống đời đời và sự sống lại

Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại.

Bích tích Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Và Thân Thể hằng sống này (sống một cách khác, sống sự sống đích thực) trở nên “mầm mống” sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Theo Tin Mừng nhất lãm, vào buổi tối tiệc ly Đức Giêsu sẽ nói về “bữa tiệc trên trời”, nơi đó Người sẽ quy tụ các bạn hữu của Người. “Thầy sẽ không uống rượu nho nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống với các con Rượu Mới trong vương quốc của Cha Thầy”. Bữa tiệc Thánh Thể là một sự tham dự trước bữa tiệc Nước Trời, nơi đó chúng ta sẽ ngồi đồng bàn với Chúa Cha, với Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, theo hình tượng rất đẹp của Chúa Ba Ngôi. Vâng, chúng ta đang đi tới cuộc gặp gỡ hạnh phúc đó. Tạ ơn Chúa.

2) Sự kết hợp hỗ tương giữa Chúa Kitô và người Kitô hữu.

Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hợp với Tôi, và Tôi luôn kết hợp với người ấy.

Đây cũng là một từ quen thuộc đối với Thánh Gioan “ở cùng”. Ơn gọi của mỗi người là “ở cùng Chúa, ở trong Chúa”. Đó là đề tài căn bản của Giao Ước, đã được diễn tả trong Thánh kinh suốt dòng lịch sử, qua những kiểu nói ngày càng rõ ràng, riêng tư và thân mật:

“Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 6,7).- “Người yêu tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người ấy (Dc 6,3).- “Các con hãy ở trong Thầy, cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 6,56 – 15,4).

3) Sự tận hiến cho Chúa Cha.

Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy.

Giới từ được dịch ở đây là “nhờ Chúa Cha” có những nghĩa phong phú hơn trong tiếng Hy Lạp. Giới từ đó là chỉ “địa”, có nghĩa là “qua”, “vì”, “nhờ”. Chúng ta thấy phớt qua một trong những nghĩa cử sâu xa của Đức Giêsu, mà Thánh Gioan đã khéo đoán biết được: Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và cho Chúa Cha, và Người mời gọi chúng ta sống như thế!

 

 

 

 

 

60. Chú giải của Fiches Dominicales.

DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1) Một lời huyền nhiệm mới:

Chúa nhật trước, chúng ta đã kết thúc phần thứ nhất “diễn từ bánh trường sinh”; theo thánh Gioan, Chúa nói những lời này ở hội đường Capharnaum, tiếp theo sau phép lạ bánh hóa nhiều. Lúc ấy, Đức Giêsu tự giới thiệu Ngài là “Bánh từ trời xuống”, cao trọng vô cùng so với manna của cuộc Vượt Qua thứ nhất. Điều này đã gây ra sự chống đối nơi người Do thái: “Người này không phải là Giêsu, con của ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết rõ, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống”. Trước sự chống đối này, Đức Giêsu cho họ biết một mạc khải mới về mầu nhiệm con người và sứ vụ của Ngài: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.

Câu nói này còn gây ra một chống đối khác, và để trả lời cho sụ chống đối lần thứ hai này, lại có thêm một mạc khải mới nữa về mầu nhiệm Đức Giêsu, lời huyền nhiệm mới của Ngài ở câu 51 (câu kết bài Phúc âm chúa nhật trước) mở đầu cho phần thứ hai của diễn từ. Lời này chủ yếu nói đến Thánh Thể: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”.

Đức Giêsu không những chỉ rõ mình là “bánh trường sinh” mà còn là “bánh trường sinh từ trời xuống”.

Động từ “ban” (“Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”) chủ từ của nó không phải là Cha, nhưng chính là Đức Giêsu. Ngài là người ban tặng, nhân danh Chúa Cha.

Bánh này đồng nhất với “thịt” của Đức Giêsu. Từ này không chỉ bản chất của cơ thể con người, nhưng chỉ chính Đức Giêsu trong thân phận con người phải chết. Tại sao tác giả Tin Mừng thích dùng từ này hơn từ ‘thân mình’ mà truyền thống đã quen khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói ở bữa tiệc ly? Cha X. Léon-dufour trả lời: “Có thể do từ “thịt” đã nêu lên cách hiện diện của Ngôi Lời giữa chúng ta trong Lời Tựa của Phúc Âm thánh Gioan (1,14): “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt). Như vậy, ở đây, tác giả Phúc âm muốn giữ lại ý tưởng về mầu nhiệm nhập thể mà diễn từ muốn làm nổi bật khi nói đến vấn đề từ trời xuống.” (Lecture de l’Evangile selon Jean’, tập 2, Seuil, tr. 160). Ngôi Lời đã trở nên xác thịt (1,14). Và thịt đã trở nên bánh (6,51).

Còn công thức: “Ban để cho thế gian được sống” nói rõ mục đích của việc Đức Giêsu dâng hiến mạng sống mình làm quà tặng. (Sách đã dẫn, tr.161)

2) Một phản đối mới

Điều khẳng định mới mẻ về cái chết của Ngài là mạch suối hằng sống cho thế gian đã gây ra một phản đối mới: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”

Mới đó, Đức Giêsu đã gây xung đột khi xưng mình có nguồn gốc từ trời, giờ lại thêm một xung đột khác. Nếu đúng thực là người Thiên Chúa sai đến, là Đấng Thiên sai như đã tự phụ thì làm sao Thiên Chúa có thể để Ngài phải trải qua cái chết vì Ngài quả quyết: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống. “Làm sao Thiên Chúa có thể không cứu Ngài thoát khỏi quân thù và bảo đảm cho Ngài chiến thắng?” LM. Chauvet cảnh báo: “Nếu khó khăn thứ nhất về căn tính Đức Giêsu đã khó có thể tiêu hóa nổi thì khó khăn thứ hai về cách thực hiện sứ mạng của Ngài càng không thể nuốt trôi: vì như vậy, Thiên Chúa có lẽ sẽ không còn là Thiên Chúa nữa”. (“Symbole ét sacrement”, Cerf, tr.229-230).

Chính xung đột thứ hai là hậu cảnh cho “diễn từ về bánh trường sinh”, chứ không phải việc bánh trở nên thịt Ngài được gọi là sự ‘biến đổi bản thể’. Chính niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và lại trở về với Thiên Chúa sau khi trải qua cái chết để ban sự sống cho thế gian mới là trung tâm của tất cả diễn từ. Như thế, chúng ta mới nói hết được tầm quan trọng của vấn nạn ở câu 52 (Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?): Thiên Chúa có còn là Thiên Chúa nữa không một khi Người để cho kẻ người sai đi phải chết?” (LM. Chauvet, Sđd, tr.230).

3) Mạc khải mới của Đức Giêsu về chính mình:

Thay vì hạ giọng làm cho người nghe khỏi bị vấp phạm, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ, quả quyết hơn: “Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.”

Không chỉ có vấn đề “thịt”, mà còn phải “ăn” (nghĩa đen là nhai, như chúng ta “nhai” bữa ăn phục sinh; chúng ta gặp động từ này 8 lần trong những câu này); và phải uống máu Ngài. Để “ở” với Ngài ngay từ bây giờ, để sống sự sống Ngài đã nhận từ Cha, chúng ta phải nhờ đức tin đón nhận mầu nhiệm sự chết là quà tặng Ngài ban cho ta.

Khi đọc bản vằn này, một bản văn rất tương hợp với bài tường thuật về việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu không thể không nhận biết đó là lời loan báo về Thánh Thể. Tài liệu thần học chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể quốc tế tại Lộ đức viết rằng: “Khi ăn Mình mầu nhiệm Chúa, các Kitô hữu nghiền ngẫm” (nhai lại) biến cố gây vấp phạm là việc Đấng Thiên sai bị đóng đinh vì muốn ban sự sống cho thế gian (xem Ga 6,51), và nên một với Người nơi chính thân thể mình, hầu đời sống hằng ngày được biến đổi nên giống Người” (Jésus Christ, painrompu our un monde nouveau, Centurion, 1980, tr. 64)

BÀI ĐỌC THÊM

1) “Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh”

(A. Marchadour, trong “Les dossiers de la Bible”, số 41, 1992, tr.13-14):

Khi giảng dạy tại Capharnaum. Đức Giêsu không thể tuyên bố trực tiếp về Thánh Thể vì trước bữa tiệc ly, cũng như trước khi Ngài chết và sống lại, điều đó còn rất khó hiểu. Trước hết, thành ngữ “Bánh trường sinh” là cách để chỉ Đức Giêsu là Đấng mạc khải từ trời đến, và lời Ngài là của ăn và của uống giống như sự khôn ngoan của Thiên Chúa được trình bày cụ thể bằng bánh và rượu (Hãy đến, hãy ăn bánh và hãy uống rượu ta đã dọn cho các ngươi, Prov. 9,5). Toàn bộ diễn từ nhằm gợi lên niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng mạc khải; ngoài ra, việc cử hành Bí tích Thánh Thể cũng được biểu lộ rõ ràng trong những kiểu nói: “An, uống, có sự sống”. Hơn nữa, phần cuối (câu 51-58) của diễn từ còn trực tiếp nói đến Thánh Thể. Chúng ta hãy xem xét phần này.

Quả thật, từ câu 51, Đức Giêsu nói đến cái chết của Ngài như nguồn mạch sự sống: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”. Từ thịt làm chúng ta nghĩ đến Lời Tựa: “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (1,14). Ở đây, rõ ràng, mầu nhiệm nhập thể được diễn tả ở điểm chót là cái chết của Đức Giêsu. Ngôi Lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh. Có sự liên tục giữa nhập thể, cái chết trên thập giá và Thánh Thể. Ngày nay, Đức Giêsu vắng mặt về thể xác, nhưng điều Ngài mạc khải còn đó và Thánh Thể vẫn và điểm hẹn để con người có thể gặp gỡ hoặc từ chối Người như những người đương thời với Đức Giêsu vậy: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (6,60).

Trong các câu 53-56, thay vì động từ “ăn”, Gioan dùng một động từ có nghĩa mạnh hơn: “nhai”, “nhai rau ráu”. Điều này có thể nhằm nhấn mạnh đến thực tại của Thánh Thể vì có một số Kitô hữu theo thuyết ngộ đạo bác bỏ sự trung gian của vật chất trong việc kết hợp với Đức Giêsu qua các bí tích, và không nhận Ngài cũng là người như chúng ta: đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Tuy nhiên, sử dụng vật chất làm trung gian trong các bí tích không có nghĩa là chúng ta sử dụng ma thuật: Chính Thần Khí mới làm cho sống, còn xác thịt chẳng ích chi (6,63). Thánh Thể, xác và máu, thông truyền cho tín hữu hai quà tặng mà những người thời Đức Giêsu tìm kiếm: đời sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ và sự luôn “ở” với Đức Giêsu. Ngày nay cũng vậy, Kitô hữu nào thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin thì ở trong Ngài và được sự sống đời đời.

2) “Hai bàn tiệc”

“Thánh lễ gồm hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể; cả hai liên kết chặt chẽ để làm nên một hành động phụng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ vừa là bàn tiệc Lời Chúa vừa là bàn tiệc Thân Thể Chúa nhờ đó các tín hữu được giáo huấn và được bồi dưỡng” (PGMPL 8) Bản văn này sáng sủa rõ ràng nên không cần phải giải thích thêm. Nó nói đến tính cách đặc biệt của mỗi phần trong thánh lễ: có hai bàn tiệc nên có hai của ăn, nhưng cũng nói đến sự duy nhất làm cho hai bàn nên một hành động phượng tự duy nhất. Chúng ta đi từ Lời đến Thánh Thể, hay, dựa trên câu nổi tiếng của Phúc Âm thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (1,14), để nói rằng chúng ta không thể đi tới xác thịt (thân thể) mà không qua Ngôi Lời (lời), và cả hai đều chỉ là duy nhất một Chúa có nghĩa là để gặp Chúa, đến với Chúa, phải nhờ Lời của Người.

Chúng ta cũng biết rằng từ thế kỷ XVI, anh em Tin Lành nhấn mạnh hơn đến tầm quan trọng của bàn tiệc thứ nhất và người công giáo chú trọng đến bàn tiệc thứ hai, nhưng từ công đồng Vaticanô II, phụng vụ có được sự cân đối hài hòa giữa hai bàn tiệc này. Đàng khác, Công đồng không canh tân mà chỉ trở về nguồn là nền thần học của các Giáo phụ nổi tiếng như Origênê, Ambrôsiô, Hiêrônimô, Gioan Kim Khẩu và Xê-da thành Ac”.

 

 

 

 

 

61. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.

CHÚA KITÔ, LƯƠNG THỰC NUÔI SỐNG

 

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Từ câu 51, chúng ta có thể suy diễn được gì từ quan niệm của Chúa Giêsu về sự sống và sự chết?

2. Nơi câu 53-55, Chúa Giêsu có hé cho thấy là những lời của Người phải được giải thích theo một nghĩa biểu tượng không?

GIẢI THÍCH

1) “Chính Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống? Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian” (c.51). Chúa Giêsu là “bánh sự sống” nghĩa là ban sự sống thần linh (c.48), vì Người là “bánh hằng sống” (c.51), là Đấng có sự sống thần linh trong mình, hay nói đúng hơn, Người chính là sự sống. Những lời quả quyết của Chúa Giêsu càng lúc càng rõ rệt và táo bạo.

“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” một sự sống đích thực, sung mãn. Chỉ có thể quán triệt được lời quả quyết trên đây của Chúa Kitô nếu chúng ta đặt mình trên quan điểm đức tin, một đức tin cao sâu và liều lĩnh, đức tin mà trước đây Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng quá sức. Đức tin này làm cho ta thấy được “sự sống” (và sự chết) một cách hoàn toàn khác hẳn quan niệm thông thường của ta. Vì xét cho cùng, cái mà chúng ta thường gọi là “sự sống” trong lãnh vực tự nhiên, đáng được gọi là “chết” hơn là “sống”. Trong Tin Mừng thánh Gioan, Chúa Kitô, Đấng chính là sự sống. Điều chỉnh quan niệm của ta bằng cách nói cho ta hay Thiên Chúa nghĩ gì về sự sống. Khi Chúa Kitô của Gioan nói về sự sống cụt lủn, là Người cố ý nói về sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã thông ban cho tổ tông nhân loại và sau lúc Ađam sa ngã thì Chúa Kitô đã đến trả lại cho ta. Từ khởi nguyên, Thiên Chúa đã chỉ muốn ban sự sống siêu nhiên ấy cho con cái Ngài; Ngài đã chẳng muốn tạo dựng một sự sống thuần túy tự nhiên không có sự sống siêu nhiên. Nhìn sự vật với con mắt của Thiên Chúa, thì sự sống thuần túy tự nhiên thiếu mất cái đặc tính riêng của sự sống, thành thử nó không có quyền được gọi là “sự sống” theo nghĩa đen và sâu xa.

Cũng thế, cái chết thể lý chỉ đáng gọi là “chết” khi nó, xét như là hình phạt của tội lỗi, làm nên khởi điểm của sự chết đời đời. Nơi đâu mà cái chết thân xác không còn có đặc tính trên, nghĩa là nơi những con người đã được cứu chuộc đang mang sự sống đích thực trong Chúa Kitô, thì chúng ta không thể gọi như thế được.

Vì vậy, khi Chúa Giêsu tự xưng là “bánh hằng sống”, và khi bảo bánh ấy ban sự sống cho ai ăn nó vào, là Người nói về “sự sống” theo nghĩa đầy đủ nhất, sự sống thần linh mà cái chết thân xác sẽ không thể nào hủy diệt được. “Lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi” (Kinh Tiền Tụng lễ An táng).

Đối với chúng ta, sự sống thể lý mà chúng ta có kinh nghiệm nhiều hơn, chiếm chỗ quan trọng nhất; sự sống siêu nhiên xem ra thường ít quan trọng và mơ hồ. Phải sửa sai quan niệm chúng ta lại theo quan niệm Chúa Kitô. Khi Chúa Kitô dựng trước một kẻ nào chỉ chết cách thể lý, như trước đứa con gái Giairô hay trước mồ Ladarô, thì người gọi cái chết là một giấc ngủ (Mt 9,24; Ga 11,11); thánh Phaolô cũng vậy (1Cr 7,39; 11,30; 15,6.18.20.51…). Từ đó, danh từ đạo gọi chỗ chôn người chết là “cimetière”: koimotôrion, coemeterium, dortoir: Phòng ngủ. Trong các hang toại đạo, người ta thường thấy hàng chữ khắc sau đây: “Vivas in Deo: hãy sống trong Thiên Chúa”. Ngang phần lễ qui thánh lễ, linh mục cầu nguyện cho tất cả những ai “đang ngủ giấc bình an”. Sau hết, tinh thần duy thực siêu nhiên của Giáo hội còn biểu lộ ra qua việc Giáo Hội gọi ngày qua đời của các thánh là diosnatalis: “ngày sinh ra” trong sự sống đích thực và sung mãn.

2) “Vậy Chúa Giêsu nói với họ: Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ chẳng có sự sống nơi mình các ngươi” (c.53). Không tìm cách làm dịu kiểu nói, không dùng lối phát biểu ám dụ, Chúa Giêsu tiếp tục quả quyết một cách long trọng và mạnh hơn, trước tiên dưới hình thức tiêu cực (c 53), sau đó dưới hình thức tích cực (c.54). Vẫn biết Chúa Kitô, nhất là Chúa Kitô của Gioan, thường hay dùng những lời bóng bẩy; Nhưng nơi đây, Người đang ở trong những hoàn cảnh đặc biệt đến nỗi không thể để cho thính giả của Người (và độc giả của Tin mừng thứ 4) phải bị lầm về ý nghĩa đích thực của các lời Người nói. Thay vì loại bỏ một sự mập mờ. Nguyên nhân gây công phẫn, người còn thêu dệt thêm điều vừa phán bằng cách dùng động từ trôgô: nhai, nghiền nát với răng (còn mạnh hơn dộng từ esthiô dùng trong các câu trước) và bằng cách đề cập đến máu phải uống nữa: chi tiết này chắc hẳn đã làm cho người Do thái chói tai lắm, vì lề luật cấm uống máu loài vật: “Bất cứ ai thuộc nhà Israel hoặc ngụ cư giữa các ngươi mà ăn huyết bất kỳ thứ nào, thì Ta sẽ quay lại chống kẻ đã ăn huyết ấy, và Ta sẽ khai trừ nó khỏi dân nó” (Lv 17,10). Một trong những điều khoản mà thánh Giacôbê cho ghi vào sắc lệnh của cộng đồng Giêrusalem (Cv 15,20) là yêu cầu của các người ngoại giáo trở lại không được dâng “thịt ngọi và máu huyết”.

Vì lời có vẻ tuyệt đối nên Giáo hội Hy lạp đã kết luận rằng phải cho trẻ em đã chịu phép rửa được rước Mình Thánh Chúa trước lúc đến tuổi khôn. Còn Giáo Hội Latinh đòi đến tuổi khôn, vì để lãnh nhận Mình Thánh Chúa, phải có lòng kính trọng và tôn sùng; mà muốn thế, phải phần nào hiểu biết của ăn thiêng liêng ấy đã.

“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại trong ngày sau hết” (c.54). Điều đã nói một cách tiêu cực nơi c.53, bây giờ được lặp lại một cách tích cực, và còn rõ ràng hơn nữa: để chân đứng mọi lối thoát muốn giải thích theo nghĩa tượng trưng, Chúa Giêsu dùng động từ trôgô: nhai một lần nữa; động từ này không bao hàm một nghĩa xấu, song cốt nói lên tính cách tả thực.

Chúa Giêsu gán cho việc ăn thân xác Thánh Thể Người cùng những hiệu quả mà Người đã chỉ định cho đức tin vào Người (6,40): sự sống đời đời được chiếm hữu ngay lúc này đây và sự tôn vinh thân xác sau này; nói thế, Chúa Giêsu muốn ngụ ý ai từ chối ăn Người trong Bí tích Thánh Thể, kẻ đó không có đức tin đích thực. Với nhà thần học trung cổ Rupert de Deutz, ta co thể thiết lập sự song đối lý thú sau đây: tổ tông chúng ta đã đánh mất sự sống siêu nhiên vì đã phạm tội, trước hết một cách vô hình qua việc nghi ngờ không tin và sau đó bằng cách ăn trái cấm hữu hình; tội nghịch cùng đức tin đã mở màn cho việc mất sự sống, và tôi ăn trái cấm đã hoàn tất việc đánh mất sự sống. Cũng vậy, để phục hồi sự sống thần linh ấy trước hết chúng ta phải tin vào Chúa Kitô, và đức tin này không thấy được, rồi tiếp đến phải ăn lương thực hữu hình là Người, như thế chúng ta mới hoàn tất việc công chính hóa của chúng ta.

“Vì thịt Ta là của ăn thật, và máu Ta là của uống thật” (c. 55). Một lần nữa, Chúa Giêsu rõ ràng muốn loại bỏ một cách giải thích ám dụ về diều Người đã phán về việc ăn mình Người: đừng tưởng rằng Ta nói một cách bóng gió: Thịt Ta là của ăn thật và máu Ta là của uống thật. Một lần nữa, Rupert de Deutz đối chiếu cách gọi “của ăn thật” này với của ăn giả trá mà tên cám dỗ dã dâng cho tổ tông chúng ta: “Tên điêu ngoa và cha sự láo khoét” (Ga 8,44) đã giới thiệu cho Eva trái cấm và hứa với bà điều mà thức ăn đó không thể ban được, trái lại Chúa Kitô, quả phúc của lòng Maria và là chính chân lý ban cho ta của ăn đích thật, lương thực thông ban sự sống trường sinh. “Ông bà sẽ trở nên như Thiên Chúa” (St 3,5): con rắn đã bảo vậy. Ai ăn Chúa Kitô, sẽ có trong mình thần tính, sẽ trở nên “Thiên Chúa” nhờ sự tham dự, thông phần” (Pl 169,485CD)

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Các người Do thái xô xát tranh luận với nhau”: Việc mặc khải Chúa Giêsu tiến triển chừng nào, thì sự chống đối lớn dần chừng ấy. Các người kêu ca lẩm bẩm mới đây giờ biến thành cuộc tranh luận sôi nổi. Một số người có lẽ hiểu xác quyết sau cùng của Chúa Giêsu theo nghĩa ẩn dụ ít nhiều, vì kể ra việc ăn và uống cũng có thể áp dụng đối việc nghiên cứu lề luật (Strack- Billerbeck, t.II, tr.485). Song những kẻ khác, căn cứ vào giọng nói của Chúa Giêsu, cách thế Người phát biểu và những chữ Người chọn, thấy rằng tất cả phải hiểu theo nghĩa đen; cho nên họ phê phán lời Người là phi lý.

“Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người”. Đối với một số đông các nhà chú giải, động từ này làm nên một chứng cớ quyết định bênh vực cho việc đồng hóa Chúa Giêsu với Con Người. Trong những đoạn khác, khi Chúa Giêsu nói về Con Người, thì không luôn luôn rõ ràng là Người nói về bản thân. Nhưng ở đây, không thể nghi ngờ gì được.

“Lưu lại trong Ta và Ta trong kẻ ấy”. Cụ thể mà nói, hình dung trước tiên sự hiện diện của Chúa Giêsu trong kẻ đón nhận Người thì tự nhiên hơn. Song cách nói “lưu lại trong Ta và Ta trong nó” (x.14,10-20; 15,4-5; 1Ga 3,24; 4,15-16) chỉ một sự kết hiệp vừa thân mật vừa tương hỗ. Đó chính là hiệu quả riêng của Bí tích. Người rước lễ ở lại trong sự sung mãn của Chúa Kitô, đón nhận sự sống Người tuôn chảy vào họ. Và về phần Người, Chúa Kitô ở lại trong kẻ rước lễ như một người bạn thân tình và được yêu mến.

KẾT LUẬN

Thánh Thể là bữa ăn của Thiên Chúa. Bàn thờ dâng hy lễ cũng chính là bàn ăn nơi đó thịt và máu Chúa Kitô được trao ban như của ăn và thức uống cho các người dự tiệc.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.

1. Trong bản văn hôm nay, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không nói là “thân thể” Người như trong những lời thiết lập Bí tích ở nhà Tiệc ly, nhưng nói “thịt” của Người”. Và vì thế, diễn từ này của thánh Gioan cũng đưa ta về một câu trong Bài tựa của Tin Mừng ông, câu bảo rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã hóa thành “nhục thể” (xác thịt). Nói “thịt”, trước tiên Gioan muốn quả quyết những gì Kinh Thánh luôn luôn hiểu qua danh từ đó. Trong cách nói của người Sêmita, tiếng “xác thịt” luôn luôn chỉ con người toàn diện, chứ không phải một phần con người hay chỉ cái mà ngày nay – hầu như theo một nghĩa y học chúng ta gọi là thân xác để đối lại với linh hồn thiêng liêng. Thịt và máu có nghĩa là cả con người, đúng hơn là con người cụ thể, đang chiếm một chỗ trong khung cảnh sống của trái đất này, con người mà ta có thể sờ mó và biết có giá trị ra sao đối với ta. Vì thế khi Gioan tuyên bố: “Ngôi lời đã hóa thành xác thịt” là ông muốn nói: Ngôi Lời thật sự ở nơi chúng ta đang ở, Người ở giữa chúng ta, Người chia sẻ sự sống chúng ta, Người chia sẻ thời gian và không gian của chúng ta, Người chia sẻ cuộc hiện hữu của chúng ta: chúng ta có thể và phải tìm Thiên Chúa vĩnh cửu ở đây, trong trần gian này. Nếu điều đó đúng với Chúa Kitô lịch sử, thì cũng đúng với Chúa Giêsu Thánh Thể. Vì trong Thánh Thể, Người hiến thân cho chúng ta hoàn toàn, thực sự, dù dưới một phương thức hiện diện khác với phương thức hiện diện ở Palestin. Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã sống lại vinh hiển và biến hình vinh quang. Và vì Người mang trong mình sự sống muôn đời, nên Người cũng có thể làm cho chúng ta được hằng sống.

2. Nếu chúng ta thường mang tâm trạng, hầu như nặng nề, là mình quá xa Chúa, là tâm hồn mình quá trống vắng Thiên Chúa, nếu chúng ta tưởng rằng mình không thể tìm Ngài với những ý nghĩ và tâm tình của con tim, nếu chúng ta có cảm tưởng mình ở đây, trong lúc Thiên Chúa đích thực, ánh sáng bất khả đạt thấu, thật quá xa vời, thì ít nữa chúng ta hãy ao ước tiếp nhận thân xác của Chúa. Dĩ nhiên, nếu không tiếp nhận với đức tin và lòng mến, thì Thịt và máu Người sẽ chẳng có ích lợi gì, chỉ đem lại án phạt. Nhưng nếu chúng ta, vốn là những kẻ khó nghèo và đói khát, hành khất và què quặt, mù lòa và đau yếu, là những kẻ được mời gọi từ khắp mọi lối của trần gian và mọi chuồng, nếu chúng ta biết tiến lại với ý thức rõ ràng về thân phận nghèo đói, khốn khổ và lang thang của chúng ta, biết bước lại với lòng tin tưởng mà nói: “Chúng con ao ước được ăn Mình Chúa ít nữa là một lần thì lúc đó Thiên Chúa sẽ làm những gì còn lại. Lúc đó Ngài sẽ đổ xuống trên chúng ta ân sủng với sức mạnh, ánh sáng và sự sống của Ngài, ngay chính khi chúng ta tưởng mình còn là hư không và tối tăm, còn là những kẻ đã chết và tội lỗi khốn nạn. “Hãy nhận lãnh mà ăn, này là Mình Ta”. Và Chúa còn nói: “Ai ăn thịt Ta thì sống đời đời”. Người đã đến với chúng ta trong xác thịt chúng ta và chính thịt này Người ban cho chúng ta, vì chúng ta không biết làm sao để đến với Người. Vì thế, chúng ta ta có thể luôn tin tưởng vào người, dù chúng ta có cảm thấy gì đi nữa cũng không sao, và có thể đến gần bàn tiệc sự sống vĩnh cửu vì Người ở nơi chúng ta ở, và bởi thế chúng ta không nên sợ người xa chúng ta vì Người cho chúng ta Mình và Máu Người cùng sự sống vĩnh cửu.

3. Ăn thịt Chúa Kitô hay ăn Chúa Kitô trong Thánh Thể và phương thế duy nhất giúp ta tránh được lâu dài bệnh thiếu máu thiêng liêng và cái chết. Ăn Chúa Kitô là sống bằng Chúa Kitô. Việc rước lễ đều đặn tự nhiên đặt chúng ta. Ngay từ bây giờ và một cách vững chắc, vào giai đoạn đầu của sự sống vĩnh cửu; giai đoạn này được gọi là ân sủng và sẽ triển nở về sau trong vinh quang của thị kiến hồng phúc, rồi trong sự sống lại của thân xác vinh hiển vào ngày cánh chung.

 

 

 

 

 

62. Chú giải của William Barclay.

 

THỊT VÀ MÁU NGÀI (Ga 6,51-59)

Đối với phần đông chúng ta, đây là một đoạn khó hiểu. Đoạn này được trình bày phát biểu bằng một ngôn ngữ và chuyển động trong một thế giới tư tưởng hoàn toàn xa lạ với chúng ta, có thể là quái dị và thô kệch nữa. Nhưng chúng ta phải nhớ điều này, với thế giới thời cổ, nó vốn vận hành giữa những tư tưởng quen thuộc, những ý niệm có từ thời ấu trĩ của loài người.

Các ý niệm trong đoạn sách này vốn hoàn toàn bình thường đối với bất cứ ai đã quen với việc dâng tế lễ đời xưa. Ngày xưa, khi dùng sinh tế, lễ vật ít khi được thiêu hủy trọn vẹn, thường chỉ thiêu một phần tượng trưng nơi bàn thờ, tuy toàn thể con vật được dâng lên cho vị thần. Một phần thịt được chia cho các thầy tế lễ kể như thù lao cho họ, một phần khác được chia cho người dâng lễ vật để người ấy tổ chức bữa tiệc thiết đãi bạn bè mình ngay trong khuôn viên Đền Thờ. Trong bữa tiệc ấy, vị thần cũng được xem như một vị khách. Hơn nữa, khi thịt đã dâng cho thần rồi, người ta nghĩ thần đã nhập vào đó, cho nên khi người ta ăn thịt ấy, là ăn vị thần của mình. Sau khi dự một bữa tiệc như thế, họ tin rằng họ đã được tràn trề vị thần ấy. Họ hoàn toàn tin từ lúc ấy, trong người họ có sức sống sinh động của vị thần. Ta có thể nghĩ đó là thờ ngẫu tượng, là ảo tưởng viễn vông, nhưng với một số người khác thì đoạn sách này chẳng có gì khó hiểu cả.

Hơn nữa trong thế giới thời ấy, có thứ tôn giáo sống động, đó là các tôn giáo thần bí. Một điều đáng nói mà các tôn giáo thần bí ấy cung ứng được, là sự thông hiệp và ngay đến sự đồng hóa với vị thần nào đó. Cách thức thực hiện việc đó như sau. Tất cả các tôn giáo thần bí chủ yếu đều là những vở kịch đam mê. Có nhiều chuyện kể về một vài vị thần đã sống và chịu đau khổ khủng khiếp, đã chết rồi sống lại. Câu chuyện được dựng lên thành một vở kích cảm động, nhưng trước khi xem vở kịch ấy, người nhập giáo phải trải qua một lớp tập huấn lâu dài về ý nghĩa tiềm ẩn sau câu chuyện. Người ấy phải trải qua đủ thứ lễ nghi thanh tẩy, phải qua một thời gian dài kiêng cữ mọi liên hệ tính dục. Khi vở kịch về đam mê được trình diễn thì mọi sự đều được dàn xếp nhằm tạo bầu không khí dễ gây cảm xúc cao độ, người ta tính toán rất kỹ mức độ ánh sáng, có mùi hương trầm kích thích, có nhạc kích động, có kinh kệ kỳ bí, mọi sự đều nhằm tạo cho người mới nhập giáo một cảm xúc và khát vọng cao độ mà người ấy chưa từng biết trước đó. Nếu muốn, chúng ta có thể gọi là ảo giác, là sự kết hợp giữa thôi miên với tự kỷ ám thị – thái độ sẵn sàng chờ đợi một cái gì xảy ra. Và điều xảy ra đó là được đồng hóa với vị thần. Khi người mới nhập giáo được chuẩn bị sẵn sàng xem diễn kịch, thì người ấy trở thành một với vị thần. Người ấy chia sẻ những âu lo, đau khổ, sự chết và sống lại. Người ấy với vị thần vĩnh viễn trở thành một, do đó, người ấy sẽ được an toàn khi còn sống và lúc đã chết.

Có một số câu nói và kinh cầu nguyện của các tôn giáo thần bí nghe thật hay. Trong huyền thoại về Mithra, người mới nhập giáo cầu nguyện rằng: “Xin hãy ở với linh hồn tôi, xin đừng bỏ tôi, để tôi bắt đầu được sống với thần linh và thân linh sẽ cứ ở mãi trong tôi”. Trong huyền thoại về Hermes, người mới theo đạo nói: “Tôi biết thần Hermes, và Ngài biết tôi, tôi là Ngài, và Ngài là tôi”. Cũng trong huyền thoại đó, có một bài cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa Hermes, xin hãy đến trong tôi, như những con trẻ đến với lòng các bà mẹ vậy”. Trong huyền thoại về Iris, người thờ phượng nói: “Thần Orisis thật sự sống mãi thế nào, thì nguyện mọi kẻ thờ phượng Ngài cũng được sống thể ấy. Thần Orisis quả thật là không hề chết thể nào, nguyện người theo Ngài cũng sẽ không chết nữa”.

Chúng ta cần nhớ rằng những người thời cổ biết rõ mọi sự về sự phấn đấu, chờ đợi, mơ ước được đồng hóa với thần của họ, được phúc nhận vị thần ngự trong mình và nghe được vị thần mình. Họ không hề đọc những câu như “ăn thịt và uống máu Chúa Kitô” theo nghĩa đen một cách sống sượng và đáng sợ. Họ đã biết ít nhiều về kinh nghiệm kết hợp không thể mô tả được, một sự kết hợp mật thiết hơn bất cứ sự kết hợp nào trên thế gian. Đó là loại ngôn ngữ mà người thời cổ hiểu được, và chính chúng ta cũng hiểu được.

Cũng cần nhớ ở đây Gioan lại làm điều ông vẫn làm. Ông không cố gắng đưa nguyên văn lời Chúa Giêsu đã nói. Bảy mươi năm suy nghĩ về những gì Chúa Giêsu đã nói và bây giờ, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, ông đưa ra ý nghĩa bên trong lời ấy. Ông không kể lại từng chữ từng tiếng, vì nếu thế, chỉ là công việc của trí nhớ. Nhưng ông kể lại phần ý nghĩa cốt lõi của những lời ấy, tức là phần bởi Thánh Thần soi sáng.

Bây giờ chúng ta tìm xem Chúa Giêsu muốn nói điều gì, và Gioan hiểu thế nào từ những lời lẽ ấy như thế. Có hai cách để khảo sát đoạn này.

Có thể hiểu theo một ý nghĩa hết sức tổng quát, Chúa Giêsu nói về việc ăn thịt và uống máu Ngài. Thịt của Chúa Giêsu là nhân tính trọn vẹn đầy đủ của Ngài. Trong thư 1 Ga, đúng là tác giả đã phẫn nộ khi viết “Phàm Thần Khí nào tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì Thần Khí đó là bởi Thiên Chúa, còn Thần Khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu thì chẳng phải bởi Thiên Chúa” (1Ga 4,2-3). Thật vậy, Thần Khí nào phủ nhận Đức Giêsu lấy xác phàm mà đến là thần của Antichrist. Gioan muốn nhấn mạnh là chúng ta phải bám lấy, không bao giờ buông rơi phần nhân tính trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa vốn có thịt xương giống như chúng ta. Điều ấy có nghĩa là gì? Như chúng ta đã thấy, Chúa Giêsu là tâm trí của Thiên Chúa trở thành con người. Có nghĩa là nơi Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa mặc lấy sự sống như con người đối diện với hoàn cảnh con người, phấn đấu với các vấn đề của loài người, tranh chiến với những cám dỗ của con người, giải quyết các mối liên hệ giữa loài người chúng ta.

Dường như Chúa Giêsu đã nói: “Hãy lấy tư tưởng về nhân tính của Ta mà nuôi dưỡng tâm trí linh hồn các ngươi. Khi các ngươi chán nản hay thất vọng, quá mệt mỏi với đời sống mà ngã quỵ, chán đời và chán sống thì hãy nhớ Ta đã từng lấy đời sống các ngươi với tất cả những nỗi gian nan mà khoác vào mình Ta”. Như thế đời sống và thân xác sẽ mặc lấy vinh quang vì đã được Thiên Chúa chạm đến. Chúa Giêsu đã thần hóa thân xác chúng ta bằng cách mặc nó lên chính Ngài, đó là niềm tin quan trọng của các học giả Kitô giáo chính thống Hy Lạp. Ăn thịt Chúa Kitô là nuôi dưỡng tư tưởng bằng nhân tính Ngài, cho đến chừng nào nhân tính của bạn được tăng cường, được tẩy sạch để trở thành thuần khiết và được Ngài chiếu sáng cho.

Chúa Giêsu dạy chúng ta uống máu Ngài. Tư tưởng Do Thái cho rằng máu tiêu biểu cho sự sống. Thật dễ hiểu tại sao Ngài bảo vậy. Một vết thương làm máu chảy ra tức là sự sống bị giảm đi. Với người Do Thái máu thuộc về Thiên Chúa. Đó là lý do cho đến ngày nay, người Do Thái chẳng bao giờ ăn một con vật còn máu bên trong. “Song các ngươi không nên ăn thịt còn hồn sống nghĩa là có máu” (St 9,4). “Các ngươi chớ ăn máu nó, phải đổ máu trên đất như vậy” (Đnl 15,23). Bây giờ chúng ta mới hiểu điều Chúa Giêsu dạy bảo: “Các ngươi phải uống máu Ta, phải nhận lấy sự sống của Ta là sự sống Thiên Chúa”. Khi Chúa Giêsu phán dạy phải uống máu Ngài, là Ngài dạy chúng ta phải nhận láy sự sống của Ngài vào trong mình.

Như thế có nghĩa gì? Xin minh họa như sau: Đây là tủ sách của tôi, trong đó có một cuốn sách mà tôi chưa hề đọc. Dù cho quyển sách có quý và bổ ích đến thế nào, mà nếu tôi không đọc đến nó thì nó vẫn ở ngoài tôi. Nhưng một ngày kia, tôi lấy nó ra đọc, tôi cảm thấy hồi hộp, lôi cuốn và rung cảm. Câu chuyện đó thôi thúc tôi, những dòng chữ quan trọng được ghi khắc vào tâm trí tôi. Bây giờ lúc cần, tôi có thể lấy những điều kỳ diệu đó từ bên trong, hồi tưởng lại, suy gẫm nó, bồi dưỡng tâm trí mình. Trước kia, cuốn sách vốn ở ngoài tôi, nằm trên kệ sách. Bây giờ, nó thâm nhập vào tôi, tôi có thể lấy nó để nuôi mình. Những kinh nghiệm từng trải trong đời cũng vậy. Chúng vẫn ở ngoài ta cho đến khi chúng ta nhận lấy cho riêng mình.

Với Chúa Giêsu cũng vậy. Bao lâu Ngài còn là một nhân vật trong sách, thì Ngài vẫn ở ngoài ta, nhưng một khi Ngài đã vào lòng chúng ta, thì Ngài ở trong chúng ta, chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống, sức mạnh và sự sinh động do Ngài ban. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải uống máu của Ngài. Ngài phán: “Các ngươi phải lãnh nhận sự sống của Ta, đưa vào bên trong các ngươi. Phải thôi nghĩ về Ta như một nhân vật trong sách hay một đề tài thảo luận thần học, mà phải nhận lấy Ta vào trong các ngươi, và các ngươi vào trong Ta, lúc ấy, các ngươi sẽ có sự sống và đó là sự sống thật”. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói khi Ngài đề cập đến việc chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta ăn thịt và uống máu Ngài, là dạy chúng ta hãy nhận lấy nhân tính của Ngài để nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn ta, hãy bồi dưỡng đời sống mình bằng sự sống của Ngài cho đến khi chúng ta được thấm nhuần, tràn ngập, đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa.

2. Nhưng Gioan còn muốn nói nhiều hơn, Gioan cũng nghĩ đến Bữa Ăn Tối của Chúa, là Tiệc Thánh. Chúa Giêsu phán: “Nếu các ngươi muốn có sự sống, hãy đến ngồi vào bàn ăn để ăn miếng bánh đã bị bẻ ra, uống chén rượu đã được đổ ra, để bởi ân huệ của Thiên Chúa, các ngươi được tiếp xúc với tình yêu và sự sống của Chúa Giêsu cách sống động”. Gioan nói với mọi người: “Các bạn không thể có được đầy dẫy diệu kỳ của đời sống Kitô hữu, trừ phi các bạn đến ngồi vào bàn tiệc yêu thương này”. Nhưng Gioan không hề kể lại câu chuyện về Bữa Ăn Tối cuối cùng, đây là điều vô cùng lạ lùng trong quan điểm của ông. Ông đưa ra lời giáo huấn về Tiệc Thánh, không phải trong phần tường thuật câu chuyện ở phòng cao, mà trong câu chuyện một bữa ăn ngoài trời trên sườn đồi gần Bétxaiđa Guilia, bên bờ hồ Galilê xanh biếc.

Chúng ta không có gì nghi ngờ về những điều Gioan muốn nói. Ông muốn nói với Kitô hữu chân chính điều này, là mỗi bữa ăn đều trở thành Thánh Lễ. Có thể nói không quá đáng rằng một số người đã lạm dụng Thánh Lễ trong Hội Thánh, khiến nó trở thành một thứ bùa phép ma thuật, hoặc ngụ ý rằng Tiệc Thánh là nơi duy nhất chúng ta có thể đến gần Chúa Kitô Phục Sinh. Gioan thật tình chủ trương mỗi bữa ăn, dù là trong gia đình hèn hạ nhất hay trong cung điện cao sang, dưới bầu trời với bãi cỏ xanh làm thảm, cũng đều là một Tiệc Thánh. Gioan không giới hạn sự hiện diện của Chúa Kitô trong khung cảnh giáo đường hay một buổi lễ có kinh kệ theo đúng nghi thức. Ông nói: “Trong bất cứ bữa ăn nào, các bạn cũng lại thấy bánh chỉ về nhân tính của Thầy, rượu nho chỉ về máu vốn là sự sống”. Trong tư tưởng của Gioan, tại bàn ăn qua loa ngoài bờ biển hay trên sườn đồi, tất cả đều giống nhau ở chỗ, trong tất cả các bữa ăn đó chúng ta đều có thể nếm, chạm đến và cầm lấy bánh với rượu nho đem chúng ta đến gần Chúa Kitô. Kitô giáo sẽ thật nghèo nàn, nếu Chúa Kitô bị giới hạn trong các nhà thờ. Gioan tin rằng chúng ta có thể tìm gặp Chúa Kitô bất cứ ở đâu, vì trong thế giới có sự hiện diện của Ngài khắp nơi. Không phải ông làm giảm giá trị Tiệc Thánh, nhưng ông mở rộng ra để chúng ta có thể tìm gặp Chúa Kitô tại bàn Tiệc Thánh trong nhà thờ, rồi đi ra để cùng gặp Ngài ở bất cứ nơi nào mà con người họp lại để vui hưởng các ân huệ của Ngài.

 

 

 

 

 

63. Thánh Thể đổi mới và ban sự sống đời đời

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

 

HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều, tại hội đường thành Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đã giảng về Bánh Hằng Sống là Bí tích Thánh Thể. Nội dung bài giảng được tóm lược như sau: Ai ăn Thịt và uống Máu Người, tức là lãnh nhận Bí tích Thánh Thể mà Người sẽ lập, thì ở đời này, được kết hiệp mật thiết với Người, được tham phần vào sự sống thần linh của Người, và ngày tận thế, sẽ được sống lại hưởng hạnh phúc muôn đời.

CHÚ THÍCH:

– C 51: + Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…: Đức Giêsu tự xưng là tấm Bánh với hai đặc tính thần linh là “hằng sống” và “từ trời xuống”. + Bánh Tôi sẽ ban tặng: Sẽ ban là chưa ban ngay lúc này, nhưng sẽ ban khi lập Bí tích Thánh Thể vào bữa Tiệc Ly sau này (x. Mt 26,26-28). + Chính là Thịt Tôi đây: Thịt (Sarx) trong ngôn ngữ Hy-Lạp ám chỉ con người toàn diện gồm cả xác lẫn hồn. Thịt ở đây cũng chính là Thịt (Sarx) trong câu: “Ngôi Lời đã hóa thành “nhục thể” – hay là “Thịt” (Sarx) hoặc “người phàm” (Sarx) – và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Ở đây, “Bánh” được liên kết với “Thịt” và với “Sự Sống”, là hai đặc tính của Bí tích Thánh Thể. + Cho thế gian được sống: Thịt của Đức Giêsu tức là bánh Thánh Thể, là lương thực thần linh, sẽ đem lại hiệu quả là ban sự sống cho người lãnh nhận.

– C 52-53: + Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được?: Dân chúng Do Thái nghe Đức Giêsu giảng và đã hiểu đúng ý của Người. Đó là Người cho người ta ăn chính Thịt của Người. Họ thắc mắc và phản đối Đức Giêsu vì nghĩ rằng Người đã hóa điên khùng nên mới ăn nói bừa bãi như vậy. + Thật, Tôi bảo thật các ông: Trước sự thắc mắc về việc cho người ta ăn Thịt của mình, Đức Giêsu đã không làm dịu kiểu nói này lại và cũng không cải chính để tránh cho họ hiểu sai ý mình, nhưng Người lại tiếp tục xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình: Đây là cách diễn tả khác nhằm nhấn mạnh sự thật này: người ta chỉ có sự sống của Chúa nơi bản thân khi lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, tức là ăn Thịt và uống Máu của Người.

– C 54-56: + Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết: Kẻ lãnh nhận Thịt Máu Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể sẽ được tham phần vào sự sống đời đời và được Đức Giêsu cho sống lại vào ngày tận thế. + Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống: Trong bốn câu liền (c. 53.54.55.56), Tin Mừng Gio-an dùng cặp từ: Thịt (Sarx) và Máu (Haima) để chỉ con người toàn diện của Đức Giêsu. + Thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy: Hiệu quả của việc lãnh Bí tích Thánh Thể là người ta được kết hiệp thân mật với Chúa Giêsu. Nghĩa là được “ở lại” trong Người, đón nhận sự sống dồi dào của Người và trở thành bạn tâm giao của Người, như thánh Phao-lô đã viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).

– C 57-59: + Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy: Đức Giêsu nói đến sự sống siêu nhiên nhờ Bí tích Thánh Thể. Ai ăn Bánh Thánh Thể thì sẽ được tham phần vào sự sống siêu nhiên phát xuất từ nơi Chúa Cha thông qua Chúa Giêsu. + Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời: Sự sống siêu nhiên mà Bánh Thánh Thể ban cho người lãnh nhận, khác với sự sống tự nhiên thể xác do bánh Man-na mang lại. Vì thế mà dân Ít-ra-en xưa, dù đã ăn Man-na trong sa mạc nhưng vẫn bị chết do tội đã phạm. Còn ai ăn Bánh do Chúa Giêsu ban trong Bí tích Thánh Thể thì sẽ được sống đời đời, nhờ đón nhận được sự sống siêu nhiên của Người.

CÂU HỎI:

1) Bánh Thánh do Đức Giêsu hứa ban, có hai đặc tính thần thiêng nào?

2) Bánh đó sẽ được ban khi nào và là Bánh gì?

3) Từ Thịt (Sarx) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là gì?

4) Khi Đức Giêsu giảng sẽ ban Bánh Hằng Sống là Thịt của Người trong Bí tích Thánh Thể, người Do Thái đã hiểu như thế nào? Họ có hiểu đúng ý Người muốn nói hay không? Tại sao?

5) Khi thấy họ phản đối, Đức Giêsu không những không sửa lại điều vừa nói hay nói nhẹ bớt đi, mà Người lại càng nhấn mạnh thêm qua câu nói nào?

6) Ai ăn Thịt uống Máu Đức Giêsu trong BT Thánh Thể sẽ nhận được hiệu quả nào?

7) Trong 4 câu liền (câu 53.54.55.56), Đức Giêsu dùng hai từ Thịt và Máu ám chỉ điều gì?

8) Câu nào cho thấy hiệu quả của việc ăn Thịt uống Máu Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể? Thánh Phao-lô viết về sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua câu nào?

9) Sự sống siêu nhiên nhận được do Bí tích Thánh Thể là sự sống nào?

10) Sự sống siêu nhiên nhận được từ Bánh Thánh Thể thời Tân Ước với sự sống tự nhiên từ Man-na thời Cựu Ứớc, khác nhau thế nào?

SỐNG LỜI CHÚA

LỜI CHÚA: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt Tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).

CÂU CHUYỆN: Mẹ chịu chết cho con được sống

Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh quốc có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc Châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ góa chồng, mang theo một đứa con thơ còn đang bú sữa mẹ. Sau khi khởi hành được một tuần, thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột buồm bị gãy. Từ đó, con thuyền bị lênh đênh trên mặt biển trong nhiều ngày. Lương thực trên thuyền dần dần cạn kiệt. Nhiều người đã bị chết đói và bị thủy thủ quăng xuống biển. Vào một buổi sáng, người ta phát hiện ra bà mẹ trẻ kia cũng bị chết đói, đang khi đứa con bên cạnh vẫn đang sống. Thì ra bà này trước khi chết đã dùng dao cứa đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay cho sữa mẹ. Bà đã hy sinh chết để cho con bà được sống! Về sau đứa trẻ kia lớn lên đã trở thành một vị dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ đến công ơn trời biển của người mẹ đã hy sinh lấy máu mình nuôi ông khỏi chết. Rồi một hôm, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội kể lại câu chuyện thời thơ ấu của mình, và đề nghị quốc hội chọn một ngày trong năm để tôn vinh các bà mẹ, nhắc nhở con cái bổn phận hiếu thảo với các bà mẹ của mình. Đó là nguồn gốc ngày Quốc Tế Các Bà Mẹ hiện nay.

SUY NIỆM:

Câu chuyện bà mẹ nuôi con bằng dòng máu của mình, là hình ảnh tuyệt hảo nói lên tình thương của Đức Giêsu khi lập Bí tích Thánh Thể để tự hiến mình trở nên Bánh thiêng nuôi dưỡng và abn sự sống đời đời cho chúng ta. Vậy Bánh Thánh Thể là gì?

+ Sứ mệnh của bánh: Bánh là lương thực có thể ăn được và giúp người ta duy trì sự sống (Ga 6,51). Bánh không sống cho mình, mà luôn sống “vì và cho” con người. Đức Giêsu tự xưng mình là Bánh, vì Người đã tự hủy mình, hy sinh bản thân để cho loài người được sống. Chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng hy sinh bản thân để cho tha nhân được sống thì bấy giờ ta mới trở thành tấm bánh giống Bánh Thánh Thể của Đức Giêsu.

+ Ăn Bánh Thánh Thể là đón nhận Đức Giêsu: Đức Giêsu nói: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57). Khi lên rước lễ, là chúng ta được sống nhờ, sống trong và sống cho Đức Giêsu, như cành nho chỉ sống nhờ hút được nhựa sống từ thân cây chuyển sang (x. Ga 15,5).

+ Đức Giêsu là tấm bánh để người ta ăn: Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã nhìn và thờ lạy Bánh Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Tin Mừng hôm nay, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu là: hãy siêng năng tham dự bữa tiệc Thánh Thể do Người khoản đãi, với hai của ăn là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.

+ Phải ăn bánh Thánh Thể thế nào?: Để việc rước lễ mang lại lợi ích thiêng liêng, thì người rước lễ cần được chuẩn bị trước, và phải đối thoại thân tình với Chúa Thánh Thể sau khi rước Người. Cần tránh rước lễ như một thói quen hay do vị nể, rước lễ để làm vui lòng người khác, nên thiếu chuẩn bị và không thưa chuyện với Chúa sau khi rước lễ. Ngày nay tuy các tín hữu đã lên rước lễ nhiều hơn, nhưng phần đông lại rước Mình Thánh Chúa cách hờ hững: Thiếu tâm tình mến Chúa, bỏ phút thinh lặng thánh sau rước lễ, ra về sớm để tiện lấy xe và lo việc làm ăn, hay đi dự liên hoan với bạn bè… Vì thế việc rước lễ đã trở thành một lễ nghi hình thức: Là lên đón nhận một tấm Bánh Thánh, thay vì lên gặp gỡ Chúa Thánh Thể. Quả thật, ít có vị khách quí nào lại bị chủ nhà tiếp đón cách lạnh nhạt như Chúa Giêsu Thánh Thể! Do đó, dù năng dự lễ rước lễ hằng ngày, nhưng nhiều người vẫn không gặp được Chúa Giêsu, không được ơn biến đổi, nên vẫn sống vô cảm, ích kỷ, tự mãn, lười biếng và vô trách nhiệm… như nhiều năm về trước!

THẢO LUẬN:

1) Khi dự lễ, chúng ta phải làm gì trong phần Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể để được Lời Chúa giáo huấn và nhận được dồi dào hồng ân Chúa ban?

2) Chúng ta phải làm gì trước và sau khi rước lễ để có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và được ơn đổi mới, hầu sau này được sự sống đời đời?

NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu.

Con cảm thấy có sự tương tự giữa thân phận làm Bánh của Chúa với thân phận làm người của con. Nhờ ăn Bánh Thánh Thể của Chúa, con sẽ được biến hóa nên tấm bánh thơm ngon, được bẻ ra để phục vụ tha nhân.

Ước gì con dám đón Chúa vào vùng mờ tối của lòng con, để sự hiện diện của Chúa làm cho lòng con được bừng sáng ngọn lửa tin yêu.

Ưốc gì sau khi đón nhận Chúa vào lòng, con sẽ trở thành Nhà Tạm di động, mang Chúa là Tình Yêu đi chia sẻ cho những người chung quanh, để họ cũng được hưởng hạnh phúc đời đời với con.

Hiệp cùng Mẹ Maria.

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

home Mục lục Lưu trữ