Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1367642

NGƯỜI GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA

NGƯỜI GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Đây là một cảnh sống động. Một người đầy ham muốn: Người ấy chạy đến và sụp quỳ dưới chân Đức Giêsu, vừa thở hổn hển, người ấy vừa đặt câu hỏi.

Khi ta biết người này là ai (nhờ đoạn tiếp sau của trình thuật ta sẽ ngạc nhiên, vì đây là một người có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường: Anh ta giàu sang, có nhiều “của cải lớn”, hơn nữa, cuộc sống anh ta ngay thẳng, anh tuân giữ những giới răn từ thuở còn nhỏ. Trong mọi tương quan với người khác. Chắc hẳn anh ta được kính nể. Vậy anh ta còn thiếu điều gì? Anh ta còn cần gì nữa? Tại sao anh ta lại mong ước điều gì khác?

Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”.

Đó là câu trả lời sắc bén như dao. Con người giàu có này đã quen với những “tước vị”. Vì quá hâm mộ, anh ta nói thêm. Thường thường người ta chỉ gọi Đức Giêsu bằng “Thầy”, còn anh ta quen giao thiệp rộng nên đã thêm từ “nhân lành”. Đức Giêsu không thích những kiểu nói tâng bốc đó. Người thích sự đơn giản hơn, Người khước từ những tước vị mang tính khoe khoang. Hơn nữa, Đức Giêsu là Người luôn nói về Thiên Chúa. Người luôn hướng về Chúa. Ở đây chúng ta nghe người thốt lên một lời dễ gây ngạc nhiên: Dường như Đức Giêsu không biết Người là Thiên Chúa! Người khước từ chữ “nhân lành”. Đây không phải là trường hợp – duy nhất mà Đức Giêsu khiêm tốn tự cho mình là “thấp kém” hơn Chúa Cha, hơn Thiên Chúa: Một hôm khác người còn dám quả quyết, Người “không biết ngày chung thẩm, mà chỉ có mình Chúa Cha mới biết” (Mc 13,32).

Đức Giêsu nói chỉ có một mình Thiên Chúa mà thôi. Tôi cầu nguyện từ lời quả quyết triệt để này.

“Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”.

Danh sách và thứ tự các giới răn làm cho ta ngạc nhiên. Trước tiên, Đức Giêsu không nêu những giới răn “đối với Thiên Chúa” như là giới răn đầu tiên. Hình như qua tình yêu tha nhân, ta chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa. Thông thường tự nhiên ta dễ nghĩ đến những “bổn phận” về tôn giáo hơn, để đạt đến sự sống đời đời. Một lần nữa, Đức Giêsu hướng chúng ta thiết thân gắn bó với những người anh em của mình, với những mối tương quan nhân bản.

Hơn nữa, Đức Giêsu đã thêm một điều răn mới rất ý nghĩa vào mười giới răn cố hữu: “Chớ làm thiệt hại ai” như thể điều răn này tóm tắt các điều khác. Chúng ta cũng nên để ý rằng, “bổn phận đối với cha mẹ” được kể cuối cùng. “Điều răn thứ bốn” được đời ra sau chót, như Đức Giêsu đã muốn đặt lên hàng đầu những cám dỗ đối với người có tiền của: Lấy của kẻ khác, làm thiệt hại kẻ khác, làm giàu cách bất chính…

Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.

Quả thật đây là một người ngay thẳng, có hướng tâm.

Anh ta tuân giữ lề luật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Người ta tưởng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây. Đây là một người có quyền hưởng sự sống đời đời! Chúng ta hãy nghe đoạn sau.

Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.

Đó là cái nhìn của Đức Giêsu. Tôi cố tưởng tượng lại: Một cái nhìn đầy thương yêu. Đức Giêsu tỏ vẻ trìu mến. Người đang yêu thương. Người cảm động.

Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.”

Vậy sống lương thiện và tuân giữ mọi giới răn cũng chưa đủ sao?

Ta tưởng rằng con người này trung thành không có gì chê trách được, thế mà bây giờ lại gặp một đòi hỏi mới, sẽ rọi chiếu vào tận đáy lòng anh: Anh có tự do không hay chỉ là nô lệ? Thái độ của anh đứng trước tiền bạc của cải vật chất như thế nào?

Thật lạ lùng và đáng ngạc nhiên khi ta liên tục gặp thấy đòi hỏi trên đây của Đức Giêsu. Người không ngớt nhắc lại điều này. Đó là lời kêu gọi đầu tiên của Người: “Hãy theo Ta”, tức khắc họ bỏ lưới và cha của mình dưới thuyền… (Mc 1,18-19). Đó cũng là chỉ thị đầu tiên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người sai các ông đi thi hành sứ vụ,Người truyền cho họ không được đem gì đi đường, không bánh, không bị, không tiền trong thắt lưng! (Mc 6,8).

Đó còn là hệ luận đầu tiên phải rút ra từ lời loan báo cuộc thương khó của Chúa: “Kẻ nào muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình” (Mc 8,34). Đức Giêsu đã không bao giờ nói khác Người có những ý nghĩ theo nhau rõ ràng. Người yêu cầu một sự lựa chọn dứt khoát. Người đòi hỏi “trọn vẹn”. Muốn theo Người, phải bỏ tất cả. Đây là một đòi hỏi vô biên. Tin Mừng không phải là một cách giải quyết dễ dàng cho mọi vấn đề, mà là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, đầy nguy cơ liều lĩnh tối đa. Thật là một tham vọng quá lớn.

Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải

Đây là một người cũng giống chúng ta thôi. Chúng ta chớ nên lên án anh ta. Chúng ta cũng không thường mong muốn nếp sống hoàn hảo và sự sống đời đời sao?

Thế mà lại không nhất quyết trả giá cho những điều đó Trình thuật về ơn gọi lúc này, nhắc chúng ta rằng chính chúng ta cũng đã từng khước từ những lời mời gọi của Thiên Chúa tới hưởng nguồn vui, mặc dầu bề ngoài chúng ta phải dứt bỏ nhiều thứ sự “buồn bã” của người này rất có ý nghĩa: Anh ta có nhiều tiền, có nhiều của cải lớn, và với sự sung túc này anh ta vẫn không được hạnh phúc. Đó không phải là hình ảnh của phương Tây quá tràn đầy của cải vật chất sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn, và hãy can đảm nhìn nỗi đau buồn đang làm tối sắm khuôn mặt của anh. Đấy phải chăng là dấu hiệu hồng ân đầu tiên đã bắt đầu đến với anh sao? Cho đến lúc đó, anh không ý thức được điều cốt yếu mà anh còn thiếu. Anh vẫn tưởng rằng, của cải là đủ. Bây giờ anh mới biết, anh còn có một định mệnh khác.

Lạy Chúa xin biến những nỗi buồn của chúng con trở nên tích cực, có thể đánh thức chúng con ra khỏi không ảo ảnh và ngủ mê. Chúng con đã được tạo dựng cho Chúa. Tâm hồn chúng con, ước muốn của chúng con quá cao không thể chỉ thỏa mãn những của cải hữu hạn trần gian: “Lạy Chúa, xin hãy đến, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng con được no thỏa”.

Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ

Một lần nữa, Thánh sử Máccô ghi nhận ánh mắt của Đức Giêsu. Chúa nhìn tôi. Chúa nhìn những người mà tôi thương yêu. Chúa nhìn thế giới của chúng ta. Chúa nhìn những đám đông ở những siêu thị. Chúa nhìn dân chúng trong những nước thuộc thế giới thứ ba. Và cái nhìn này không thể lãnh đạm Người bắt đầu nói:

Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!

Một lần nữa Đức Giêsu tố cáo quyền lực ghê gớm của tiền tài. Đây là một sự cảnh giác thường xuyên trong suốt thời gian rao giảng của Đức Giêsu: “Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và Mammon cùng một lúc” (Lc 16, 13).

Người giàu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần gì đến Thiên Chúa nữa (Lc 12,16-20). Người giàu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy người anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giàu sang bóp nghẹt Lời Chúa (Mt 13,22).

Một lần nữa, chúng ta không nên lên án kẻ khác. Hãy nhận mình cũng là những người giàu: Số tiền trợ cấp thất nghiệp của một người Pháp là cả một sản nghiệp đối với một người châu Phi hay châu Á.

Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ.

Sự kinh ngạc của những môn đệ không phải là không có ý nghĩa. Tâm trạng người Do Thái đinh ninh rằng, sự giàu sang là một ân huệ của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế gian này, nhằm xây dựng và làm cho thế gian thêm giá trị sao? (St 1,27-31). Nhưng phải thú nhận rằng, chính chúng ta cũng không chấp nhận lời này của Chúa Kitô. Thế kỷ 20 càng sẵn sàng hơn để đón nhận luân lý cách mạng sau đây:

– Phải chăng chúng ta làm việc để “kiếm tiền”, càng nhiều càng tốt.

– Phải chăng chúng ta mong cho con cái chúng ta làm một nghề “có nhiều tiền”.

– Phải chăng hàng ngày chúng ta thường bị sự quảng cáo tấn công, thúc đẩy chúng ta tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và ám chỉ rằng, càng có nhiều, càng hạnh phúc.

Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”

Thay vì rút lại sự cứng rắn trong lời vừa nói, Đức Giêsu lại tăng cường một hình ảnh không thể quên được. Đức Giêsu nhà thuyết giảng nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh và dễ nhớ: Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý. Thực sự, chúng nói lên mạnh mẽ rằng, giữa giàu sang và sự cứu rỗi, luôn có tình trạng xung khắc nhau: Chúng ta phải chọn lựa giữa hai kho tàng này, kho tàng trần gian, kho tàng trên trời. Tiền của là cần thiết. Đức Giêsu không phủ nhận điều đó. Tiền của phục vụ chúng ta, Đức Giêsu đồng ý. Nhưng nếu tiền của thống trị chúng ta, và chúng ta trở nên nô lệ của nó, thì Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi.

Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”

Lại một lần nữa, cái nhìn của Đức Giêsu, được ghi nhận lần thứ ba trong cùng một trang Tin Mừng. Ở đây Đức Giêsu trích một lời trong Thánh Kinh dành cho Abraham (St 15,14). Mặc dầu tuổi cao, không đủ điều kiện thể lý. Bà Xara sẽ sinh ra một con trai, vì tất cả có thể được đối với Thiên Chúa. Thiên Thần Gabriel cũng đã nói điều này với Mẹ Maria (Lc 1,37). Vậy sau khi lên án khắt khe thái độ chiếm hữu của chúng ta, Đức Giêsu đã mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng.

Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, Chúa đòi hỏi điều không thể làm được. Xin hãy đến giải thoát chúng con! Và tay chúng con sẽ mở ra trước Chúa, để đón nhận những gì còn thiếu trong tình thương của chúng con.

(*)  Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- B

NGUY HIỂM CỦA SỰ GIÀU SANG – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1/. Từ ánh mắt Đức Giêsu nhìn người thanh niên giàu có…

Bối cảnh của đoạn Tin Mừng này cũng giống như Chúa nhật trước, đó là cuộc hành trình lên Giêrusalem, đây là dịp hai lần, và còn lần thứ ba nữa, Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Khi Đức Giêsu vừa lên đường có một người chạy đến trước mặt Người. B.Standaert nhận xét: “Cuộc gặp gỡ với người thanh niên giàu có nêu lên một đề tài quan trọng trong giáo huấn đầu tiên của Kitô giáo: vấn đề giàu có. Thánh sử đạo diễn tấn kịch này hết sức cẩn thận. Từng nấc một, ông đã đưa người ta tiên dần đến điểm giới hạn tột cùng: “Như vậy thì ai có thể được cứu: Có thể nói sự giàu có là một vách đá vững chắc mà mỗi khi vỗ vào các đợt sóng cố gắng của con người đành phải vỡ vụn, cho đến khi Thiên Chúa can thiệp: “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (10,27)

– Từ lúc đầu của cuộc gặp gỡ, mọi sự báo trước một kết thúc may mắn:

+ Dáng vội vã của người thanh niên “chạy đến” và “quỳ xuống” trước mặt Đức Giêsu, một cử chỉ trong nghi thức phụng vụ.

+ Thái độ sẵn sàng nội tâm ta có thể cảm nhận được qua câu hỏi anh đặt ra: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Trong câu trả lời của Đức Giêsu, Người đã tự xóa nhòa trước Thiên Chúa duy nhất, khi nói chỉ mình Thiên Chúa mới nhân lành, và dành ưu tiên cho mối tương quan với tha nhân, khi Người hướng dẫn người thanh niên về lề luật Thiên Chúa: “Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ”.

+ Lòng ngay thẳng và trung thực của anh được bộc lộ qua câu trả lời Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi tuân giữ từ thuở nhỏ” J.Potin nhận xét: “Đức Giêsu biết mình gặp được một người Do thái sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và luôn cố gắng tôn trọng tha nhân trong mọi hoàn cảnh. Hẳn người này thuộc hạng người có phẩm chất tốt hơn những người giàu có khác mà Chúa thường gặp” (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 233).

Bấy giờ Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh (lưu ý là trong vài câu thôi mà Máccô đã nói tới ba lần về điểm này) và Người mời anh. Lời mời gọi này là chóp đỉnh và khúc ngoặc quyết định vì cuộc gặp gỡ này.

+ Đức Giêsu “đưa mắt nhìn anh ta” và “đem lòng yêu mến”.

+ Một ánh mắt đầy âu yếm và quí trọng, được diễn tả ngay thành một lời mời gọi tha thiết: “Anh chỉ còn thiếu có 1 điều là hãy bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”.

Đức Giêsu đề nghị dẫn anh đi xa hơn nữa trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, con đường tuy gồ ghề, nhưng chỉ là nối tiếp đường anh đã đi từ thuở nhỏ để được sụ sống đời đời làm gia nghiệp; đó là: từ bỏ của cải để cho người nghèo.

Nhưng điều hoàn toàn mới nằm trong lời mời gọi ở câu kết “Rồi hãy đến theo tôi” Đức Giêsu mời gọi người Do thái trung thực này vượt lên khỏi đức tin của cha ông để gắn bó với Người, là trở nên môn đệ của Người.

“ Nghe lời đó”, cuộc gặp gỡ từ đầu đến đây đã diễn tiến đầy hứa hẹn, bỗng đột ngột chấm dứt: “Người thanh niên sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi”, thánh sử cho ta biết, bởi vì “anh ta có nhiều của cải”.

Trên đường đi theo Đức Giêsu, người thanh niên giàu có này gặp phải một chướng ngại, đó là lòng gắn bó với gia tài sản nghiệp. Của cải như tấm kính mờ đã che lấp ánh sáng, lúc ánh sáng muốn thâm nhập vào lòng anh. “Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi”. Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến anh. Nếu niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng tới Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui to lớn thế nào thì giờ đây, thay vào đó, là một nỗi buồn sâu xa không kém. (Sđd, trang 234).

2/. Đến mắt Chúa nhìn các môn đệ

– Người thanh niên giàu có vừa đi khỏi, Đức Giêsu liền đưa mắt nhìn các môn đệ đang “ở chung quanh Người”.

+ Người tuyên bố: “những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”. Người còn làm cho các môn đệ sững sờ hơn khi nhấn mạnh theo kiểu phương Đông: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.

+ J. Potin giải thích: “Các môn đệ càng cảm thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giàu càng có nhiều thuận lợi. Có tiền thì người giàu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo Luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo. Dường như có một thoả thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giàu. Như vậy, giàu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa đó sao?” (Sđd, trang 234).

Bởi đó mới có câu hỏi: Thế thì ai có thể được cứu rỗi? Nếu người giàu không được cứu rỗi, thì còn ai có thể được? J. Potin giải thích tiếp: “Nếu họ theo sát lối tư duy của đạo truyền thống, những người không thể có đủ tiền mua những lễ vật dồi dào, không mua được những bộ chén dĩa cần thiết để giữ luật lệ sạch sẽ; còn người giàu, họ có thể mà!” (Sđd, trang 235).

+ Nhìn các môn đệ một lần nữa, Đức Giêsu nói thêm: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. Đây là lời tuyên xưng niềm tin cậy đã ghi một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Kitô giáo ngay từ buổi đầu. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Apraham về việc Sara sẽ làm mẹ, dù bà hiếm muộn tuổi già: “Có phép lạ nào mà Chúa không thể thực hiện được?”. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Đức Maria về việc bà Êlisabét sắp sinh con trong lúc tuổi già: “Bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được” đấy sao? Chúng ta không được cứu nhưng việc thực thi các lề luật, hoặc nhờ những của lễ sang quí giá, hay nhờ việc từ bỏ, hy sinh anh hùng; ơn cứu độ là ân huệ cần phải đón nhận, chính Thiên Chúa đưa ta vào Nước Trời, ân sủng cao cả của Người có thể làm nên những việc lạ lùng. Câu nói trên của Đức Giêsu là một lời cổ vũ làm cho cái khó của sứ điệp trước giảm nhẹ đi. Câu chuyện kết thúc khi Phêrô hỏi: “Thầy coi, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy”? Đức Giêsu hé mở cho thấy niềm vui ‘trăm lần’ những gì đã từ bỏ, niềm vui ấy, bất cứ ai đã bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng sẽ cảm nghiệm được ở đời này và đời sau. Nhưng Người cũng không che giấu những cuộc bách hại đang chờ họ. J. Potin kết luận: “Người môn đệ phải tham gia vào việc rao giảng Tin Mừng với Đức Giêsu. Nhưng cũng như Người, giữa niềm vui về những điều thiện hảo của Nước Chúa, họ phải chuẩn bị để chịu đựng những cuộc bách hại. Ngay từ buổi đầu Đức Giêsu đã đào tạo họ theo chiều hướng này! Phạm trù để phán xử đều bị đảo lộn, người giàu mà ta trông thấy đang ở chỗ nhất trong Nước Trời, nay bị đưa xuống chỗ rốt hết. Còn môn đệ và người nghèo được mời lên ngồi vào chỗ nhất, sau khi đã cùng Thầy mình trải qua thử thách của sự bách hại”. (Sđd, trang 235).

BÀI ĐỌC THÊM.

1/. Con đường khó đi

Đức Giêsu lên đường. Ta sẽ biết con đường ấy dẫn đến đâu: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp…”. Ngay lúc ấy, có một người đến tìm Người. Anh ta đi tìm sự sống, sự sống đời đời. Anh ta đã nghiêm túc tìm kiếm bằng con đường tuân giữ các giới răn: “Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Anh ta cảm thấy cần phải tiến xa hơn, nên đến hỏi Chúa: “Tôi phải làm gì?”. Và Đức Giêsu đem lòng yêu mến anh. Người yêu mến sự tìm kiếm và lòng quảng đại của anh. Người chỉ đường cho anh: “Anh chỉ còn thiếu một điều: hãy đi bán những gì anh có…” Nhưng con đường này làm người thanh niên khiếp sợ bởi vì anh ta có nhiều của cải? Con đường này cũng khiến các môn đệ khiếp sợ vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa: “Như vậy thì ai có thể được cứu?” Bấy giờ, Đức Giêsu mời gọi nhìn vào cái vô hình. Người bảo đảm với người thanh niên: “Anh sẽ được kho tàng ở trên trời? Nói với Phêrô, Người hứa ban “gấp trăm lần” và mai sau được sống đời đời. Như Đức Giêsu, số phận của các môn đệ được sắp đặt trên nền tảng của sự vĩnh cửu. Vật đặt cược chính là sự sống đời đời. Và cái khó ở đây là phải ưu tiên cho cái vô hình trước cái hữu hình ta đang có. “Đối với loài người thì không thể được”. Đây là một cuộc Vượt qua của Đức Giêsu. Đức Giêsu sắp hy sinh mạng sống. Người mời gọi ta theo Người, từ bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng. Hy sinh mạng sống vì những điều này cũng đáng lắm, nhưng thực hiện cuộc vượt qua này trong đức tin và không có cái hữu hình lôi cuốn mình là điều không phải dễ. Chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới có thể thực hiện điều đó nơi ta: đối Thiên Chúa mọi sự đều có thể được? Nhưng còn cần ta để cho Người thực hiện.

2/. Bước vào con đường khôn ngoan đích thực, khôn ngoan của Thiên Chúa.

Đức Kitô là Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa nhập thể. Ai đặt tin tưởng vào Đức Kitô, thì từ nay sẽ không theo sự khôn ngoan nào ngoài Lời của Đức Kitô. Thư gởi tín hữu Do Thái dạy ta điều này rất rõ. Đối với người Kitô hữu, Đức Kitô, Lời chân thật của Thiên Chúa trở nên một tiêu chuẩn tối hậu để nhận biết sự khôn ngoan đích thực. Bởi vậy, lời của Đức Giêsu tuy có vẻ điên rồ trong cách suy luận của ta, nhưng vẫn là lời khôn ngoan hơn bất cứ danh ngôn phàm trần nào.

Chính điều đó đã thể hiện trong truyện người thanh niên giàu có theo Tin mừng Máccô. Anh chạy đến Đức Giêsu. Anh đi tìm sự khôn ngoan. Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời? Đức Giêsu nói theo lương tâm đạo đức ngay thẳng của ngươi thời đó, Người nhắc nhở anh về những giới răn của luật Môsê. Nhưng tất cả các giới răn đó anh đã giữ cặn kẽ từ nhỏ. Nếu anh đến tìm Chúa, là vì anh khao khát điều gì khác, điều mà việc tuân giữ các giới răn đã không thoả mãn được.

Đức Giêsu chăm chú nhìn anh. Trước khát vọng của anh, Người ban cho anh một thời mới mẻ. Người mở ra trước mắt anh một con đường, mà dù có trung thành cặn kẽ mấy đi nữa, anh cũng không nghĩ ra. Người đề nghị với anh một điều có vẻ điên rồ trước mắt người đời: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, rồi hãy đến theo Tôi.

Ta chỉ hiểu những lời này qua hệ luỵ chúng gây ra trong cuộc sống của ta thôi. Nào là bỏ tất cả, mất tất cả, bán tất cả, cho tất cả. Nhưng điều quan trọng không ở đó. Điều quan trọng nằm ở phần thứ hai của câu nói: Rồi hãy đến theo Tôi! Theo Đức Giêsu là theo Lời Thiên Chúa, là theo Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là muốn Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa hơn tất cả mọi sự. Chỉ có lòng yêu mến như vậy, tuy không thấy, không nắm bắt được, mới biện minh cho hành vi từ bỏ tất cả mọi sự được. Khốn nỗi, việc mất đi mọi sự che lấp chân trời rộng mở, cản trở ta cảm nghiệm được Sụ Khôn Ngoan đích thực của Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là dám liều mất tất cả. Và đó là điều Chúa đòi hỏi. Bạn có đủ tin tưởng vào Tôi để nghe theo lời tôi khuyên nhủ không? Thực sự, bạn chỉ cảm nghiệm được giá trị của nó sau này thôi! Còn lúc này, bạn có thể tin tôi không, khi tôi nói rằng bạn sẽ được thoả lòng?

Thật ra, Đức Giêsu đặt người thanh niên vào đúng vị trí của ông Apraham. Cha của Người trong đức tin. Người đề nghị với anh hãy tin và hãy tín nhiệm vào Lời vừa đòi hỏi vừa hứa hẹn.

Tin Mừng thuật rằng: người thanh niên bỏ ra về, bởi vì anh có nhiều của cải. Và Tin Mừng cũng nói rõ thêm: Anh sa sầm nét mặt. Niềm vui đã tan biến. Khát vọng chân thật mà người thanh niên bộc lộ lúc ban đầu gặp Chúa, bây giờ tàn lụi, tắt ngấm. Nó không còn có thể làm nẩy sinh niềm vui đến từ lòng khát vọng sống động.

Trình thuật này được viết ra không phải để chúng ta buồn lòng về trường hợp người thanh niên ấy, nhưng để Lời Chúa đánh động tâm hồn ta. Lời Chúa cũng muốn vươn tới khát vọng chân thật của ta, cũng muốn khát dậy đức tin chân thật nơi ta, Người muốn đưa ta vào con đường khôn ngoan chân thật, là Khôn Ngoan của Thiên Chúa

CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- B

SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (*)-  Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B này mời gọi chúng ta suy gẫm về vấn đề vinh hoa phú quý trần thế so sánh với Đức Khôn Ngoan (Bài Đọc I) hay với Lời Chúa (Bài Đọc II) mà Đức Giê-su là hiện thân (Tin Mừng).

Kn 7: 7-11

Bài Đọc I, trích từ sách Khôn Ngoan, ca ngợi giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan, còn quý hơn mọi vinh hoa phú quý trần thế.

Dt 4: 12-13

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, Lời Chúa được gợi lên với tất cả quyền năng của nó: ban sự sống, xét xử, xuyên thấu tận cõi thâm sâu nhất của con người.

Mc 10: 17-30

Tin Mừng Mác-cô thuật lại câu chuyện về một người giàu có. Đức Giê-su đề nghị anh từ bỏ của cải mà theo Ngài, nhưng anh không thể. Đức Giê-su nêu lên vấn đề về sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ.

BÀI ĐỌC I (Kn 7: 7-11)

Một hiền nhân Do thái sinh trưởng ở A-lê-xan-ri-a đã viết sách Khôn Ngoan bằng Hy-ngữ vào khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Để đối lại với mối hiểm nguy của việc Hy lạp hóa đang đe dọa Do thái giáo, tác giả tôn vinh những giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan Kinh Thánh.

Tác phẩm gồm có 19 chương được chia thành ba phần: phần thứ nhất nói về Đức Khôn Ngoan và số phận con người (ch. 1-5), phần thứ hai nói về bản chất và nguồn gốc của Đức Khôn Ngoan (ch. 6-9) và phần thứ ba nói về hành động của Đức Khôn Ngoan trong lịch sử (ch. 10-19). Trong phần thứ hai tác phẩm của mình, bằng hư cấu văn chương, tác giả đặt lời trên môi miệng của vua Sa-lô-môn, vị vua được truyền tụng là người khôn ngoan bậc nhất. Đoạn văn chúng ta đang đọc được trích dẫn từ diễn từ của vua Sa-lô-mon. Vị quân vương vừa mới nhắc nhở rằng ông không khác với những con người khác, ông chia sẻ thân phận phàm nhân như bao nhiêu người khác. Đức Khôn Ngoan mà vua có được không là một đặc sủng tự nhiên được ban cho vua khi trở thành quân vương, nhưng là thiên ân do vua thành tâm cầu nguyện.

1/.Lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn:

“Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết;

tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi” (7: 7)

Việc vua Sa-lô-môn cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan là một sự kiện được truyền thống kể ra trong sách Các Vua quyển thứ nhất (1V 3: 4-14), được nhắc lại trong sách Sử Biên quyển thứ hai (2Sb 1: 1-12). Vua Sa-lô-mon cảm kích vì được kế nghiệp thân phụ của mình là vua Đa-vít khi tuổi đời còn quá trẻ; vì thế, nhà vua còn trẻ người non dạ này cầu xin Đức Chúa ban cho mình những đức tính cần thiết để có thể cai trị dân Chúa chọn, một dân tộc quan trọng như thế.

Tác giả sách Khôn Ngoan trình bày lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn không có trong nguyên bản, nhưng theo cách riêng của mình để đánh động độc giả thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Vua Sa-lô-môn biết rõ chẳng có gì phải tự hào tự phụ vì những gì vua có đều là những ân ban của Thiên Chúa. Vua phó thác sự yếu đuối của mình vào chỉ một mình Thiên Chúa đích thật, Đấng phân phát sự khôn ngoan; thái độ này ngược hẳn với  các bậc quân vương Hy lạp.

2/.Lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan:

Vua Sa-lô-môn công bố lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan của mình. Bản văn nhắc lại câu trả lời của Đức Chúa cho vị vua trẻ theo 1V 3: 11, được tô điểm bằng những chủ đề truyền thống minh triết.

“Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng

còn hơn cả vương trượng, ngai vàng.

Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan” (7:8).

Nói như thế, không có nghĩa vua Sa-lô-môn đã muốn từ chối ngai vàng của vua Đa-vít, nhưng vì Đức Khôn Ngoan đưa ông lên hàng vương đế. Tác giả đã khai triển chủ đề nầy ở trên khi để cho vua Sa-lô-môn ngỏ lời với các bậc đế vương:

“Như vậy, chính lòng khao khát Đức Khôn Ngoan

đưa chúng ta lên hàng vương giả.

Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các dân,

nếu chư vị quý chuộng ngai báu và vương trượng,

thì hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan,

để chư vị được trị vì mãi mãi ” (Kn 6: 20-21).

Câu 9 là di sản chung mà chúng ta gặp lại trong sách Châm Ngôn (Cn 3: 15; 8: 11), sách Huấn Ca, vân vân, chưa nói đến các Thánh Vịnh.

“Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khỏe và sắc đẹp,

đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng,

vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi” (7: 10).

Với lời nầy, vua Sa-lô-môn nhắc nhớ rằng ông đã không cầu xin Thiên Chúa một cuộc sống trường thọ hay sự giàu sang phú quý, nhưng chỉ xin cho mình được khôn ngoan.

3/.Thành quả của lời nguyện xin:

Trong sách Các Vua, Đức Chúa ca ngợi lời nguyện xin của vua Sa-lô-môn. Để tưởng thưởng cho vua, Đức Chúa ban cho ông không chỉ Đức Khôn Ngoan, nhưng còn mọi vinh hoa phú quý mà nhà vua đã không xin.

Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một bài học gần như thế. Mến chuộng Đức Giê-su hơn sự giàu sang phú quý là con đường dẫn đến Nước Trời: Những ai từ bỏ mọi sự “vì Đức Ki-tô và vì Tin Mừng”, thì ngay ở đời nầy sẽ nhận được gấp trăm và ở đời sau sẽ được hưởng sự sống đời đời (Mc 10: 29-30).

BÀI ĐỌC II (Dt 4: 12-13)

Thư gởi tín hữu Do thái được viết cho những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ sống xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và luyến nhớ các nghi lễ Cựu Ước; hơn nữa, vì những bách hại, vài người mất can đảm đã muốn bỏ rơi niềm tin Ki-tô giáo của mình. Bức Thư nầy nhằm an ủi họ và tăng cường đức tin của họ.

Đoạn văn hôm nay được trích từ những lời khuyến dụ dài mời gọi hãy trung tín và kiên tâm bền chí. Tác giả vừa mới gợi lên tấn thảm kịch dành cho những người bất tuân, họ đã không được chấp nhận vào Đất Hứa, nhưng phải vùi thây trong sa mạc. Vì thế, chúng ta hãy giữ mình khỏi tội bất trung nếu chúng ta muốn đi vào Đất Hứa đích thật, vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ nầy, kẻo có ai cũng theo gương bất trung đó mà sa ngã” (4: 11).

1/.Nhân cách hóa Lời Chúa:

“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi”. Đây không là lần đầu tiên Kinh Thánh nhân cách hóa Lời Chúa như vậy. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã mô tả Lời Chúa ngự xuống từ trời để đem lại sự sống cho toàn cõi thế và chỉ trở về với Thiên Chúa một khi sứ mạng đã được hoàn thành:

“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời

không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,

chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,

cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,

thì Lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,

sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,

chưa thực hiện ý muốn của Ta,

chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55: 10-11).

Sách Đệ Nhị Luật cũng đã trình bày Lời Chúa như một nguồn sống nội tại: “Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh báo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật nầy. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông để chiếm hữu” (Đnl 32: 46-47).

2/.Chức năng xét xử của Lời Chúa:

Lời Chúa có chức năng xét xử bởi vì Lời Chúa có chức năng giáo huấn. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái chuyển từ Lời Chúa có chức năng giáo huấn sang Lời Chúa có chức năng xét xử. Đây không phải là một ví dụ duy nhất. Đức Giê-su trong Tin Mừng Gioan cũng nói như vậy: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết” (Ga 12: 48).

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với thanh gươm hai lưỡi; đây không cốt là thanh gươm Công Lý, mà sách Khải Huyền trang bị cho Con Người vào ngày tận thế, vào ngày Chung Thẩm: “Tay hữu Người cầm bảy ngôi sao và từ miệng Người phóng ra một thanh gươm hai lưỡi sắc bén” (Kh 1: 16; 19: 15). Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với một con dao mổ sắc bén của một nhà giải phẩu: Lời Chúa “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó là lời phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”. Cuối cùng, tác giả đồng hóa Lời Chúa với chính Thiên Chúa: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ ra trước lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.

Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc được gởi đến các Ki-tô hữu đang chao đảo trong đức tin, nhưng ngay liền sau đó tác giả liên kết vị Thượng Tế biết cảm thương, là Đức Ki-tô, với những nỗi yếu hèn của chúng ta.

TIN MỪNG (Mc 10: 17-30)

Câu chuyện về một người giàu có nầy đều được cả ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật, bởi vì đây là dịp, là cơ hội thuận tiện mà Đức Giê-su lợi dụng để minh họa một bài học kiểu mẫu cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều kể lại câu chuyện này một cách xúc động và thống thiết, nét đặc trưng này rất dễ thấy trong câu chuyện của Tin Mừng Mác-cô.

Đức Giê-su vừa mới cất bước lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem thì “có một người chạy đến”. Thánh Mác-cô thích làm sinh động những bài trình thuật của mình bằng những động từ chỉ sự chuyển động; ở đây, chi tiết nầy có giá trị của nó. Câu chuyện bắt đầu với hành động hối hả của một người thành tâm thiện chí đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” và kết thúc với thái độ tương phản sau cùng của anh: “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúng ta có thể gọi đây là một câu chuyện về ơn gọi bất thành.

1/.Sự sống đời đời:

“Sự sống đời đời” là diễn ngữ then chốt của toàn bộ câu chuyện nầy; nó được nêu lên ngay từ đầu với câu hỏi của chàng thanh niên này và ở cuối câu chuyện qua câu trả lời của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài (10: 30). Đây không chỉ là một ví dụ điển hình về lối hành văn đóng khung, nhưng còn định vị tấm thảm kịch sắp diễn ra trong chiều kích cốt yếu của nó. Vấn đề về những mối tương quan của người Ki-tô hữu với của cải được đặt ra tùy thuộc vào vấn đề cốt yếu nầy: cuộc sống mai hậu. Vì thế, các môn đệ xao xuyến tận đáy lòng.

Nỗi ưu tư của người này phù hợp với những nỗi bận lòng của những môi trường đạo hạnh Do thái giáo, ở đó người ta tranh luận về những viễn cảnh cánh chung: sự sống đời đời, chính là gia nghiệp mà Thiên Chúa hứa ban vào thời cánh chung. Phải làm gì để đảm bảo cho mình có được sự sống đời đời?

Người nầy ca ngợi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy nhân lành” kèm theo một hành vi cử chỉ hết mực cung kính: “quỳ xuống trước mặt Người”. Thái độ nầy làm chứng rằng Đức Giê-su nổi tiếng là một vị kinh sư đặc biệt và người nầy tin rằng chỉ có Ngài mới có thể ban cho anh những lời khuyên có giá trị.

Tại sao Đức Giê-su thoái thác đức tính “nhân lành” nầy cho mình, khi mà lòng nhân lành của Ngài thì hiển nhiên, phải chăng là để hướng tâm trí của người đối thoại về Đấng là nguồn mạch của mọi sự nhân lành? Nếu Đức Giê-su có lòng nhân lành, chính vì Ngài đón nhận lòng nhân lành từ Thiên Chúa. Thánh Mác-cô có mối bận tâm là không quên thân phận làm người của Đức Giê-su.

Sau khi đã hiệu đính lời ca ngợi của người thành tâm thiện chí này, Đức Giê-su sắp cho anh ta một câu trả lời tích cực qua đó Ngài ngầm hàm ý rằng “Tôi đến không phải để hủy bỏ nhưng kiện toàn Lề Luật”.

2/.Lời kêu gọi được gởi đến cho người giàu có này:

Thập Giới là nền tảng hàng đầu của Lề Luật. Đức Giê-su chỉ trích dẫn phần thứ hai của Thập Giới, phần liên quan đến những bổn phận của một người với anh em đồng loại của mình. Như thế, đối với Đức Giê-su, thực thi Thập Giới mà Đức Chúa đã truyền dạy là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “sự sống đời đời”. Chàng thanh niên này mau mắn trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Câu trả lời nầy chứng tỏ tấm lòng thành tâm thiện chí của anh trên con đường khao khát sự sống đời đời. Câu trả của anh gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giê-su. Thánh Mác-cô là thánh ký duy nhất cung cấp chi tiết cảm động nầy: “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.

Đối với chàng thanh niên đầy thành tâm thiện chí nầy, Đức Giê-su đề nghị anh đi xa hơn trên con đường khao khát sự sống đời đời: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. Đây không chỉ là tinh thần siêu thoát mà Đức Giê-su đòi hỏi anh, nhưng còn là một sự từ bỏ của cải để đạt cho bằng được “kho tàng trên trời”. Đối với những ai muốn bước đi trên con đường nhân đức, Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi thêm nữa. Đối với những ai Thiên Chúa đem lòng yêu mến, Ngài không để cho kẻ ấy sống một đời sống tầm thường như bao nhiêu người khác. Thiên Chúa đã xử sự với các ngôn sứ của Ngài như thế nào; Đức Giê-su cũng hành xử với các môn đệ của Ngài cũng theo một cách như vậy.  Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chỉ mãi đến lúc nầy, chúng ta mới biết được người ấy rất giàu có và chính sự giàu có đã ngăn cản anh tích cực đáp trả tiếng gọi của Đức Giê-su.

Tuy nhiên, lý tưởng của sự nghèo khó không xa lạ gì đối với Do thái giáo. Các ngôn sứ đã ca ngợi lý tưởng nầy. Các ngài đã công kích những kẻ giàu có; các ngài đã công bố ơn cứu độ của Ít-ra-en nhờ một nhóm nhỏ còn lại, nhóm người bị tước đoạt tất cả, chỉ còn lại niềm tin tưởng phó thác vào Đức Chúa. Chúng ta cũng gặp thấy những người Do thái đạo hạnh sống theo lý tưởng Do thái giáo, là lấy Lề Luật làm quy luật sống của mình để hướng tới “sự sống đời đời”  là gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban cho dân Ngài.

Còn ở đây, khi nói với chàng thanh niên: “Anh chỉ còn thiếu có một điều”, Chúa Giê-su được trình bày như là Đấng Mê-si-a đến mặc khải một lý tưởng còn cao hơn lý tưởng của dân Ít-ra-en: trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước theo Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Trọng tâm của câu chuyện nầy không phải hệ tại ở việc từ bỏ của cải nhưng là gắn bó với Đức Giê-su, yêu mến Ngài trên tất cả mọi sự kể cả mạng sống của mình.

Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện về ơn gọi bất thành nầy được ghi lại trên con đường Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, tiến đến cuộc khổ nạn của Ngài. Như vậy, đức tin Ki-tô giáo vừa tiếp nối vừa kiện toàn đức tin Do thái giáo. Người ta không thể trở thành người Ki-tô hữu nếu không xem Đức Giê-su là trung tâm và là cứu cánh cuộc đời của mình được. Như một người gặp được viên ngọc quý hay kho tàng chôn dấu trong ruộng, người ấy sẵn sàng đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được Ngài như lời của thánh Phao-lô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi lòng mến đối với Đức Ki-tô”.

3/.Lời mời gọi được gởi đến với mọi người:

 “Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh”. Đây là một ghi nhận đặc trưng của thánh Mác-cô (3: 5; 5: 32; 9: 8; 10: 23; 11: 11). Đây không là một chi tiết điểm tô cho câu chuyện; ý nghĩa của nó thì rõ ràng: Đức Giê-su ngỏ lời với dân chúng, chắc chắn đám đông đang vây quanh Ngài, nhưng không được kể ra, và cả đám đông vô hình của những Ki-tô hữu thuộc mọi thời: “Những người có của mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”. Vì nhận thấy các môn đệ hết sức kinh ngạc, nên Đức Giê-su lập lại đến hai lần lời cảnh giác của Ngài: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.

Việc sánh ví với con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa là một kiểu nói phóng dụ Đông Phương để kích thích sự chú ý: sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ. Đức Giê-su đã nói rồi: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6: 24). Sự kiện các môn đệ vừa mới chứng kiến là một bằng chứng tỏ tường. Khi nêu lên câu hỏi với Thầy: “Thế thì ai có thể được cứu?”, các môn đệ không chỉ cho thấy có rất nhiều người gắn bó với của cải chung quanh họ; nhưng còn vì, theo truyền thống của cha ông họ, sự giàu có là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa chúc phúc cho những người trung thành tuân giữ Lề Luật. Đức Giê-su trấn an họ bằng cách khai mở tâm trí của họ để họ thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm ân sủng, mầu nhiệm của lòng xót thương: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì khác, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.

Chúng ta đừng quên ngay sau câu chuyện này, thánh Lu-ca tường thuật câu chuyện của ông Da-kêu như một ví dụ về ơn cứu độ của một người giàu có. Ông Da-kêu đã không bao giờ nghĩ đến việc bố thí một phần của cải của mình cho những người nghèo, nếu như Đức Giê-su đã không viếng thăm gia đình của ông. Vấn đề là con người đáp trả như thế nào trước lời mời gọi chan chứa yêu thương của Thiên Chúa.

4/.Phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Chúa Giê-su:

 Các tông đồ không thể không so sánh thái độ của họ với thái độ của người giàu có nầy: họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Thánh Phê-rô nhân danh tất cả môn đệ nhắc lại điều đó. Đức Giê-su trả lời bằng cách nêu lên hai loại phần thưởng: phần thưởng được ban cho “bây giờ, ngay ở đời nầy” và phần thưởng được ban cho trong thế giới tương lai: “sự sống vĩnh cửu ở đời sau”.

Có nên hiểu một chuỗi những phần thưởng được liệt kê đầu tiên theo nghĩa đen? Chắc chắn, ai từ bỏ những người thân yêu và của cải quý giá của mình vì Đức Giê-su, người ấy sẽ gặp thấy ở giữa lòng cộng đoàn Ki-tô hữu, một đại gia đình. Nhưng lời giải thích theo nghĩa tinh thần thì có vẻ thật hơn. Thánh Mác-cô xem ra hiểu như vậy bởi vì thánh ký đặt sự bách hại vào giữa những phần thưởng “ngay ở đời nầy”. Chính ở nơi những phần thưởng tinh thần nầy mà những Ki-tô hữu đã sở hữu rồi, thánh Phao-lô ám chỉ đến khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, kỳ thực chúng tôi vẫn luôn vui vẻ;  coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6: 8-10).

home Mục lục Lưu trữ