Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 79
Tổng truy cập: 1364738
NGƯƠI HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY
William Barclay
Chúa kể dụ ngôn về người Samari nhân hậu nhân dịp một luật sĩ kia cậy mình hiểu biết Kinh Thánh và những lối diễn dịch khéo léo của các rabi đến để đối chất với Chúa với ý định đánh hạ Ngài. Trong cuộc tranh luận, ông hỏi Chúa câu này: “Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” Chắc ông tưởng rằng Chúa sẽ kể ra một lô những nghi lễ, những quy tắc mới lạ và sẽ làm giảm giá trị của Luật pháp. Nhưng ông ta giật mình khi nghe Chúa hỏi ngược lại: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Câu trả lời dưới hình thức hỏi lại đã tước mất khí giới của đối phương. Tuy nhiên ông ta cũng khôn khéo trả lời rằng Luật pháp gồm tóm trong đòi hỏi kính Chúa yêu người. Chúa bảo: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Không có gì mờ ám, né tránh hay lường gạt trong câu nói của Chúa Giêsu. Lòng yêu mến vẹn toàn đối với Thiên Chúa và loài người nhất định là con đường sự sống. Nhưng ai có thể bày tỏ ra tình yêu vẹn toàn ấy? Chúa Giêsu đến không phải để phá hỏng điều răn ấy mà để làm ứng nghiệm trọn vẹn, đem lại ơn tha tội cho những kẻ vi phạm luật ấy và ban quyền năng cho những kẻ cảm biết mình cần thiết. Câu trả lời của Chúa đánh hạ luật sĩ, nó còn đụng đến lương tâm ông nữa. Ông tự biết mình không thể làm trọn những đòi hỏi của những điều luật mà ông biết rất rõ. Bởi vậy ông cố tự biện minh bằng cách thâu hẹp địa hạt mà luật tình yêu áp dụng. Đó luôn luôn là kinh nghiệm của những kẻ tìm cách tự cứu mà từ chối sự cứu rỗi của Chúa Kitô. Không ai có thể dùng sức mình để làm trọn vẹn những đòi hỏi của Luật pháp, hoặc là chúng ta phải tìm cầu sự giúp đỡ từ bên ngoài nơi Chúa Giêsu từ ái, hoặc phải tìm cách giảm thiểu những đòi hỏi của luật. Ý của luật sĩ là không thể nào chu toàn được luật yêu mọi người, dầu là điều răn yêu người lân cận. Để tự biện minh, ông hỏi: “Ai là người thân cận?” Chúa Giêsu đáp lại bằng một câu chuyện một người Do Thái gặp nạn trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Con đường này nổi tiếng là nguy hiểm, Giêrusalem có độ cao 766 mét cao hơn mặt biển. Chỉ trong một khoảng hơn 32 cây số, con đường này đổ dốc sâu tới 1200 mét. Đó là con đường chật hẹp, qua nhiều đèo hiểm trở, có nhiều khúc ngoặt bất ngờ, thuận tiện cho những bọn cướp rình rập. Đến thế kỷ thứ V, thánh Hiêrônimô cho chúng ta biết con đường đó còn mang tên là “Con đường đỏ hay con đường máu”. Đến thế kỷ thứ XIX, ai muốn đi con đường đó phải trả trước tiền an ninh cho những quận trưởng Ả rập địa phương. Đầu năm 1930, H. Morton cho biết ông được cảnh cáo, nếu ông định đi con đường đó thì phải về nhà trước khi trời tối, vì có tên cướp Aben Jidah chuyên cướp ô tô và trấn lột hành khách, du khách, rồi trốn vào núi trước khi cảnh sát kịp tới. Khi kể chuyện này, Chúa Giêsu nói về một việc thường xảy ra trên con đường từ Giêrusalem tới Giêrikhô. Chúng ta thử quan sát các nhân vật được nêu ra. Khách bộ hành: đây là người bất cẩn, liều lĩnh. Ít ai mang hành lý hay tư trang quý mà dám đi một mình trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Bao giờ họ cũng trẩy đi thành đoàn, thành toán, để được an ninh. Người này không thể quy lỗi cho ai hết ngoài chính mình trong thảm hoạ đã xảy ra.
Thầy tư tế trông thấy nạn nhân, ông vội vàng bước qua. Chắc ông đang nhớ rằng kẻ nào sờ vào mình người chết thì sẽ bị ô uế bảy ngày (Ds 19,11). Ông không dám khẳng định, nhưng ông e ngại người đó đã chết và nếu ông chạm vào người đó, ông sẽ mất phiên phục vụ trong Đền Thờ, ông không muốn liều lĩnh như vậy. Ông là người đặt lễ nghi lên trên tình yêu thương. Đề thờ và các nghi lễ tại đó có ý nghĩa đối với ông hơn là sự đau khổ của con người.
Thầy Lêvi mà chức vụ là người giúp đỡ thầy tư tế, một người nhẹ bổn phận hơn và chắc có nhiều thời giờ hơn để có thể cứu trợ. Hình như ông này đã lại gần nạn nhân trước khi ông bỏ đi. Quân cướp thường dùng mồi nhử bằng cách cho một tên trong bọn chúng giả làm nạn nhân, và khi có ai đó vô tình dừng lại bên cạnh nạn nhân, thì cả bọn liền ập đến bắt trói hành khách đó. Người Lêvi này sống với khẩu hiệu “an toàn trước hết”, ông không muốn liều để giúp đỡ ai hết.
Người Samari: Người nghe chuyện lúc bấy giờ chắc tưởng là người này tới là tai hoạ rồi đó. Có thể người này không có dòng máu Samari. Người Do thái không giao thiệp với người Samari, nhưng người này có lẽ thuộc hạng thương gia lưu hành thường quen lui tới nhà quán. Trong Gioan 8,48, người Do thái gọi Chúa Giêsu là người Samari. Danh từ đó đôi khi được dùng để chỉ một tên rối đạo hay một kẻ không tuân phục nghi lễ. Có lẽ người này chỉ là người Samari theo nghĩa một người mà giới chính thống ngoan đạo khinh bỉ. Chúng ta nhận xét hai điều về người này:
- Anh là người được tín nhiệm: rõ ràng chủ quán sẵn lòng tin lời anh. Có thể là anh không đi đúng thần học, nhưng anh là người tốt.
- Chỉ có anh là người sẵn sàng giúp đỡ. Anh có thể bị xem là người rối đạo, nhưng tình thương của Thiên Chúa chan chứa trên tâm hồn anh. Người ta dễ gặp những người ngoan đạo thích giáo lý hơn thích giúp đỡ và cũng gặp người mà giới ngoan đạo khinh bỉ lại biết yêu thương đồng loại. Cuối cùng, chúng ta sẽ bị Chúa phán xét, không phải vì giáo lý trong đầu óc chúng ta, song vì cách chúng ta đã sống.
Chúng ta thử tìm sự dạy dỗ của dụ ngôn người luật sĩ đặt câu hỏi lòng đầy hăng hái. Chúa hỏi lại ông đọc gì trong luật. Luật sĩ đáp theo như đã ghi: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi.” (Đnl 6,3), và thêm “Phải yêu người thân cận như mình.” (LV 18,19). Nhưng giới đạo sĩ Do thái vốn ưa thích định nghĩa, họ ra sức định nghĩa người thân cận là ai, và với tư tưởng hẹp hòi của họ, họ đã thu hẹp người thân cận vào đồng bào Do thái của họ thôi. Vậy câu hỏi của luật sĩ “ai là người thân cận của tôi” là câu hỏi thích đáng. Và câu trả lời qua dụ ngôn dạy ta ba điều:
1. Ta phải giúp đỡ kẻ khác dầu khi kẻ đó tự gieo hoạ cho mình, như người hành khách bất cẩn liều lĩnh này.
2. Dù người thuộc quốc tịch nào, khi lâm nạn, đều là người thân cận của chúng ta, sự giúp đỡ của chúng ta phải rộng lớn như tình yêu Thiên Chúa.
3. Sự giúp đỡ phải thực tế chứ không dừng lại ở cảm xúc. Hẳn thầy tư tế cũng như thầy Lêvi cũng cảm thấy xót xa cho người lâm nạn, nhưng không hành động gì. Sự cảm thương thành thực phải đi đôi với hành động thiết thực.
Điều Chúa Giêsu phán với thầy dạy luật thì Ngài cũng nói với chúng ta “Ngươi hãy đi làm như vậy”.
79.Ai là người thân cận? – Lm. Đan Vinh
Đnl 30,10-14; Cl 1,15-20; Lc 10,25-37
I. HỌC LỜI CHÚA
* Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần: Phần một là người thông luật hỏi Đức Giê-su về điều kiện để được sống đời đời. Ông cũng kể ra được hai điều căn bản của Luật dạy là “mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu mình”. Đức Giê-su đã khen ông đã hiểu đúng và dạy ông hãy làm như Luật dạy thì sẽ được sống đời đời. Phần hai là nhà thông luật hỏi Đức Giê-su về người thân cận mà ông phải yêu kia là ai? Đức Giê-su đã kể ra dụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân hậu để dạy ông noi gương bằng cách bỏ qua những điều tùy phụ của Lề Luật để thực hiện điều chính yếu là quên mình phục vụ người bị nạn đang cần được trợ giúp.
* CHÚ THÍCH:
- C 25-28: + Người thông luật: Từ này ám chỉ các Kinh sư Do thái, là những nhà thông thái hiểu biết về Luật Mô-sê và có nhiệm vụ giải thích Lề luật cho dân chúng tại các hội đường Do thái. + Đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người: Các người thông luật thường tự cao, nghĩ mình là giỏi và không cần phải hỏi ai cả. Ở đây họ hỏi Đức Giê-su chỉ nhằm thử thách và gài bẫy để có dịp bắt bẻ Người mà thôi.+ Làm gì để được sống đời đời?: Người thông luật thuộc phái Pha-ri-sêu, là phái tin có đời sau và có sự kẻ chết sống lại, nên ông đã đặt ra câu hỏi này, trái với các người phái Sa-đu-xê-ô không tin kẻ chết sống lại (x. Cv 23,6-8).+ Trong Luật đã viết gì?: Người Do thái gọi 5 cuốn sách đầu trong bộ Thánh kinh Cựu ước là các sách Luật Mô-sê vì do chính Mô-sê và các đồ đệ của ông đã viết ra. 5 cuốn sách đó là: Sáng thế ký, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật. + Ông đọc thế nào?: Đức Giê-su trả lời bằng một câu hỏi, buộc người đối thoại phải tỏ rõ lập trường của mình ra trước. + Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa...: Người thông luật đã đọc kinh Shê-ma là lời cầu nguyện hằng ngày của dân Do thái. Kinh này gồm hai câu rút ra từ 2 sách Luật là Đệ nhị luật (Đnl 6,5) và Lê-vi (Lv 19,18). Điều đó cho thấy Cựu ước đã chuẩn bị trước cho Tân ước. + Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm...”: Để được sống đời đời thì phải sống yêu thương. Lòng mến Thiên Chúa và yêu người thân cận luôn phải đi đôi với nhau.
- C 29-30: + Ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý: Người thông luật muốn chứng tỏ mình thực tâm muốn tìm hiểu. Ông ta mở rộng vấn đề bằng một câu hỏi khác bên ngoài bộ Luật và độ khó nhiều hơn so với câu hỏi trước đã có sẵn đáp án trong Luật. + “Ai là người thân cận của tôi?”: Câu hỏi này mở đường cho Đức Giê-su bày tỏ quan điểm mang tính cách mạng của Người, khác với quan niệm cổ truyền hẹp hòi của các nhà thông luật của dân Do thái về đối tượng phải yêu mến. Đó là phải yêu cả kẻ thù của mình nữa! + Con đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô: Con đường này dài gần 25 cây số, băng ngang hoang địa Giu-đa, thời đó có nhiều băng trộm cướp ẩn núp hoạt động.
- C 31-33: + Thầy tư tế đi xuống: Tư tế là người thuộc dòng dõi A-ha-ron có nhiệm vụ dâng chiên bò sát tế trong Đền thờ. Vị này đi xuống Giê-ri-khô vì thành này dành cho gia đình các tư tế ở. + Thầy Lê-vi: hay trợ tế, thuộc dòng dõi Ghéc-sôn, là một trong ba ngành lớn của dòng họ Lê-vi (x. St 46,11). Các thầy trợ tế Lê-vi có nhiệm vụ đàn hát trong các buổi thờ phượng tại Đền thờ. + Một người Sa-ma-ri kia: Sa-ma-ri là một miền đất nằm ở giữa hai miền Bắc (Ga-li-lê) và miền Nam (Giu-đê) của nươc Do thái. Dân miền này bị người Do thái coi là một giống dân lai căng và khinh thường họ. Vì trong cuộc lưu đày vào năm 721, một số người Do thái ở miền này đã không bị đi lưu đày. Họ ở lại và dựng vợ gả chồng lẫn lộn với dân Ni-ni-vê từ Ba-tư kéo xuống. Dân Sa-ma-ri này thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim, và không hành hương lên Đền thờ Giê-ru-sa-lem như người Do thái. Họ cũng có thái độ thiếu thân thiện như không cho những người Do thái đi hành hương Giê-ru-sa-lem vào ở trọ trong làng của họ (x. Ga 4,20; Lc 9,53).
- C 34-35: + Lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương: Người Sa-ma-ri này đã làm động tác sơ cấp cứu theo y học sơ đẳng thời bấy giơ, là dùng dầu để làm giảm đau và dùng rượu để rửa sạch vết thương. + Hai quan tiền: Tương đương với lương hai ngày công lao động thời đó (x Mt 20,9).
- C 36-37: + “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”: Như vậy, chúng ta sẽ trở thành thân cận của người gặp nạn kia nếu chúng ta yêu thương và sẵn sàng giúp đỡ họ. + Hãy làm như vậy: Đức Giê-su chấp nhận lối xử thế của người Sa-ma-ri. Người đề nghị ông thông luật hãy đi và làm giống như người Sa-ma-ri. Tình thương Kitô giáo không biên giới, không cần biết người cần giúp đỡ có cùng chủng tộc, tôn giáo với mình hay không.
* CÂU HỎI:
1- Lòng tin về mầu nhiệm kẻ chết sống lại của hai phái tôn giáo thời Đức Giê-su là Pha-ri-sêu và Sá-đu-xê-ô khác nhau thế nào?
2- Sách Luật Mô-sê gồm có mấy cuốn và là những sách mào?
3- Hằng ngày người Do thái ngoan đạo phải cầu nguyện bằng việc đọc kinh Shê-ma, kinh này được rút ra từ sách nào? Lời kinh ấy nhắc đến hai bổn phận phải làm là những bổn phận gì?
4- Đức Giê-su dạy người Pha-ri-sêu hãy làm theo gương của ai trong ba người trong bài dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Ông hãy đi, và cũng làm như vậy”.
2. CÂU CHUYỆN:
Cách đây ít hôm trang mạng Telegraph và các trang mạng khác ở Trung Quốc và trên thế giới đều đồng lọat phát đi một đọan video clip và bình luận về tai nan tại thành phố Phật Sơn tỉnh Quảng Đông mà nan nhân là một bé gái 2 tuổi tên Duyệt Duyệt (Yue Yue) đang đi ngòai đường tại khu chợ ổ gần nhà và đã bị một chiếc xe tải nhỏ đụng phải. Đoạn video clip từ một máy quay bảo vệ an ninh tại hiện trường cho thấy viên tài xế xe tải sau khi đụng bé Duyệt Duyệt ngã ra đường, đã chỉ dừng lai một chút rồi lại tiếp tục chạy khiến bánh sau chiếc xe cán qua người bé lần thứ 2. Tuy nhiên, sự việc không dừng lại ở hành động phi nhân tính của gã tài xế. Chính thái độ thờ ơ của những người qua đường sau đó mới khiến người Trung Quốc băn khoăn tự hỏi không biết tương lai đất nước của họ sẽ đi về đâu?
Thực vậy: trong suốt 7 phút từ lúc bé Duyệt Duyệt gặp nạn, lần lượt đã có tới 18 người đi ngang qua nơi cô bé bị nạn nằm trên đường, nhưng chẳng một ai quan tâm giúp đỡ. Người đầu tiên là một thanh niên mặc áo phông trắng và quần thể thao đi qua bé gái nằm sõng soài trên đường, máu túa ra trên mặt, nhưng anh ta đã ngó lơ. Tiếp theo là một người đi xe đạp thấy em đã vòng qua để đi. Anh ta đã ngóai lại xem có phải một người bị nạn đang nằm ở đó hay không, rồi lại thản nhiên đạp xe đi tiếp. Khi máu tuôn ra nhiều hơn, một người đi xe đạp nữa xuất hiện. Người này không chút quan tâm tới số phận của đứa trẻ. Ba con người vô cảm vừa nói đã không giúp đỡ bé Duyệt Duyệt đáng thương, dù chỉ làm một việc đơn giản là kéo cô bé vào bên vệ đường. Sự thờ ơ của họ đã dẫn tới sự kiện một tài xế xe tải khác đi tới, do đang nói chuyện diện thọai không nhìn thấy bé Duyệt Duyệt trên đường nên đã cán xe lên người em. Sau lần bị xe đè này, bé Duyệt Duyệt đã không còn cử động nữa. Liên tiếp sau đó, rất nhiều người đi xe đạp và cả một số người đi xe chở hàng qua khu vực nạn nhân nằm vẫn không hề quan tâm tới bé Duyệt Duyệt. Cũng có một người phụ nữ dắt theo đứa con đi qua, thấy bé Duyệt Duyệt bị nạn lại rảo chân bước nhanh hơn ngang qua em...
Chỉ tới khi một nữ lao công quét đường 58 tuổi đi tới, thì bé Duyệt Duyệt mới được cứu giúp. Bà này vội hạ túi đồ xuống và lôi đứa trẻ sang một bên đường để tránh cho bé khỏi bị xe cán tiếp. Rồi bà tri hô lên yêu cầu được trợ giúp. Bấy giờ mẹ đứa trẻ nghe thấy hớt hải từ trong nhà chạy ra và vội mang con đi cấp cứu tại một bệnh viện gần đó. Tuy nhiên, sự can thiệp đã trở nên quá muộn. Các bác sĩ nói rằng bé Duyệt Duyệt do bị chảy máu nhiều nên bị suy hô hấp và còn bị chấn thương sọ não nghiêm trọng không được cấp thời cứu chữa nên khó có cơ hội hồi phục lại được.
3. SUY NIỆM:
1) “Phải làm gì để được sự sống đời đời?”: Người thông luật đã hỏi Đức Giê-su va sau đó đã tự tìm ra đáp án trong Luật: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Đức Giê-su đã khen câu trả lời của người thông luật và bảo ông ta rằng: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.
2) “Ai là người thân cận của tôi?”: Người thông luật lại hỏi Đức Giê-su: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về người Sa-ma-ri tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-cô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Đang khi hai thầy tư tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Sa-ma-ri ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc và sẵn sàng trả thêm tốn phí săn sóc nạn nhân cho chủ quán. Qua đó cho chúng ta câu trả lời: người thân cận của chúng ta là hết những ai đang cần đến sự trợ giúp của chúng ta, là người gặp nạn được chúng ta dừng lại, cúi xuống và phục vụ tận tình. Cần nhắc lại: Không phải vì đó là người thân nên chúng ta mới phục vụ, nhưng là bất cứ ai mà khi tận tình phục vụ họ là chúng ta đã trở thành người thân cận của họ.
Người thân cận không phải đâu xa mà có thể là người cùng sống chung nhà, cùng nhóm sinh họat, cùng khu xóm. Có thể là bà hàng xóm, là cô bạn đang ở chung phòng, là người thân bên cạnh mà chúng ta đang phải chịu đựng thói hư. Tóm lại là tất cả những ai đã và đang gây ra đau khổ cho chúng ta… Tất cả đều có thể được chúng ta yêu thương và trở nên người thân cận của chúng ta. Chỉ cần chúng ta dừng lại, cúi xuống phục vụ là một người xa lạ hay đáng ghét lập tức trở thành thân quen, một kẻ thù liền hóa thành bạn hữu của chúng ta.
3) “Kẻ đã thực thi lòng thương xót”: Thánh Au-gút-ti-nô đã dạy: “Hay yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Quả thực: Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết mình phải làm gì cho tha nhân trong bất cứ tình huống nào. Chúng ta sẽ có sáng kiến để hiến thân phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh bên cạnh. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho một kẻ xa lạ trở thành người thân, kẻ thù địch trở nên bạn hữu… Vi chỉ cần làm theo người Sa-ma-ri là thực thi lòng thương xót: Dừng lại và cúi xuống phục vụ người lâm cảnh khó khăn bất hạnh đang cần đến sự tích cực trợ giúp của mình.
4) “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”:
Qua dụ ngôn này Đức Giê-su muốn dạy nha thông luật và các tín hữu chúng ta hôm nay bài học: hãy yêu thương bằng việc làm cụ thể. Sở dĩ hai thầy tư tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ bị ô uế theo Luật khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp có thể quay lại, sợ bị phiền hà... Nhiều người trong chúng ta cũng không dám ra tay giúp đỡ tha nhân khi họ đang cần là do chúng ta cũng sợ sẽ bị tốn công sức, thời gian, tiền bạc... Đang khi người Sa-ma-ri trong bài dụ ngôn đã dám vượt qua những sự sợ hãi ấy.
Tình yêu là một phép mầu, chỉ cần bước tới, xích lại và cúi xuống phục vụ là người xa lạ lập tức hóa nên thân quen, kẻ thù trở thành bạn hữu... Tình yêu thực sự cũng đòi cụ thể: sẵn sàng bị lấm lem chân tay, quần áo, sẵn sàng gặp những rắc rối nguy hiểm có thể xảy ra... Thế giới hôm nay vẫn có quá nhiều những người bất hạnh nửa sống nửa chết, những người nghèo đói bệnh tật và đang bị bỏ rơi. Thế giới vẫn đang cần những người Sa-ma-ri là các tín hữu chúng ta dám dừng lại, cúi xuống và tận tình phục vụ. Đã có khi nào bạn làm giống như người Sa-ma-ri nói trên hay chưa?
4. THẢO LUẬN:
1) Bài Tin mừng mời chúng ta xét mình: “Tôi thường cư xử thế nào đối với những kẻ đang gặp hòan cảnh khó khăn?
2)Tôi cần làm gì khi gặp một người bị tai nạn trên đường hay đang lâm vào hòan cảnh bất hạnh trong cuộc sống để vừa thi hành được đức bác ái, lại vừa khôn ngoan tránh bị người khác hiểu lầm đã gây ra tai nạn?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mắt chúng con nhìn thấy được nỗi đau khổ trong ánh mắt kẻ khác, đặc biệt là của những người thân trong gia đình chúng con. Xin cho tai chúng con biết lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, nhất là của những kẻ cùng chung huyết nhục với chúng con. Xin cho chúng con biết lưu tâm thương xót những ai đang khốn khó, đặc biệt những người thân yêu của chúng con.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con đủ khiêm tốn để đừng bao giờ gặp người đau khổ mà phớt lờ bỏ đi vì ngại vất vả cực nhọc, vì sợ bị nghi ngờ và nói xấu, hay sợ bị những kẻ gian lừa dối... Xin cho chúng con biết đề nghị để được giúp đỡ họ: “Này anh, tôi có thể giúp gì được cho anh hay không?”
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.
Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
80.Yêu thương mọi người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Lẽ ở đời hễ ai thương mình, thì mình thương lại, ai ghét mình thì mình ghét lại hoặc nếu không ghét họ, mình cũng chẳng mặn mà gì với người ghét mình.Đối với người Kitô hữu lại khác, họ yêu thương Thiên Chúa như một người Cha và yêu thương kẻ khác như anh em. Tuy nhiên, tình yêu đối với người khác cần phải đi xa tới đâu, cần phải trải rộng tới đâu? Người thông luật trong đoạn Tin Mừng Lc 6, 25-37, hỏi Đức Giêsu:" Ai là người thân cận của tôi? ".Chúa Giêsu không trả lời với Ông trực tiếp câu hỏi Ông nêu nhưng Ngài lấy dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu để trả lời cho Ông và cho hết mọi người:" Tình thương đó phải trải rộng đến tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ vv...". Điều này cho thấy, giới răn mới, giới răn bác ái yêu thương là giới răn Chúa Giêsu đem lại hoàn toàn mới mẻ cho nhân loại...
Câu chuyện Đức Giêsu đem ra để trả lời cho người thông luật đồng thời Ngài đặt câu hỏi:" Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?". Người thông luật trả lời:" Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót ". Đức Giêsu bảo Ông:"...Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy " (Lc 10, 37).Người Samaritanô nhân hậu đã thực thi đức ái một cách tuyệt vời. Ông đã không chỉ nói đầu môi chóp lưỡi, và đã không chỉ nói cho qua lệ, cho qua loa rồi thôi, nhưng thực tế, Ông đã nói và đã làm. Hành đồng của người Samaritanô nhân hậu hoàn toàn khác với các vị thông luật, Pharisêu, luật sĩ vv...Các vị này nói mà không làm. Ngôn hành của họ bất nhất.Chắc chắn Đạo Do Thái đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Nhưng các vị này vì quá tỉ mỉ, chi li nên đã giới hạn tình yêu thương đối với kẻ khác, cố bóp méo quan niệm về tình yêu thương đó. Chúa Giêsu qua dụ ngôn này đã phá tung rào cản mà những Kinh sư, Luật sĩ, Pharisêu đã núp để khỏi sống theo những đòi hỏi của luật bác ái. Ở đây, chúng ta thấy thầy tư tế và thầy Lêvi "tránh qua bên kia mà đi " khi đối diện với người bị nạn. Sở dĩ hai thầy này có thái độ đó là vì các thầy sợ nhiễm trùng, sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp, sợ phiền hà, liên lụy tới bản thân vv...Còn người Samaritanô dù không đồng đạo, dù không phải là chức sắc, chức việc tôn giáo, nhưng ông đã biết dừng lại để làm cái điều mà tiếng lương tâm thôi thúc, đòi buộc.Ông đã biết làm một điều mà thầy tư tế và thầy Lêvi, những chức sắc cao cấp của Đạo Do Thái, những người chỉ biết nói trên đầu môi chóp lưỡi, nhưng thực tế lại sống xa đức bác ái, đức thương yêu...Hành động, cử chỉ của người Samaritanô nhân hậu thật cao quí biết bao bởi vì Ông đã vượt qua giới hạn mà các thầy tư tế, các thầy Lêvi phải làm nhưng đã không làm. Vâng, người Samaritanô đã trở nên bạn với người bị nạn. Bởi vì, tất cả đều có thể trở nên anh em với nhau khi người này người kia biết cảm thông, giúp đỡ và yêu thương nhau. Thầy tư tế và thầy Lêvi thực sự đã sống hoàn toàn xa lạ, không trở nên bạn, không trở thành anh em với người khác. Người Samaritanô tốt lành đã trở nên anh em với người bị nạn.
Chính vì thế, chúng ta có thể hiểu được rằng yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là yêu thương với tất cả con tim, biết hy sinh, từ bỏ, cảm thông, tha thứ, quên mình, hiến thân phục vụ tha nhân. Chúa đã làm gương hy sinh, từ bỏ, hiến thân cho nhân loại:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " (Ga 15, 13). Con người phải biết hy sinh, từ bỏ và hiến mạng sống, bản thân để phục vụ mới có giá trị. Vì con người càng ích kỷ, hẹp hòi, càng tìm bản thân mình, càng đánh mất chính mình. Nên, con người chỉ là người khi họ dám hy sinh cho người khác. Biết bao gương của các thánh đã minh chứng hy sinh cho người khác sẽ nhận lại được nhiều, càng cho đi càng nhận lãnh. Chân phước Têrêsa Calcutta và các nữ tu bác ái của Mẹ đã hy sinh biết bao cho người khác. Nhiều vị thánh đã hy sinh cả cuộc đời để phục vụ và đem hạnh phúc cho kẻ khác. Do đó, họ cho đi và họ lại nhận lãnh được nhiều.
Người Kitô hữu phải thể hiện cuộc sống của mình theo gương Chúa Giêsu. Đạo Công giáo là Đạo tình thương. Mọi Kitô hữu đều phải sống tình thương bằng những việc làm tỏa sáng, nếu không họ chỉ là những Kitô hữu giả hiệu.Thánh Gioan đã định nghĩa:" Thiên Chúa là Tình Yêu ". Nên, người môn đệ Chúa phải bắt chước Chúa sống tình yêu bằng những việc bác ái, hy sinh.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nêu gương cho chúng con bằng chính sự từ bỏ, bằng chính sự hiến mình trên thập giá.Xin cho chúng con hiểu được rằng Đạo của Chúa thiết lập là Đạo tình thương, cốt lõi của Đạo là tình thương.Xin cho chúng con luôn biết đón nhận, yêu thương mọi người, đừng để chúng con chỉ biết nghĩ đến lợi ích của chúng con mà quên những anh chị em đang sống xung quanh, họ rất cần đến bàn tay góp sức của chúng con. Amen.
81.Ai là người thân cận?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn, hay lấy những hình ảnh, sự vật, những câu chuyện hằng ngày để dạy dỗ dân chúng. Điều đó không có gì lấy làm ngạc nhiên lắm khi người thông luật đặt câu hỏi: " Ai là người thận cận của tôi? ". Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp, thay vì trả lời, Ngài đã kể dụ ngôn người Samari nhân hậu.
Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn rất quen thuộc nhưng lại rất ấn tượng khi được Chúa Giêsu kể chuyện: một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột và rồi chúng bỏ người bộ hành nửa sống nửa chết ở bên đường. Thầy tư tế và thầy Lêvi đi ngang qua, hai thầy này đều tránh qua bên kia mà đi, trong khi người Samari ngoại đạo lại xuống ngựa, đứng lại, băng bó vết thương và chở người bị nạn đến nhà trọ, nhờ chủ quán giúp đỡ, tốn phí bao nhiêu Ông sẽ lo lắng hết.
Đức Giêsu hỏi vị thông luật đặt câu hỏi: "Vậy ai là kẻ thân cận của kẻ bị hại". Hỏi tức là trả lời. Thực tế ở đây người bị nạn không hề biết người Samari và ngược lại người Samari cũng không biết người bị hại. Đây là nét rất đẹp của Tin Mừng. Người thông luật đáp: " Chính là kẻ thực thi lòng thương xót ". Đức Giêsu liền bảo Ông: " Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy " (Lc 10, 37).
Chúa Giêsu thường đưa chúng ta tới một sự ngạc nhiên, bất ngờ và sự bất ngờ này là " người lân cận ". Và người anh hùng ở đây là người Samari nhân hậu. Chúng ta phải hiểu rõ: câu chuyện này được Chúa Giêsu nói với người Do Thái. Những người Do Thái coi người Samari như kẻ phản bội, người đáng bị khinh bỉ và là người thờ tà ma, tà thần. Do đó, những người nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này bị choáng váng, khó chịu, giận dữ khi Chúa đề nghị với họ noi gương, bắt chước người Samari nhân lành. Chúa nói: " Hãy yêu như Chúa yêu ". " Yêu rồi làm gì thì làm ". Nói rất dễ nhưng thực hành yêu thương mới khó. Những hành động, những việc làm bác ái, yêu thương cụ thể thường khác với những lời nói hoa mỹ, những lời nói suông. Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hành hơn là chỉ nói: " Hãy đi và làm như vậy ". Thầy tư tế và thầy Lêvi tránh qua một bên mà đi vì họ giữ luật Do Thái, sợ đụng vào nạn nhân sẽ bị ô uế, sợ bọn cướp còn ẩn núp, còn rình mò đâu đây, sơ rắc rối và sợ phiền hà tới mình. Ở đời, sở dĩ, nhiều khi chúng ta không dám làm điều gì đó cho người anh em vì chúng ta sợ tốn phí, sợ mất thời giờ, sợ tốn công sức và sợ đủ thứ. Nên, thái độ của chúng ta thường thích được an thân cho khỏe, cho nhàn. Thầy tư tế và thầy Lêvi sợ lụy vào thân, sợ lỗi luật vv...Còn người Samari đã can đảm bất chấp mọi sự để chỉ biết có một việc trước mắt phải làm là cứu người bị cướp đánh bị thương, bỏ nửa sống nửa chết ở bên đường vắng. Thực tế, Chúa Giêsu đang dạy mọi người, đang dạy nhân loại bài học yêu thương. Yêu thương không có nghĩa là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân của mình.
Bài học này phải là bài học mỗi người chúng ta thuộc nằm lòng trên môi và trở nên động lực mạnh mẽ khiến chúng ta luôn thực hành bác ái. Hãy bắt chước người Samari nhân hậu vì người Samari nhân lành là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Hãy bắt chước các vị thánh và bao nhiêu người sống tốt lành khác. Mẹ Têrêsa Calcutta để lại mẫu gương bác ái tuyệt vời vv...Yêu rồi làm gì thì làm như thánh Gioan đã rao giảng và mãi mãi rao giảng. Yêu rồi làm sẽ giúp chúng ta có rất nhiều sáng kiến để phục vụ tha nhân, phục vụ mọi người. Yêu thật sự như Chúa yêu sẽ giúp chúng ta quên đi và luôn can đảm vượt qua mọi trở ngại để đến với những người đang cần chúng ta giúp đỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu như Chúa yêu để cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương sẽ không làm cho chúng con quên lãng. Amen.
82.Chúa Nhật 15 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Augustine, SJ)
Một câu chuyện có thật đã xảy ra tại Thụy Sĩ như sau:
Tại một tiệm ăn bình dân, sau khi đã mua thức ăn, một người đàn bà nọ bưng khay của mình đến một dãy bàn trống. Nhưng vừa ngồi xuống bàn ăn, người đàn bà mới chợt nhận ra rằng mình chưa có muỗng nĩa. Bà liền để chiếc khay xuống bàn và đứng lên đi tìm muỗng nĩa. Nhưng khi trở lại bàn ăn, bà ngạc nhiên vô cùng vì một người da đen đang ngồi ngay trước mâm của bà và đang ăn chính thức ăn mà bà đã mua.
Người đàn bà nghĩ bụng đây hẳn là một tên du thủ du thực, mặt dày mặt dạn. Nhưng nhìn kỹ, người đàn bà nhận thấy kẻ đối diện với mình không hẳn là một kẻ bất lương, trái lại còn có vẻ đàng hoàng và trí thức là khác.
Bà ta ngồi xuống bàn xin phép người đàn ông da đen và chung phần ăn còn lại trong mâm. Người đối diện với bà không lên tiếng, nhưng lại nở một nụ cười rất thân thiện. Ông giúp người đàn bà lấy thức ăn bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, tử tế và đầy tình thân thiện. Thỉnh thoảng ông nhìn người đàn bà rồi mỉm cười. Cứ thế trong thinh lặng bà dùng hết phần ăn trong khay.
Sau đó, người đàn ông da đen đứng lên ra hiệu cho người đàn bà ngồi yên tại chỗ. Một lúc sau ông trở lại với một gói khoai tây chiên và đặt trước mặt người đàn bà. Lần này hai người cùng lặng lẽ chia nhau ăn hết gói khoai tây. Sau đó, người đàn ông đứng lên mỉm cười, ngã đầu chào người đàn bà rồi đi luôn.
Lân cận chưa phải là thân cận
Như bừng tỉnh sau một cơn mê, người đàn bà đứng dậy tìm mãi mà không thấy cái xách tay của bà đâu. "Thì ra cái tên da đen này đã đánh cắp cái xách tay của mình. Bà định hô lên cho người ta chạy đến và chặn bắt kẻ gian. Nhưng quay lại dãy bàn ăn nơi bà vừa đứng dậy, người đàn bà nhận ra một mâm thức ăn còn nguyên vẹn nhưng không có muỗng nĩa và bên cạnh đó có cả túi xách tay của bà nữa.
Người đàn bà bỗng nhận ra bà đã phạm một lầm lẫn lớn. Đó là không phải người đàn ông da đen đã ăn phần ăn của bà và đã đánh cắp xách tay của bà mà chính bà đã lầm bàn ăn và đã ăn phần ăn của ông ta.
Câu chuyện vừa kể có vẻ như chuyện tiếu lâm mà thôi chẳng ăn nhằm gì với bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng nghĩ cho kỹ sẽ thấy nó giúp ta hiểu thêm vấn đề "ai là người thân cận của tôi." (c.29), chính là vấn đề mà bài dụ ngôn người Samari tốt lành có ý trả lời.
Vấn đề này được nêu lên với Thầy Giêsu khi Thầy nhất quyết lên Giêrusalem bởi vì sắp tới ngày Thầy được rước về trời (Lc 9,51). Thầy không lên Giêrusalem một mình. Có rất đông người cùng đi đường với Thầy. Thầy quay lại bảo họ: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Lc 14,25-27).
Ngay ở bước đầu của cuộc hành trình lên Giêrusalem, Thầy đã đòi hỏi các môn đệ phải từ bỏ mọi sự như điều kiện để theo Thầy (Lc 9,57-62). Riêng với bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay, đó là lúc Thầy Giêsu hết lòng ngợi khen "Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Lc 10, 21). Chính đó là lúc một nhà thông thái về Luật đạo đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Nhưng Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi là: "Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Nhà thông luật buộc phải trích sách ĐNL 6,5 và Lv 19,18 dạy rằng: Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình." Khi Đức Giêsu bình phẩm và nói rằng "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống", nhà thông luật nêu thêm thắc mắc để chứng tỏ câu hỏi ông nêu với Thầy Giêsu là đáng kể. Thắc mắc đó là: "Ai là người thân cận của tôi?" Dụ ngôn người Samari tốt lành mà Thầy Giêsu kể chính là để giải đáp thắc mắc đó.
Vấn đề thiết yếu là lòng thương xót
Dụ ngôn này đặt người nghe trước cảnh một người bị cướp bóc lột và đánh nhừ tử rồi để nửa sống nửa chết trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Đó là một người hoàn toàn vô danh mà người kể không hề cho biết chi tiết nào khác. Một người trong tình trạng đó chẳng thể hứa hẹn gì cho người tới giúp mình ngoài sự phiền hà. Vậy thì ai là người chấp nhận bị phiền hà và chấp nhận vì lý do nào?
Dụ ngôn cho thấy xuất hiện trước hết là một thầy tư tế. Vừa trông thấy nạn nhân, ông liền tránh qua một bên mà đi. Kế đến là một Thầy Lêvi. Ông cũng vậy. Vừa thấy nạn nhân, ông liền bước qua bên kia đường mà đi. Ta không được cho biết lý do tại sao hai người vừa nói lại hành xử giống nhau như vậy đối với nạn nhân đang cần họ giúp đỡ. Có vẻ như hai người ấy có chuyện gì gấp phải lo nên buộc phải sang bên kia đường để đi tiếp cho được việc. Cũng có thể cả hai đều lo việc tế tự nên buộc phải tránh tình trạng nhơ nhớp do tiếp xúc với người ngoại đạo, nhất là với người chết. Dù sao dụ ngôn cho thấy con người được tự do hơn cả để đáp lại tiếng gọi của tình thương, không phải là người có địa vị xã hội như thầy tư tế hoặc thầy Lêvi, nhưng là một người "giáo gian" Samari! Người Do Thái không những tránh giao thiệp với người Samari mà còn khinh dễ họ vì họ vừa lai chủng tộc vừa "lai tôn giáo" theo nghĩa niềm tin của họ có nhiều dị biệt khác hẳn với Do Thái Giáo. Thế mà con người "bé mọn Samari" này lại có khả năng tỏ ra cho nhà thông luật biết thế nào là trở nên thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp (c.36). Dù sao Thầy Giêsu đã có thể nói với nhà thông luật rằng "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (c.37) tức là làm như người Samari đã làm!
Biểu lộ con người bên trong
Trở lại với câu chuyện có thật đã xảy ra bên Thụy Sĩ. Điều nổi bật trong câu chuyện là sự tình cờ. Chính qua sự tình cờ mà hai nhân vật biểu lộ con người bên trong của mình và cho thấy ai là người thân cận với mình.
Là người ai cũng có thể lầm lẫn. Điều quan trọng là khi xảy ra lầm lẫn, đương sự hành xử thế nào, cách hành xử ấy có thể cho thấy tính chất tốt lành của đương sự chăng hay nó cho thấy điều ngược lại. Rất tiếc rằng người đàn bà trong suốt câu chuyện đã hành xử thuần tuý theo quyền sở hữu của mình. Bà đã bỏ tiền ra mua một bữa ăn và giữ toàn quyền trên phần ăn đó. Ai mà vi phạm quyền đó của bà, người ấy sẽ lãnh đủ. Trong chốc lát bà đã nghĩ xấu về người đàn ông da đen, cho đó là tên du thủ du thực, mặt dầy mặt dạn. Thiếu chút nữa là bà đã hô to để chặn bắt ông ta vì nghĩ ông ta đã đánh cắp cái xách tay của bà, lý do cũng vì quyền sở hữu.
Coi trọng con người hơn quyền sở hữu
Ngược lại, người đàn ông da đen trong câu chuyện đã coi trọng bản vị người đàn bà lầm lẫn hơn phần ăn của ông. Ông đã giúp người đàn bà lấy thức ăn nơi phần ăn của ông bằng một cử chỉ tử tế đầy tình thân thiện. Về cuối câu chuyện, ông còn đứng lên mua thêm một gói khoai tây chiên để hai người cùng ăn. Khi từ biệt ông không quên mỉm cười và ngả đầu chào người đàn bà cách lịch sự.
Một cách nào đó, người da đen trong câu chuyện là hình ảnh nho nhỏ về người Samari tốt lành hiện đại. Ông không vội nghĩ xấu về người khác, ngược lại còn tỏ ra tử tế và thân thiện với người lầm lẫn, bỡi lẽ ông coi trọng con người hơn tất cả những điều mình sở hữu.
(Nguồn vietcatholic.org)
83.Hãy đi và làm như vậy
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Lc 10: 25-37 Trước mắt người Do Thái thì dân Samari thật đáng khinh miệt. Họ bị xem là người lai căng vì đã kết hôn với ngoại kiều, làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ bị khinh miệt vì đã tôn thờ các tà thần ngoại lai. Thế nên người Do Thái xem người Samari như những người hạ cấp đáng bị tẩy chay...
Trước mắt người Do Thái thì dân Samari thật đáng khinh miệt. Họ bị xem là người lai căng vì đã kết hôn với ngoại kiều, làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ bị khinh miệt vì đã tôn thờ các tà thần ngoại lai. Thế nên người Do Thái xem người Samari như những người hạ cấp đáng bị tẩy chay.
Thế nhưng hình ảnh của người Samari trong Tin Mừng hôm nay lại đẹp tuyệt vời. Giá trị của người đó gia tăng thật cao.
Câu chuyện rất hấp dẫn: Tại một khúc đường vắng từ Giêrusalem đến Giêricô có một khách bộ hành bị bọn cướp xông ra trấn lột hết tiền bạc của cải, lại còn đánh người ấy trọng thương nằm thoi thóp, nửa sống nửa chết giữa quảng đường hoang vắng.
Thế rồi, một tia hy vọng loé lên trong đầu óc nạn nhân khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang từ xa đi tới. Khi người bộ hành gần đến, niềm hy vọng càng dâng cao vì đây là một vị tư tế, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh. Nhưng rồi vị tư tế cố tình rảo bước cho nhanh, lánh qua một bên rồi đi thẳng, để mặc anh nằm thoi thóp giữa đường.
Một lát sau, có một thầy trợ tế đi qua, niềm hy vọng của nạn nhân lại được bùng lên nhưng rồi vụt tắt, vì thầy trợ tế chỉ đảo mắt nhìn nạn nhân rên siết, rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh. Có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn ẩn náu đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia...
Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp từ xa vẳng lại. Người thứ ba xuất hiện, một người dân Samari. Ôi thôi! Chẳng hy vọng gì nơi hạng người nầy, hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là lai căng và rối đạo!
Thế nhưng thật bất ngờ, người Samari cho lừa dừng lại, bước xuống, cúi mình trên nạn nhân, cảm thương con người xấu số.
Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Ta hãy xem xét khẳng định của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống. Đẳng thức yêu thương bằng được sống đối với chúng ta có hoàn toàn rõ ràng hay không? Nếu có, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, giòng máu Tin Mừng đang chảy trong huyết quản của chúng ta. Nhưng đây là điều phải kiểm chứng.
Đôi khi trong cuộc sống chúng ta vẫn vô tâm như vậy. Nhiều người đã được sống hạnh phúc nhưng họ đâu biết rằng hạnh phúc của họ là nhờ sự chắt chiu từng hy sinh âm thầm của biết bao nhiêu người. Có thể đó là sự hy sinh không mệt mỏi của cha, của mẹ từng ngày vất vả trên nương đồng, hay trên công trường. Có thể đó là sự hy sinh nhịn nhục của những người thân chịu thiệt thòi để họ được hạnh phúc. Có thể đó là sự hy sinh nhường nhịn của bạn bè để họ được vui hơn trong cuộc sống. Thế mà, nhiều người vẫn tưởng rằng mình lớn lên không cần ai giúp đỡ. Lối suy nghĩ đó đã dẫn đến một đời sống ích kỷ, hẹp hòi, một lối sống dửng dưng đến xa lạ với đồng loại.
Ở đời vẫn còn đó biết bao người chắt chiu từng hạt gạo, gom góp từng miếng vải để giúp kẻ cơ hàn. Cuộc đời vẫn còn đó biết bao người hy sinh cả cuộc sống mình để phục vụ các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân nan y. Vẫn còn đó cả hàng triệu người đang đổ mồ hôi vật vã trên công trường, trên nương đồng để làm ra của cải và sản phẩm cho hàng tỉ người trên trái đất hưởng dùng.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao người biết hy sinh vì tha nhân, biết kiến tạo niềm vui trong những giọt mồ hôi lao nhọc để phục vụ tha nhân. Thế nhưng, giòng đời vẫn còn đó những trái tim khô cằn, những tâm hồn lạnh nhạt đến dửng dưng với nỗi đau của đồng loại. Họ đâu biết rằng cuộc đời của họ đang bị cuốn trôi theo một giòng chảy của trần đời. Họ được đón nhận thì cũng phải biết trao ban. Vì chẳng ai có thể giữ mãi cho mình được điều gì mãi mãi. Tất cả những gì mình có rồi một mai cũng bị cuốn trôi theo thời gian.
Khi Chúa Giêsu nói đến yêu thương ở đây, đây không phải là một trong những niềm đam mê, tình yêu hoặc tình bạn, là những thứ đưa chúng ta lên chín tầng mây, mà là tình yêu thương anh em rất có tính cách bó buộc, cụ thể. "Phải làm điều đó!". Và đây không luôn luôn là điều làm thích thú.
Người Samari đã chọn một cuộc sống hao tổn và nồng nhiệt. Trong khi thấy người đàn ông nằm đó, ông có lẽ đã cảm thấy cần phải đi qua cho nhanh, nhưng sức mạnh của cuộc sống của ông chiến thắng những vấn nạn đang đến với ông, Chúa Giêsu nói: ông động lòng thương và ông làm mọi sự cần thiết. Ông không quên gì cả, cho mà không tính toán. Không chờ đợi một lời cảm ơn nào và có lẽ vừa đi vừa hát lâm râm, hạnh phúc vì đã làm một người sẵn sàng phục vụ con người. Hai người kia sẽ tiếp tục sống lay lắt. Còn người Samari, ông đang sống triệt để. Chúa Giêsu nói: "Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống".
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nhà thông luật hôm nay phần nào cũng có thể được ta hiểu theo viễn tượng của kinh nghiệm nhỏ của tuổi thơ tôi ngày xưa. Người luật sĩ đến với Chúa Giêsu để tìm câu trả lời cho thắc mắc quan trọng nhất của cuộc đời: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?". Và đây cũng là thắc mắc của mọi người, không ai có thể dập tắt được câu hỏi này trong tâm hồn họ. Tạm thời, họ có thể dẹp qua một bên câu hỏi này, vì những lo toan cho cuộc sống hoặc vì những mê lợi của lợi danh, của quyền lực... Nhưng rồi vào lúc nào đó con người và mỗi người chúng ta cũng sẽ phải đặt ra cho mình câu hỏi này: "Tôi sống đây để làm gì? Và tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêxa Calcutta nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình".
Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.
Chúa Giêsu đã phải dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để soi sáng cho nhà thông thái, để rồi rốt cuộc như thể chính ông cũng khám phá ra được chân lý. Chúa Giêsu không đặt vấn đề như nhà thông thái: "Ai là người thân cận của tôi", mà Ngài đã đặt lại vấn đề: "Ai đã trở nên người thân cận của người anh em bị nạn kia", và nhà thông thái đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ đã tỏ ra lòng thương đối với người đó".
Tâm hồn cần có tình thương, nhất là cần được đầy tràn tình thương của Chúa thì mới dễ dàng trở thành tâm hồn thân cận của mọi người, trở thành người anh chị em của mọi người, bất luận người đó là ai. Không phải dễ thực hiện sáu chữ của Chúa Giêsu cho nhà thông thái: "Hãy đi và làm như vậy".
Người Samaria là một anh chàng không có đạo, mà không có đạo cũng đồng nghĩa với không thể sống bác ái lương thiện. Quan niệm Do Thái hẹp hòi và thiển cận ấy, như một mẫu mực để những ai muốn có cuộc sống đời đời phải nhìn đó mà noi theo. Người Samaria ngoại đạo đã trổi vượt hơn những người chính thống, đạo đức nhất của xã hội và Giáo Hội lúc bấy giờ là thầy Lêvi và vị tư tế. Trổi vượt trong lãnh vực yêu thương, cứu giúp những người gặp vận nạn hiểm nguy trong cuộc sống. Còn chúng ta thì sao?
Xã hội ngày nay có nhiều kẻ thờ ơ với tha nhân, nhưng những người Samaria hiện đại cũng không thiếu. Họ có khi mang danh hiệu Kitô hữu, có khi mang danh hiệu Phật tử, có khi mang danh hiệu cộng sản và có khi chẳng mang một danh hiệu nào cả. Nhưng họ giống như Đức Kitô đã sống và họ tiếp cận được với Thiên Chúa cũng như với tha nhân. Vậy thì để trở nên những người Samaria thời buổi hôm nay, chúng ta đã thực sự có được một trái tim mở rộng, một thái độ quan tâm đến mọi người, mọi việc kế cận với chúng ta hay chưa?
84.Cử chỉ đẹp của người môn đệ Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Ngày mỗi ngày trên và qua các phương tiện truyền thông xã hội, chúng ta đọc được nhiều bản tin. Nhiều bản tin chúng ta vừa xem và vừa tức như hai chữ “tin tức” ghép lại. Nhiều khi tức vì chẳng hiểu sao con người này hôm nay tỏ ra vô cảm trước những khổ đau, hoạn nạn của người khác đến như vậy.
Dụ ngôn người Samari nhân lành trong Tin Mừng hôm nay (Lc 10,25-37) chúng ta thấy thầy Tư tế và thầy Lêvi tuy là những người đạo đức của đạo Dothái nhưng lại là những người vô cảm trước người bị cướp đánh dọc đường.
Chúa Giêsu muốn cảnh báo chúng ta đừng bắt chước hai con người ấy, mà hãy làm như người Samari nhân lành, tuy là người ngoại đạo nhưng lại cứu giúp người gặp hoạn nạn trên đường. Người Samari nhân lành lành chính là mô hình mẫu của mọi Kitô hữu.
Thật vậy, với tất cả tâm tình đó, Tin Mừng hôm nay chỉ muốn làm nổi bật cái tư cách dễ thương của người Samari nhân hậu.
Ta thấy hình ảnh rất đẹp khi ông ta xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang nằm quằn quại trên vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh đây là ai? Là người Giuđa hay Samaria. Hai dân này vẫn coi nhau như cừu địch. Ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình mà lại không được như mình. Và ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Thế nên ông đổ dầu, đổ rượu vào các vết thương, băng bó mau lẹ, vực người ấy lên ngựa, phóng mau đến quán trọ gần nhất. Sau khi thuốc thang cho người ấy đỡ, ông giao lại cho chủ quán săn sóc và dặn rằng khi trở về ông sẽ trang trải mọi phí tổn.
Như vậy ai là kẻ cận thân, gần gũi với người bị nạn, nếu không phải là người Samaria nhân hậu này, mặc dù ông ta không cùng nòi giống và tôn giáo với người kia? Ðang khi hai thầy tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc dạy đạo đức lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào là kẻ xa lạ… Chính những hành vi bác ái làm chứng ai thật là kẻ có lòng nhân? Ai là người nhân hậu? Ai mang bản tính nhân loại trong mình? Ai là người thật vì đã cư xử xứng đáng với nhân phẩm? Thế nên Chúa Giêsu kết luận: hãy đi và làm như vậy. Và tác giả Luca còn ngầm nói rằng: và như vậy rõ ràng Chúa không ưa lễ dâng, nhưng tìm lòng thương xót; và chính tình thương sẽ xóa bỏ được hận thù để làm cho những kẻ trước đây xa lạ trở nên cận thân và gần gũi.
Giáo huấn của Chúa Giêsu không khác Luật của Cựu Ước… và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.
Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu cho câu hỏi: “Ai là người thân của của tôi?” sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả “kẻ thù” mình.
Tác giả làm cho cuộc đối thoại nên phức tạp hơn, vì không đặt trực tiếp câu trả lời trên môi Chúa Giêsu, nhưng lại để Người trả lời bằng hai câu hỏi, với mục đích kéo người đối thoại vào trong cuộc. Cách đối thoại này diễn tả rất tốt khung cảnh của một dụ ngôn, là nhắm giúp triển khai tiệm tiến cuộc đối thoại và đào sâu việc giải thích điều răn.
Vị thông luật không hỏi để biết điều mà hẳn là ông không biết, nhưng hỏi để kiểm tra ý kiến của Chúa Giêsu. Thế nhưng vị Thầy lại chuyển trả lại câu hỏi, đưa ông ấy đến chỗ phải diễn tả rõ ra tư tưởng của ông. Ông liền trích dẫn hai đoạn Lề Luật, tức là Ngũ Thư. Đoạn thứ nhất, là Đnl 6,5, thuộc về lời kinh Do Thái cổ điển được coi như một lời tuyên xưng đức tin căn bản (“Nghe đây, Israel”: Đnl 6,4-9); trái lại, bản văn thứ hai, lấy từ Lv 19,18, dẫn xuất từ một hợp tuyển các điều răn bên trong “Bộ Luật tư tế về sự thánh thiện” (Lv 17–26).
Đặt hai điều răn này bên nhau (Mt 22,38-39 nhấn mạnh thêm) là do truyền thống Kitô giáo, nhưng tác giả Lc đặt ngay trên môi vị thầy Do Thái với ý cho thấy ông rất chuyên về lý thuyết. Phản ứng của Đức Giêsu là một lời bình tích cực, chuẩn nhận cách “đọc” bản văn Kinh Thánh như thế, nhưng Người thêm một lệnh thực tiễn: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (c. 28). Để được thừa hưởng sự sống đời đời, biết lý thuyết mà thôi thì không đủ; điều cần thiết là bền chí thực hành lý thuyết ấy mãi mãi.
Chúa Giêsu đã cố tình chọn một người Samari làm kiểu mẫu. Hạng người lạc đạo ấy, không hể có kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về dức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Israel chân chính.
Chúa Giêsu cho thấy rằng trong vấn đề yêu thương, không thể vạch ra một giới hạn chính xác. Người không nêu ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như trong những trường hợp khác, Người thay đổi hướng nhìn, mở rộng chân trời. Vị thông luật hỏi: “Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”. Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi: “Ai đã tỏ ra là [ai đã trở thành] người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Người đã thay đổi tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu hoàn toàn trả lời cho câu hỏi đầu tiên của vị thông luật: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (c. 25).
Những lời cuối cùng của Chúa Giêsu gặp lại lời “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (c. 28) và tóm tắt sứ điệp của Người: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Hãy trở thành người thân cận đối với kẻ đang có nhu cầu và bạn sẽ “được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (c. 25).
Tất cả các lề luật đều quy về giới luật yêu thương. Luật yêu thương là căn cốt của tất cả cuộc sống. Sống để yêu và yêu để sống. Luật đó đã được in ghi sâu tận tâm can của mọi loài thụ tạo. Luật ở tại tâm: “Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.” (Đnl 30,14).
Chúng ta không phải tìm kiếm đâu xa, tâm yêu thương ở sẵn trong lòng ta. Hạt giống yêu thương đã được Thiên Chúa gieo trong lòng mỗi người. Chúng ta có bổn phận tưới gội, chăm sóc và làm cho hạt giống sinh xôi nảy nở. Trái tim yêu thương cần mở rộng để cho đi và đón nhận. Yêu như dòng nước luôn chảy, có ra có vào và có lên có xuống. Tình yêu như dòng nước nếu bị đóng khung khép kín, tình yêu sẽ cô đơn, lẻ loi và giá lạnh.
Thánh Gioan đã tuyên xưng: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1 Ga 4,8). Vì muốn chia sẻ tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng mọi kỳ công trong vũ trụ. Mọi vật và mọi loài được hiện hữu trong tình yêu của Thiên Chúa. Dấu ấn tình yêu được lan tỏa khắp cùng vũ trụ. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự theo thánh ý. Tình yêu có những cách thể hiện khác nhau giữa muôn loài. Cảm súc tình yêu được bày tỏ qua sự sống. Từ những loài có sự sống đơn sơ đến phức tạp đều được ngụp lặn trong biển tình của Thiên Chúa. Sống để yêu và được yêu. Kinh Thánh đã nói 686 lần về tình yêu ‘Love, loved, loving, loves, lover’, yêu Chúa và yêu người.
Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi. Chỉ khi đó, đời sống ta mới trở thành con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu. Vị thông luật tưởng có thể giữ cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ Đức Giêsu đã đưa được ông về bình diện những thực tại sống động và đặt ông trước một chọn lựa: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Ông không bao giờ ngờ được rằng đời thường có thể đặt ông trước những chọn lựa éo le không sao tránh né được!
Câu chuyện hôm nay đẹp. Bài học này cần được suy nghĩ. Nhưng cẩn thận, nếu chúng ta chỉ dừng lại trong lãnh vực tư tưởng thì sẽ không đạt được ý của tác giả. Thánh Luca muốn chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ hiểu đạo; phải thi hành lòng thương xót, chứ không phải chỉ biết đạo dạy mến Chúa yêu người.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam