Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 67

Tổng truy cập: 1367475

NGƯỜI LÀM LỚN

Người làm lớn

 

MINH HỌA LỜI CHÚA

1. Ngưới lớn nhất

Tại một vùng hoang dã, những tên giang hồ sống chung trong một căn trại, có một phụ nữ ở với họ. Phụ nữ này đã gian díu với một tên trong nhóm đó và đã có thai. Đến ngày sinh, chị yếu nhược quá nên đã chết, để lại đứa con còn non nớt. Từ ngày có đứa trẻ trong căn trại, đời sống của đám giang hồ đã thay đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc rượu chè ban đêm để cho đứa bé ngủ yên. Họ không dám nói tục tằn thô lỗ trước mặt nó …

2. Đầy tớ phục vụ

Một tu sĩ lớn tuổi đã nhiều lần cầu xin Chúa hiện ra củng cố niềm tin cho ông. Nhưng điều đó chưa bao giờ xảy ra. Và trong lúc ông không còn hy vọng điều đó xảy đến cho ông thì ngày nọ Chúa đã hiện ra. Ông hết sức vui mừng tiếp rước Chúa, nhưng ngay lúc đó một hồi chuông vang lên, báo hiệu đến giờ phát chẩn cho kẻ nghèo. Hôm nay lại đến phiên ông phát chẩn cho họ.

Vị tu sĩ bị xâu xé giữa nhiệm vụ và cuộc diện kiến với Chúa. Nhưng ông đã can đảm ngưng cuộc diện kiến, mặc dầu ông vô cùng tiếc nuối, để đi phát chẩn cho người nghèo. Vừa làm xong nhiệm vụ, ông chạy nhanh về phòng, và ông không thể tin mắt mình, ông thấy Chúa còn ở lại chờ ông. Ông quỳ xuống cảm tạ Chúa, Chúa liền nói với ông, “Nếu con không đi phát chẩn cho người nghèo, Ta đã không ở lại chờ con.”

3. Bị bắt vì giúp người nghèo

Tại Baltimore ờ Hoa Kỳ, cảnh sát đã bắt giữ một thanh niên vì có hành động lạ thường. Anh đã nhận được ột gia tài kếch sù. Anh quyết định phân phát cho người nghèo, nên anh đi từ nhà này đến nhà khác hỏi, “Ông bà có túng thiếu không? Nếu tôi cho tiền ông bà, ông bà có hứa sẽ sử dụng tiền đó vì ích lợi cho ông bà không?” Và như thế, ai đồng ý thì người thanh niên này trao cho một số tiền. Cảnh sát bắt giữ anh vì hành động lạ thường này. Nhưng sau khi điều tra kỹ lưỡng, họ không thấy anh có hành động phạm pháp nào, vì trong nước không có điều luật nào cấm công dân lấy tiền của mình giúp đỡ kẻ khác.

4. Tuổi thơ là mẫu mực

Nhà thần bí học nổi tiếng của Ấn Độ là Ramah Chrisna thường kể câu chuyện như sau. Ở ngôi làng hẻo lánh thuộc bang Bengala, một quả phụ nghèo có đứa con trai thơ ngày ngày phải băng qua một khu rừng để đi học. Một hôm em nói với mẹ, “Mẹ ơi! Con không dám đi qua khu rừng một mình nữa. Mẹ tìm người đi với con.”

Người mẹ nhìn con ái ngại nói, “con ơi! Nhà mình nghèo, làm sao thuê được người đưa đón con. Con hãy nói với ông Chrisna là thần của khu rừng đó giúp đưa đón con.” Tin lời mẹ, mỗi ngày đi học, cậu bé kêu thần Chrisna đưa đi rước về. Ngày nọ, nhân ngày sinh nhật của thầy giáo, thấy các bạn lớp chuẩn bị mua sắm quà cáp cho thầy, cậu bé cũng xin tiền mẹ mua quà cho thầy, nhưng bà than thở, “Con ơi! Nhà mình nghèo, đâu có tiền mua quà cho thầy. Con cứ xin thần Chrisna giúp con.”

Và theo lời nó xin, thần Chrisna đã cho nó món quà. Nó đem trao cho thầy giáo. Ông thầy thấy món quà của nó đơn sơ quá, không muốn mở ra, nên trao cho người làm bếp. Đó là một gói sữa tươi. Người đầu bếp mở gói ra, đổ sữa vào chai. Nhưng lạ thay, anh đổ đầy chai nầy đến chai khác mà gói sữa vẫn còn nguyên vẹn. Thầy giáo nghe biết thế thì hỏi nguyên do, cậu bé bảo là của thần Chrisna. Không tin việc lạ đó, thầy giáo bảo cậu dẫn đến gặp Chrisna. Nó liền đưa thầy giáo và các bạn đến khu rừng. Nó kêu gọi mãi mà chẳng thấy thần nào. Nó khóc òa lên nài nỉ, “Thần Chrisna ơi! Nếu thần không đến thì mọi người cho là con nói dối.”

Và nó nghe có tiếng vọng lại, “Con ơi! Ta không thể đến được. Ngày nào thầy giáo con có niềm tin và trái tim đơn sơ như con, Ta mới đến.”

5. Người đàn bà nổi tiếng

Thế giới hiện đang chú ý đến một người đàn bà nổi tiếng nhất của thế kỷ, đó là mẹ Têrêsa Calcutta mới qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1997. Toàn thể nhân loại nhất là những người cùng khổ đều thương tiếc khi nghe tin mẹ qua đời. Tại sao cả thế giới chú ý đến mẹ Têrêsa nhiều đến thế? Vì mẹ đã trọn đời hy sinh phục vụ người nghèo khổ, bệnh tật, đau khổ.

Năm 1937, nữ tu Têrêsa được cử làm giám đốc một trường trung học dành riêng cho học sinh giàu tại Calcutta. Nữ tu còn nhớ rõ lời căn dặn của người mẹ, “Con hãy nhớ, con được gởi đến Ấn độ là để phục vụ người nghèo.”

Trước cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh đau xót của các bệnh nhân, những người phong cùi, và nhất là các trẻ em và những người già yếu lê lết ngoài đường phố, nữ tu Têrêsa không thể an tâm tiếp tục làm giám đốc, nhất là giám đốc của một trường dành riêng cho học sinh giàu.

Năm 1946, nữ tu Têrêsa đang ngồi trên chiếc xe lửa chật chội gần bên những người cùng khổ, chị nghe như có tiếng thì thầm trong lòng, “Con hãy phục vụ người nghèo bằng cách đến sống với họ và như họ.”

Đây là lần thứ hai nữ tu nghe tiếng gọi như thế. Xác tín đây là tiếng Chúa gọi, chị đã trình lên bề trên, và đúng một năm sau, chị được bề trên và Đức Giám mục địa phương cho phép ra khỏi dòng để đến sống với những người nghèo khổ.

Cởi chiếc áo dòng của các nữ tu, chị Têrêsa choàng vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn độ, giống như người nghèo, phục vụ người nghèo, chia sẻ cuộc sống của người nghèo. Chị thực sự trở nên người nghèo giữa những người nghèo, nhất là chị “nhìn thấy Chúa trong những người nghèo.” Năm 1974, mẹ trả lời cho một cuộc phỏng vấn, “Tôi thấy Chúa trong mỗi người. Khi tôi rửa các vết thương cho người cùi, tôi nghe như tôi rửa cho chính Chúa Giêsu.”

6. Tôn Ngộ Không.

Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh còn học 78 phép biến hoá, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời. Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan. Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu  mã quan là quan coi ngựa.  Ngộ bực tức vì ngu mà bị mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện.

Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn  đi tìm chân lý.  Khi Ngộ Không bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu  làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết.  Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý.

Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau. Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không. Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không.

(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr. 182)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các  ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiều gì về sứ mạng Đức Giêsu. Bởi đó,  Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.

Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.

7. Nghị viên Paedateros.

Người Hy lạp có một câu truyện về một người ở thành Spartes tên gọi Paedateros là một ứng củ viên. Người ta chọn và bầu ra ba trăm người để cai trị thành Spartes. Paedateros là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói:

– Tiếc thật, người ta không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh, anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào”?

Nhưng Paedateros thản nhiên đáp:

– Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Spartes này còn có ba trăm người có tài, có đức hơn tôi.

Đây là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.

Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: “Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui”.

8. Chân phước Charles de Foucauld.

Cha Charles de Foucauld,  biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời ! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật.  Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin Mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn vê với Chúa.

9. Âm thầm phục vụ

Sáu trong số bảy anh em đi làm hàng ngày; người thứ bảy lo công việc nhà. Khi sáu anh em lao động mệt nhọc trở về nhà, họ thấy nhà gọn gàng và sạch sẽ, cơm đã sẵn, mọi thứ đều tốt đẹp và thoải mái. Họ biết ơn về điều này và khen người em út.

Nhưng một trong những anh em muốn tỏ ra khôn ngoan hơn những người khác. Anh cho là người em út lười biếng. Nó cũng nên có một việc để có cơm bánh hàng ngày. Những anh em khác cũng nghĩ thế. Nên họ nhất trí không cho người em út làm công việc trước đây.

Sáng hôm sau, họ bảo cậu cùng đi và tìm cho cậu một công việc. Tối đến, họ trở về nhà, mệt đói và bộ mặt cáu kỉnh.

Không ai chuẩn bị giường chiếu và lau nhà. Không có gì trên bàn ăn.

Họ nhận ra họ đã hành động ngu xuẩn khi ngăn cản người em út làm công việc phục vụ âm thầm.

Họ cảm thấy hối tiếc. Họ phục hồi công việc của người em út. Tình trạng êm ấm trước đây đã trở lại với gia đình

10. Bò và lừa.

Khi Đức Maria và Thánh Giuse đang trên đường đến Bêlem, thiên thần hiện ra với đàn súc vật để chọn lấy một con có thể giúp đỡ Thánh Gia. Sư tử tình nguyện trước. Nó nói: “Chỉ có tôi là chúa sơn lâm đáng phục vụ người cai trị thế giới. Tôi sẽ xé xác kẻ nào đến gần hài nhi.”

Thiên thần nói: “Bạn hùng hổ quá”.

Cáo tinh khôn theo dõi và với vẻ mặt vô hại, nó nói: “Tôi sẽ hết sức cung phụng trẻ Giêsu, mỗi sáng tôi sẽ bắt một con gà cho mẹ ngài”.

Thiên thần nói với cáo: “Bạn xảo quyệt quá”.

Rồi con công đến khoe màu sắc tuyệt vời của cái đuôi. Nó nói: “Tôi sẽ trang hoàng ngôi nhà nhỏ bé này đẹp hơn cả đền thờ Salômon”.

Thiên thần nói: “Bạn hão huyền quá”.

Nhiều con khác đến và cũng muốn giúp đỡ nhưng không con nào được chọn. Sau cùng, thiên thần rảo mắt nhìn quanh và thấy một con lừa và một con bò đang làm việc với một bác nông dân. Thiên thần gọi chúng lại và hỏi: “Các bạn có gì giúp đỡ Thánh Gia không?”.

Lừa cụp tai xuống trả lời: “Không có gì. Chúng tôi chả được học hành, càng cố học càng dốt, nhưng chúng tôi khiêm tốn và kiên nhẫn.” Bò ngượng ngùng tiếp lời: “Vâng, có lẽ chúng tôi chỉ có thể làm được một vài việc nhỏ như lấy đuôi đuổi ruồi thôi”

Thiên thần nói: “Được lắm, Tôi cần hai bạn.”

 

 

 

 

 

16. Người công chính bị bách hại

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

 

“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người” (Mc 9,31)

Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến, Trong một thế giới còn nhiều sự dữ và nhiều người xấu, người sống công chính có thể chịu nhiều thiệt thòi vì bị người khác dèm pha, đố kỵ, hãm hại… Tuy nhiên, những khổ đau mà người công chính phải chịu lại sinh nhiều ơn ích cho chính những kẻ làm hại mình.

Kitô hữu chúng ta được kêu mời noi gương Ðức Giêsu sống công chính như thế đó. Tuy nhiên, nếu không được Chúa giúp sức thì chúng ta khó mà sống được như thế.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta can đảm sống theo gương Ngài.

Gợi ý sám hối

Nhiều lần chúng ta ganh ghét đố kỵ với những người tốt hơn chúng ta.

Nhiều lần vì sợ dư luận dèm pha, chúng ta không dám sống tốt như lý tưởng kitô giáo đòi hỏi.

Nhiều lần vì muốn yên thân, chúng ta không can đảm bênh vực những người vì làm tốt mà bị ganh ghét.

Lời Chúa

Bài đọc I (Kn 2,12.17-20)

Những lý do khiến phường vô đạo bách hại người công chính:

Người công chính chống lại những việc làm xấu xa của phường vô đạo;

Cách sống tốt của người công chính làm lộ rõ cách sống xấu xa của chúng;

Phường vô đạo bách hại người công chính để thử xem Thiên Chúa có bênh vực người công chính hay không.

Ðáp ca (Tv 53)

Mặc dù bị phường vô đạo chống đối và tìm hại mạng sống, nhưng người công chính vẫn trông cậy vào Chúa và kêu xin Chúa cứu giúp mình.

Tin Mừng (Mc 9,29-36)

Chính Ðức Giêsu mặc khải cho các môn đệ biết Ngài là ai: Ngài là Ðấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại.

Do đã quen với quan niệm về một Ðấng Messia vinh quang hiển hách, các môn đệ không hiểu gì cả. Nhưng không dám hỏi lại Ðức Giêsu. Và cũng vì đã quen với quan niệm thế tục ấy nên dọc đường các ông tranh luận xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời mà Ðức Giêsu thành lập.

Ðức Giêsu sửa dạy các ông: trong Nước Trời, đừng ai để ý tới địa vị lớn hoặc nhỏ. Ðiều thứ nhất phải để ý là phục vụ: càng có chức vụ cao thì càng phải phục vụ nhiều (để nhấn mạnh ý tưởng phục vụ, Ðức Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ). Ðiều thứ hai phải để ý nữa là có thái độ tiếp đón mọi người không phân biệt gì cả, dù là một người hèn hạ, vô ích thì người môn đệ Chúa cũng phải tiếp đón (để nhấn mạnh ý tưởng tiếp đón, Ðức Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ, tức là một con người không mang lại lợi ích gì cho kẻ tiếp đón nó, mà còn mang tới phiền muộn).

Bài đọc II (Gc 3,16–4,3) (Chủ đề phụ)

Thánh Giacôbê thuyết phục tín hữu từ bỏ thói xấu ganh tị tranh chấp:

Ở đâu có ganh tị tranh chấp thì ở đó có xáo trộn và đủ thứ xấu xa;

Người xây dựng hòa bình sẽ thu hoạch hoa trái là sự công chính;

Xung đột và chiến tranh bắt nguồn từ những ham muốn bất chính của con người.

Gợi ý giảng

* 1. Người công chính bị bách hại

Elia Wiesel, một nhà văn Do Thái từng đoạt giải Nobel, kể câu chuyện sau đây:

Hồi đó ông đã bị quốc xã Ðức bắt giam trong trại tập trung Auschwitz. Ðây là một trại giam nổi tiếng là tàn bạo. Thỉnh thoảng bọn cai ngục bắt một số người đưa vào phòng hơi ngạt cho họ bị chết một cái chết rất khủng khiếp. Một hôm, có một đám trẻ Do Thái được chọn để hôm sau được đưa vào phòng hơi ngạt ấy. Nhìn thấy đám trẻ ngày mai phải chết, Elia Wiesel động lòng thương nên xin bọn cai tù cho phép ông được ở chung với bọn trẻ ấy một đêm. Thật là ngạc nhiên, bọn cai tù đồng ý ngay. Ðêm đó Elia Wiesel kể cho đám trẻ hết chuyện này đến chuyện khác, mong làm chúng được vui. Nhưng kết quả trái ngược hẳn, ông không làm chúng vui được mà chỉ làm cho chúng khóc, và chính ông cũng phải khóc theo. Sáng hôm sau, ông buồn bã tiễn chân đám trẻ vào phòng hơi ngạt rồi trở về phòng giam của mình, mặt mày tiu nghỉu. Bọn cai tù thấy thế thì cười ngặt nghẽo. Thật là vô tình và cũng thật tàn nhẫn.

Câu chuyện trên chứa đựng những ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay. Qua chuyện ấy, chúng ta thấy sự trơ tráo của những kẻ làm điều ác, người vô tội bị bách hại và chiến thắng của sự dữ (bài đọc I); chúng ta cũng thấy một tấm gương phục vụ những người bé mọn mà Ðức Giêsu đề cao trong bài Tin Mừng.

Trong hoàn cảnh càng tối tăm bi thảm thì hành động phục vụ những kẻ bé mọn càng chói sáng rực rỡ. Trong trại tù Auschwitz, tất cả những gì tốt lành và tử tế đều bị chà đạp, còn những gì là ích kỷ, tự tư tự lợi thì lại được coi là khôn ngoan. Lòng thương xót thì hiếm hoi như một cánh hoa giữa mùa đông giá lạnh.

Elia Wiesel đã vươn lên trên tất cả. Ông dám mạo hiểm cuộc sống để kết bạn với những đứa trẻ sắp bị xử tử. Thực ra ông chẳng có câu trả lời nào để giải đáp cho các em, cũng chẳng làm gì được để cứu các em. Tất cả những gì ông làm được chỉ là cùng sống với các em trong những giờ cuối cùng của cuộc sống, để các em không cô đơn trong đau khổ. Phần nào đó ông là hình ảnh của Ðức Kitô.

Ðức Kitô là một người công chính. Tuy nhiên Ngài cũng phải chịu khổ: suốt đời Ngài đã bị kẻ thù săn đuổi. Sở dĩ Ngài bị như thế là vì Ngài quá tốt lành, tốt quá nên những kẻ gian ác không chịu nổi. Sự tốt lành của Ngài vạch trần sự gian ác của họ, Ngài càng tốt lành thì sự gian ác của họ càng lộ rõ.

Ðức Kitô đã chiến thắng, chiến thắng không phải bằng cách đè bẹp sự gian ác hay trốn tránh sự gian ác, mà bằng cách đối diện với nó và vượt qua nó. Ngài ban can đảm và hy vọng cho tất cả những ai hy sinh bản thân cho tha nhân vì sự công chính. (Viết theo Flor McCarthy)

Bàn về cao vọng

Có cao vọng không phải là gì sai trái cả. Thực vậy, sống thì phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên cao vọng có thể vượt quá tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình ước vọng.

Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh cuộc sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chí cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Ðức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiểu gì về sứ mạng Ðức Giêsu. Bởi đó, Ðức Giêsu gọi họ lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.

Ðức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vì cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.

Cao vọng sai làm hại cho sự hiệp nhất của cộng đoàn, nó biến thành ích kỷ và ganh ghét, và nó có thể sinh ra đủ thứ thái độ xấu xa đối với nhau.

Nghề nghiệp và địa vị

Khi Nelson Mandela còn là một sinh viên trường Luật ở Johannesburg, ông có một người bạn tên là Paul Mahabane, một thành viên của Hội nghị quốc gia Châu Phi và là một người có tiếng tăm. Một hôm, hai người đang đứng ngoài cổng Bưu điện thì gặp một công chức da trắng khoảng 60 tuổi. Ông này bảo Mahabane vào mua cho ông vài con tem. Thời đó việc một người da trắng sai bảo một người da đen làm một việc gì đó cho mình chẳng có gì lạ. Nhưng Paul Mahabane từ chối. Viên công chức rất giận, ông hỏi:

– Mày có biết tao là ai không?

Paul bình tĩnh trả lời:

– Tôi không cần biết ông là ai. Tôi chỉ biết ông là gì thôi.

Ông công chức da trắng hét lên: “Mày sẽ phải trả giá về việc này đó”. Rồi ông bỏ đi.

Người da trắng này nghĩ rằng phẩm giá của ông cao hơn Paul Mahabane chỉ vì ông là một công chức; và vì là công chức nên ông có quyền sai khiến kẻ khác, nhất là người da đen.

Chúng ta cũng có khuynh hướng đánh giá người khác theo địa vị và nghề nghiệp. Gặp một bác sĩ thì chúng ta kính trọng, còn gặp một người công nhân thì chúng ta coi thường. Nhưng như thế là vừa bất công vừa ngớ ngẩn, bởi vì cái làm nên một con người không phải là địa vị và nghề nghiệp mà chính là bản chất của người đó. (Viết theo Flor McCarthy)

Bài học bất ngờ về giá trị con người

Nếu muốn hiểu đoạn Tin Mừng này rõ hơn, chúng ta cần xác định thời điểm của nó: Khi ấy, Ðức Giêsu đã rao giảng được khoảng 3 năm., sắp tới lúc Ngài kết thúc sự nghiệp của mình ở trần gian, một kiểu kết thúc mà không ai có thể ngờ được, nghĩa là kết thúc bằng cái chết đớn đau tủi nhục trên Thập Giá. Chính vì đoán trước rằng không ai có thể ngờ được việc đó cho nên Ðức Giêsu phải nói trước cho các môn đệ mình hay, để khi sự việc xảy ra thì họ sẽ không quá ngỡ ngàng và hoang mang. Những lời báo trước về cuộc khổ nạn mà chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin Mừng này là lần loan báo thứ 3 rồi đó. Dù vậy, các môn đệ vẫn không hiểu. Họ cũng đoán là Ðức Giêsu sắp kết thúc hoạt động rao giảng, nhưng kết thúc một cách huy hoàng bằng cách chiếm lấy quyền bính và lên ngôi vua. Chính vì nghĩ như vậy nên họ bắt đầu tranh dành nhau xem trong cái chính phủ mà Ðức Giêsu sắp lập ấy, ai trong nhóm họ sẽ được giữ địa vị nào.

Chính trong hoàn cảnh ấy, Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ mình một bài học, bài học thật bất ngờ: Chúa nói: “Ai muốn làm lớn thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”.

Bài học này rất bất ngờ. Bởi vì nó không giống quan niệm của người ta vẫn nghĩ từ xưa tới nay. Theo quan niệm cũ ấy thì ai là người lớn? Thưa là người ở địa vị cao, người được những kẻ khác hầu hạ. Còn ai là người nhỏ? Thưa là người ở địa vị thấp, người phải hầu hạ kẻ khác. Thí dụ như khi chúng ta thấy một chiếc xe du lịch, trong số có hai người ngồi: một người ăn mặc đàng hoàng sang trọng ngồi ở băng sau, và một người ăn mặc xuề xoà ngồi cầm lái phía trước. Tự nhiên ta biết trong hai người đó, ai lớn, ai nhỏ: người lớn chính là cái ông ăn mặc sang trọng đang ung dung ngồi phía sau, còn người nhỏ là kẻ ăn mặc xuề xoà phải lái xe cho ông kia. Hay khi chúng ta đang ngồi trong một phòng khách: có một người đang ngồi tiếp chuyện với ta, uống nước trà, ăn bánh, hút thuốc, và một người nữa lo bưng bánh, rót nước. Hỏi ai là người lớn? Dĩ nhiên là người đang ngồi. Còn ai là đầy tớ? Dĩ nhiên đó là người đang phục vụ.

Nhưng Ðức Giêsu thì dạy ngược lại,. Nếu Ðức Giêsu cũng chứng kiến những cảnh trên và ta hỏi Chúa: Thưa Chúa, trong chiếc xe du lịch ấy có hai người, ai lớn ai nhỏ? Ðức Giêsu sẽ trả lời ngay: cái ông ngồi phía sau là nhỏ, còn người tài xế là lớn. Nếu ta hỏi tiếp: còn trong phòng khách cũng có hai người, vậy thưa Chúa ai lớn ai nhỏ? Ðức Giêsu cũng trả lời không chần chừ: người đang ngồi là nhỏ, còn người đang phục vụ là lớn.

Tuy nhiên chúng ta đừng hiểu lầm, Ðức Giêsu không chủ trương đảo lộn tất cả, biến kẻ ở địa vị cao thành người nhỏ và cho kẻ ở địa vị thấp thành người lớn đâu. Tiêu chuẩn Chúa đưa ra để đánh giá một người, ấy là sự phục vụ. Như thế ai biết phục vụ thì là người lớn. Còn kẻ không phục vụ thì là người nhỏ. Người ở địa vị cao mà biết phục vụ thì vẫn là người lớn, còn kẻ ở địa vị thấp mà không phục vụ thì cũng vẫn là người nhỏ.

Nghĩa là: giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

Ðể minh hoạ cho bài học này, sau đó Ðức Giêsu đưa ra hình ảnh một em bé. Hình ảnh của một em bé đối với bất cứ người nào nhìn, cũng thấy là dễ thương. Cho nên khi thấy một em bé, ai cũng muốn bồng ẵm, muốn ôm hôn, muốn cho nó ăn bánh, ăn kẹo. Tại sao người ta thương em bé và muốn cho nó đủ thứ như vậy? Có phải tại nó giỏi giang, tại nó giúp cho người ta được việc này việc nọ không? Thưa hoàn toàn không, đứa bé còn quá nhỏ, chưa biết là gì, chưa giúp ích được gì. Nhưng người ta thương nói chỉ vì người ta thương nó, thế thôi. Một tình thương hoàn toàn vô vụ lợi. Người ta cho nó cái này cái nọ, cũng không phải để trả ơn nó hay để mong nó làm gì giúp mình. Cũng chỉ vì thương mà phục vụ thôi. Chúa dùng hình ảnh em bé để minh hoạ cho bài học phục vụ trên kia: chúng ta cũng phải cư xử với mọi người theo kiểu chúng ta cư xử với một em bé: hết lòng yêu thương phục vụ một cách hoàn toàn vô vụ lợi. Người nào biết phục vụ kẻ khác như thế thì là phục vụ Chúa, và mới xứng đáng làm môn đệ Chúa.

Chúng ta hãy nhớ bài học của Chúa: giá trị con người không tuỳ vào địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

– Trong một gia đình, ai là người lớn nhất? Có phải là người cha, người chồng không? Bề ngoài là như vậy. Nhưng đối với Chúa thì chưa chắc. Người cha ấy, người chồng ấy nếu chỉ biết có ra lệnh bảo người này người nọ làm mọi việc, nếu chỉ biết ngồi đó mà chê món ăn này dỡ, cái bàn này lau chưa sạch, nhà cửa này lộn xộn lung tung; nếu chỉ biết ăn no rồi đi chơi, chỉ biết có nhậu nhẹt và để mặc vợ con làm tất cả, thì đó chính là kẻ nhỏ nhất trong nhà, nhỏ hơn cả vợ mình, nhỏ hơn cả con mình. Bởi vì người chồng người cha ấy là một người vô ích.

– Trong một khu xóm cũng vậy, trong một cơ quan cũng vậy, trong một họ đạo cũng vậy. Nếu xét theo tiêu chuẩn của Chúa, thì kẻ lớn nhất không hẳn là người có địa vị cao nhất, không hẳn đó là ông trưởng xóm, không hẳn đó là ông giám đốc, không hẳn đó là ông Chủ Tịch Hội Ðồng Giáo Xứ. Mà rất có thể kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm ít nói, nói ít mà làm nhiều; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách giúp ích cho người khác.

– Thí dụ như Linh mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở Chủng viện, Vianney thi không đủ điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được phong chức Linh mục. Vì thấy Cha quá kém cỏi. Ðức Giám Mục đưa Cha đi làm Cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng Cha Vianney đã tận dụng tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày Cha chỉ nghỉ ngơi 3,4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi toà giải tội thì liên miên, có khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ. Dần dần cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các Linh mục, Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ Cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết tiểu sử của Cha đã nhận định: Nếu cả Giáo Hội Nước Pháp mà có được chỉ một vài Linh mục như Cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên Thánh,. Ðó mới là người lớn thật mặc dù chỉ là một Linh mục học kém, một Cha sở nhà quê, bởi vì sức phục vụ của Cha thật là lớn.

Bài học của CG hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.

Ai muốn làm lớn thì phải hạ mình phục vụ mọi người như một kẻ đầy tớ.

Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà là do khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

Xin Chúa ban thêm cho chúng ta sự khiêm nhường và sự siêng năng, để chúng ta có thể thực hành bài học phục vụ mà Chúa dạy chúng ta hôm nay.

Tính ganh ghét

Trong lúc Ðức Giêsu gần tới giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc đời là sắp bị bắt và chịu chết để chuộc tội loài người, thì các tông đồ lại còn ganh ghét nhau, tranh dành địa vị với nhau xem ai lớn ai nhỏ trong nước mà họ tưởng Chúa sẽ thành lập. Như thế đủ biết cái tính ganh ghét có thể xâm nhập vào bất cứ ai (kể cả các tông đồ), và bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả lúc Ðức Giêsu sắp chịu chết). Cho nên ganh ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu, mối thứ 3.

Trong bài Thánh Thư hôm nay, Thánh Giacôbê cũng bàn về tính ganh ghét này. Ngài nói “Ở đâu có ganh ghét và cải vả thì ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”. Thánh Giacôbê là một người thực tế, nhận xét này của Ngài cũng rất thực tế. Thật vậy chỗ nào có ganh ghét thì chỗ đó phát sinh đủ thứ tệ đoan:

a/ Gia đình chẳng hạn: lẽ ra đó phải là một tổ ấm hạnh phúc mà mọi người sống trong đó yêu thương, nâng đỡ, nhường nhịn, ủi an nhau. Nhưng nếu chẳng may trong gia đình có một người ganh ghét, thí dụ như một người chị ganh với một đứa em vì nó đẹp hơn, thông minh hơn, được mọi người thương mến hơn… thì trong nhà có những háy nguýt, phân bì, nói bóng nói gió, cải vả nhau, thậm chí xô xát nhau nữa… Gia đình hết là tổ ấm mà trở thành gần như hoả ngục.

b/ Ở sở làm cũng thế, nhất là những chỗ có nhiều đàn bà con gái. Nhiều chị em đã phải vất vả tốn công tốn của để tìm cho được một chỗ làm. Bắt đầu đi làm thì vui vẻ hăng hái lạc quan. Nhưng làm một thời gian rồi thì đụng phải sự ganh ghét của chị em đồng nghiệp, và khởi sự chán nản, buồn bả, bi quan, chỉ muốn thôi việc đi tìm chỗ khác.

c/ Ngay trong những nơi đạo đức như các dòng tu cũng thế. Lẽ ra chốn tu trì phải là nơi sốt sắng thánh thiện. Các Tu sĩ thương yêu nhau và giúp nhau nên thánh. Khi một người đi tu, họ tự nguyện từ bỏ mái ấm gia đình và chọn tu viện là gia đình mới, chọn các tu sĩ sống chung trong nhà là những người anh chị em mới. Lẽ ra họ sẽ được hưởng một thứ hạnh phúc siêu nhiên bù đắp cho thứ hạnh phúc tự nhiên mà họ đã tự nguyện từ bỏ. Nhưng nếu trong cộng đoàn có một vài người ganh ghét, thì chân tu viện trở thành ngột ngạt, đời sống cộng đoàn trở thành gánh nặng.

Quả thực thánh Giacôbê tông đồ đã nói rất đúng “Ở đâu có ganh ghét thì ở đó có đủ thứ tệ đoan”. Ta hãy phân tích thêm câu nói này. Ganh ghét đưa đến những tai hại như thế nào?

1/ Trước hết là hại cho chính bản thân người ganh ghét:

Người ganh ghét tự nung nấu ruột gan mình bằng ngọn lửa khó chịu âm ỉ mãi. Thấy người ta dở, người ta xấu, người ta làm sai làm quấy thì mình khó chịu đã đành; mà thấy người ta hay, người ta tốt, người ta thành công mình cũng khó chịu. Thành ra khi người ta vui thì mình buồn, người ta sung sướng thì mình đau khổ, người ta càng vui sướng chừng nào thì mình càng buồn khổ chừng nấy.

Hại hơn nữa là người ganh ghét tự làm giảm giá trị và tư cách của mình nữa. Ganh ghét với ai là tự đặt mình vào thế tranh đua với người đó. Mà trong cuộc tranh đua này, nếu mình cảm thấy khó chịu, bực tức khổ sở trước thành công của người khác, thì đó là dấu mình đã thua kém. Thua kém mà còn khó chịu bực tức thì cho thấy tư cách của mình cũng thấp kém nữa.

2/ Tai hại thứ 2 của tính ganh ghét là gây cho nạn nhân bị mình ganh ghét. Vì ganh ghét mà mình làm cho người ta buồn người ta khổ một cách hết sức bất công. Chứ nếu công bình mà xét thì người ta đều có gì để đáng phải buồn khổ như vậy. Chỉ vì người ta hay, người ta tốt, người ta giỏi mà người ta phải khổ. Lẽ ra người ta phải được khen thưởng, phải được mừng vui thì vì ganh ghét mà mình làm cho người ta khổ sở. Người bị ganh ghét như thế lâm vào một hoàn cảnh thật khó xử: một đàng là công việc phải làm, đã làm thì phải làm cho tốt, cho hay – mà càng tốt càng hay thì càng bị mỉa mai dằn vật. Biết xử thế nào bây giờ! Thật là khó. Thôi chỉ còn nước cứ tiếp tục làm và cắn răng, nuốt nước mắt mà chịu đựng những lời mỉa mai của kẻ ganh ghét.

3/ Sau cùng tính ganh ghét còn làm hại cho tập thể nữa. Người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét; và cũng thật là xui xẻo cho ai lỡ thuộc về tập thể có vài kẻ ganh ghét như thế.

Những tai hại vừa kể dẫu không nói ra thì ai cũng có thể nhận thấy. Nhưng có một điều khó nhận thấy là ít ai nhận thấy mình mang tính ganh ghét. Ai cũng có thể bị tính ganh ghét xâm nhập, nhưng ít ai biết mình đang có tính xấu ấy. Chị em có thể ganh ghét nhau mà không hay; bạn bè có thể ganh ghét nhau mà không biết; những người đồng lý tưởng có thể ganh ghét nhau làm hại nhau mà không ngờ. Các con của ông Giacóp ganh ghét đến nỗi bán em là Giuse mà vẫn thản nhiên; các tông đồ ganh ghét tranh dành địa vị với nhau đang lúc Ðức Giêsu sắp bị bắt bị giết mà vẫn không thấy là kỳ. Chúng ta cũng có thể đang ganh ghét với người đồng nghiệp của mình, với người hàng xóm của mình, với chính anh chị em bạn bè của mình mà vẫn không hay. Vì thế chúng ta phải hết sức khiêm nhường mỗi khi xét mình, kiểm điểm dời sống. Dấu hiệu rõ ràng nhất cho biết mình đang có tính ganh ghét là khi mình thấy người khác thành công, mình chẳng những không vui mừng với người ta mà còn bực bội khó chịu với họ, hay thấy người ta thất bại thì mình lại vui sướng.

Xin Chúa giúp chúng ta biết khiêm nhường nhìn đúng khả năng và giới hạn của mình. Và xin Chúa giúp chúng ta biết cố gắng vui với thành công của người khác, buồn với thất bại của người khác, và đoàn kết với nhau, giúp nhau càng ngày càng hay hơn, tốt hơn.

Người lớn nhất

Một linh mục kể lại câu chuyện đầy kịch tính sau đây:

Tại một vùng hoang dã, những tay giang hồ tứ chiếng tập trung trong một khu trại. Một phụ nữ duy nhất sống giữa đám đàn ông sa đọa. Ban ngày cuốc xới bới tìm, đêm về là rượu chè bài bạc. Người phụ nữ đã gian díu với một tay quái nào đó và đang mang thai. Ngày sinh con, chị suy nhược không chịu nổi phút thử thách đã chết trên giường sinh.

Biến cố này bắt những tay giang hồ phải suy nghĩ một cái gì khác hơn là chuyện tranh chấp vàng bạc, rượu chè. Thơ nhi được đặt nằm trên tấm ván cạnh xác người mẹ. Bên dưới người ta đặt một cái nón ngửa để nhận quà tặng. Chiếc nón đầy đồng hồ, dây chuyền, nhẫn cưới, đồng vàng. Tất cả quà tặng dùng để chôn xác người mẹ xấu số và nuôi đứa bé thơ dại. Một ông già tình nguyện lo cho cháu nhỏ.

Người ta vô cùng bỡ ngỡ là ngày góp mặt đứa bé trong trại, cuộc sống đám quái đã đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc đêm để cho em bé ngủ yên, dừng lại những câu tục tĩu khi ở trước mặt bé, những nụ hôn thắm thiết như mưa trên nét mặt vô tội.

Một hôm vỡ đê, nước cuồn cuộn tràn lều. Nhảy khỏi giường, ai cũng đến tìm bé. Không ngờ bé và cụ già bố nuôi đã bị cuốn trôi lúc nửa đêm. Hai tay bé vẫn níu chặt cổ bố. Ngày đào hố chôn hai xác thiên thần cũng là ngày những người trong trại giang hồ chôn hết quá khứ. Họ vẫy tay, từ giã nhau mỗi người về một nẻo. Có phải chính nét thơ ngây thiên thần kia làm cho khách giang hồ trực cảm được một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc đời trôi nổi phi lý đó? Có phải chính ánh mắt, nụ cười, nét đẹp thiên thần đã khơi một hương sống mới lạc quan và tươi vui hơn.

****

“Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc 9,37).

“Trẻ nhỏ” ở đây được xem là những người không quan trọng, không đáng kể, không cần lưu ý; những người nghèo hèn, tàn tật, bị bỏ rơi. Ðức Giêsu muốn đồng hòa với những con người bất hạnh ấy, để khi đón tiếp họ, chúng ta hoàn toàn vô vị lợi, vì không mong chờ sự đáp trả của những kẻ khốn khổ ấy. Ðó chính là sứ điệp mà Ðức Giêsu muốn gởi tới chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.

Người còn khẳng định: “Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9,35). Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, chúng ta thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa và anh em. “Người lớn nhất” là người phục vụ nhiều nhất, hăng say nhất. “Người lớn nhất” là người làm trước nhất và nghỉ sau cùng.

Ðó là một cuộc cách mạng về quan điểm “Người lớn nhất” nơi Ðức Giêsu. “Người lớn nhất” theo kiểu của Ðức Giêsu không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng đôi tay để phục vụ. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương. Thế giới ngày nay rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu ấy: khiêm tốn, phục vụ, và yêu thương. Bourdaloue có nói: “Ðặt mình trên kẻ khác chính là tự buộc mình làm việc và phục vụ họ”. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.

*****

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng là người đứng đầu trong một tập thể nhỏ bé nào đó, xin cho chúng con biết dùng quyền hạn của mình để phục vụ những người Chúa giao phó cho chúng con. Nhất là xin cho chúng con luôn thao thức, làm cho họ ngày càng được an vui và hạnh phúc hơn. Amen.

(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

Tiếp đón em nhỏ

“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy”.

Tôi thán phục giáo huấn của Ðức Giêsu về cách làm lớn, một giáo huấn rất ngược đời nên rất đặc biệt: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ”. Nghĩa là làm lớn không phải để sai khiến người ta phục vụ mình, trái lại phải phục vụ người ta.

Nhưng tôi càng thán phục hơn vì Ðức Giêsu đã không nói phục vụ suông, Ngài còn chỉ rõ phải ưu tiên phục vụ những kẻ nhỏ nhất.

Gia đình bên cạnh nhà tôi có một người cha được con cái thương mến còn hơn thương mẹ chúng, bởi vì người cha này tự dành lấy trách nhiệm chăm sóc các con: chính tay ông tắm rửa cho các con; chính ông dỗ ngủ các con; ông bồng bế con nhiều hơn mẹ chúng. Ông là người lớn nhất trong nhà nên phục vụ nhiều nhất. Ông còn đặc biệt ở điểm này nữa là quan tâm chăm sóc đứa con nhỏ nhất hơn các đứa khác. Bởi vậy khi có thêm một đứa em chào đời, thì đứa anh hay chị gần nó nhất tự biết “thân phận” của mình, nhường cho em nhỏ được hưởng những chăm sóc ưu tiên của ba.

Tóm lại, bài học phục vụ đã hay, mà bài học ưu tiên phục vụ kẻ nhỏ nhất còn hay hơn.

Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dạy: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”, và chính Người đã thực hành điều Người dạy, là chịu tử hình thập giá để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và dâng những lời nguyện sau đây:

1. Xin cho mọi giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh/ biết loại bỏ mọi hình thức thống trị và chuyên chế / để trở thành người phục vụ theo gương Chúa Kitô.

2. Xin cho những người đang làm lớn trong xã hội/ đừng lợi dụng chức quyền để tìm hiểu giàu sang danh vọng/ nhưng biết quan tâm trước hết đến việc phục vụ đồng bào mình.

3. Xin cho những người nghèo đói, thất nghiệp, tị nạn, không nhà không cửa, bị xã hội bỏ rơi/ được gặp những người biết quan tâm an ủi và giúp đỡ thật tình.

4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta biết chú ý đến những người gặp khó khăn thử thách/ người ở trong họ đạo cũng như mọi người mình có thể gặp/ để cùng nhau tìm cách phục vụ họ.

Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã làm gương và dạy chúng con phục vụ cho nhau, khi Chúa rửa chân cho các môn đệ, và nhất là khi Chúa hy sinh mạng sống chuộc tội chúng con; xin giúp chúng con luôn sẵn sàng phục vụ mọi người như Chúa đã dạy. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

Trong Thánh lễ

– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi những tính xấu ganh ghét, đố kỵ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an”

Giải tán

Sống công chính theo gương Ðức Giêsu thật là khó. Nhưng đó là sứ mạng của người môn đệ Chúa. Với sự trợ giúp tích cực của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sống công chính, cho dù có thể gặp những khó khăn, thiệt thòi.

 

 

 

 

 

17. Xin Cha tha cho họ vì họ lầm…

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

Có người dí dỏm rằng mô-đen (mode) là sự tái hiện cái đã bị lịch sử đào thải. Hết kiểu tóc dài rồi lại tóc ngắn. Tóc ngắn một thời rồi người ta lại để tóc dài, và sau đó trở về tóc đầu đinh, kiểu húi cua hay láng bóng như chưa mọc tóc. Các kiểu mô-đen y phục cũng tương tự. Các kiểu dáng rộng hẹp, dài ngắn cứ luân phiên thay đổi nhau. Hình như ít có sự gì mới ở dưới trần gian này, nhất là những vấn nạn liên quan đến ý nghĩa cuộc đời con người. Một trong những vấn nạn ấy là nguồn gốc của các hiện hữu, cách riêng của loài người.

Những chuyện xem ra lạ đời như chuyện đồng tính luyến ái đang nở rộ đó đây, đặc biệt tại các nước ở phương trời Âu, Mỷ, thì vốn đã xuất hiện từ xa xưa mà câu chuyện hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh chứng. Bàng bạc trong thuyết bất khả tri hay trong chủ nghĩa hoài nghi và rồi cách minh nhiên trong chủ thuyết vô thần, người ta chủ trương rằng các hiện hữu đời này là do bởi tự nhiên hay ngẫu nhiên. Tác giả sách Khôn ngoan xưa đã từng ghi lại nghĩ suy của “quân vô đạo” như sau: “Đời ta thật buồn sầu vắn vỏi: không thuốc nào chữa cho khỏi chết, chẳng ai biết có kẻ nào thoát được cõi âm ty. Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi lại như chưa hề có mặt…” (Kn 2,1-2). Với cái nhìn về cuộc đời như trên, người ta sẵn sàng hô hào: “Nào đến đây, hưởng lấy của đời này, tuổi còn trẻ, ta cố mà tận dụng hết những chi đang có sẵn trên trần… Ta hãy bức hiếp tên công chính nghèo hèn, kẻ góa bụa, ta đừng buông tha, bọn tóc bạc già nua, cũng chẳng nể. Sức mạnh ta phải là quy luật của công lý, vì yếu đuối chẳng làm nên chuyện gì… Nào ta kết án cho tên công chính chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.” (Kn 2,6-20).

Thời Chúa Giêsu, nhóm Xađốc vốn thân chính quyền. Họ được hưởng nhiều lợi lộc mà dĩ nhiên trong đó, ít nhiều cũng có những lợi lộc bất chính, bất minh. Họ là những người đã chủ trương rằng không có đời sau. Trái lại nhóm Biệt phái thì tin có đời sau. Vấn đề đặt ra đó là vì người ta đã theo một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó và rồi cách sống của họ chỉ là hệ quả kéo theo hay là người ta dùng, đúng hơn là lợi dụng một cái nhìn, một quan điểm về thế giới, về con người để biện minh cho thái độ sống của mình? Chúng ta không thể tiên thiên khẳng định điều này hay điều kia đúng. Tuy nhiên với trường hợp của “quân vô đạo” mà sách Khôn ngoan đề cập thì có thể nói là đại đa số trong họ dùng lý lẽ này nọ để biện minh cho lối sống hưởng thụ, bất công, gian ác của mình.

Vậy thử hỏi rằng những người dùng những quan điểm nọ kia để biện minh cho lối sống thiếu lành mạnh, thiếu ngay thẳng của mình, họ có cảm thấy áy náy hay ngượng ngùng khi tuyên bố mọi sự hiện hữu là do ngẫu nhiên chăng? Theo thiển ý, chắc hẳn ít nhiều ngay từ đầu cũng vẫn có. Tuy nhiên với thời gian, khi thực tiển lại dường như ứng hợp với luận lý của họ một cách nào đó đã khiến họ vững tin vào cái nhìn của mình cũng như an tâm về lối sống của mình. Nếu chuyện ác giả-ác báo lại xảy ra cách nhãn tiền ở đời này, ngay trong quảng đời họ sống, thì chắc chắn những lý lẽ biện minh cho lối sống ích kỷ, hưởng thụ, bất công… sẽ chẳng có thể tồn tại.

Dưới chân thập giá cũng đã có người thách thức, chế giễu chúa Giêsu: “hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: “Ta là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,43). Người công chính duy nhất đáng gọi là công chính để nhờ người mà ơn thứ tha được trao ban cho nhân trần cũng đã thốt lên trong cơn hấp hối: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).

Ngoài một số lý do về niềm tin độc thần, về thái độ thượng tôn lề luật… các Thượng Tế, luật sĩ, biệt phái khi kết án Chúa Giêsu, họ không thể chối cãi lý do chính yếu ở đằng sau mà ngay cả Philatô cũng thừa biết, đó là: “chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người” (Mt 27,18). Việc họ tìm nhân chứng gian để tố cáo Chúa Giêsu hay tìm cách xách động dân chúng để làm áp lực với Philatô và cắt cử quân linh canh mồ càng nói lên sự bất an của họ về việc họ đã làm (x.Mt 26,60; 28,62-66; Mc 15,11). Thế nhưng sự bất an của “quân vô đạo” dần dà qua đi khi những lời kêu van của người công chính trong Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, xin đánh chúng bể miệng, gãy răng…” (Tv 58,7) chưa thấy được nhậm lời, và chuyện “người công chính sẽ thấy Chúa trả oán, họ sẽ rửa chân trong máu ác nhân” (Tv 58,11) là chuyện như của tương lai xa vời vợi hay là chuyện một đôi khi hiếm họa do sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Đã và đang có nhiều người sống trong lầm lạc vì Chúa đã không nhổ cỏ lùng ra khỏi lúa tốt (x. Mt 13,24-30). Phút giây hấp hối trên thập giá, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23,34). Phải chăng lòng từ nhân của Thiên Chúa vô tình đã trở thành cớ cho người ta lầm lạc? Chắc chắn không thể quy kết một cách mạo phạm, bất kính như thế. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Chúa Giêsu không chỉ xin Chúa Cha tha cho những kẻ lầm lạc mà còn mở rộng Trái Tim cực thánh để tuôn ban Thánh Thần để mở mắt, mở lòng họ, giúp họ nhận biết sự thật (Ga 19,34). Viên sĩ quan bách quản hôm ấy đã đón nhận ánh sáng chân lý và tuyên xưng: “Quả thật, ông này là người công chính” (Lc 23,47).

Trước sự mê lầm của những người được xem như là “quân vô đạo” của mọi thời, mọi hoàn cảnh, là Kitô hữu, chúng ta nhiều khi còn phân vân tìm cách hành xử. Có người chủ trương là chấp nhân sự bất công và dâng lời cầu nguyện cho họ. Có người lại đề cao việc vạch trần, tố cáo sự giả dối, gian ác, bất công, để sự bất công, gian dối không còn đất sống. Theo thiển ý, chúng ta cần thực thi cả hai cách thế bằng một trái tim biết mở ra như Trái Tim cực thánh Đấng cứu độ, nghĩa là với một tình yêu đích thực muốn cho người cô thế, bị áp bức bất công được giải phóng và muốn cho cả “quân vô đạo” được giác ngộ, nghĩa là biết nhận ra chân lý, trở về với nẻo ngay mà được cứu độ.

 

 

 

 

 

18. Ai muốn làm lớn

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

 

Tin mừng Mc 9: 30-37:  Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật khác thường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người”.

Trong ba năm rao giảng của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng thuật lại ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc thương khó Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Mỗi lần đều đặt trong một khung cảnh khác nhau và lời loan báo cũng khác nhau. Nhưng cũng như đại đa số người Do Thái, không hề có ý tưởng về một Vị Cứu Thế bị đau khổ, bị đóng đinh. Các tông đồ cũng vậy, không hiểu và cũng không muốn hiểu. Các ông chỉ mường tượng đến một nước trần gian vật chất, với danh vọng, uy quyền và giầu có. Mỗi lần nghe biết như vậy Chúa buồn lắm. Mà không buồn sao được, đang khi Chúa tiến về Giêrusalem để chịu chết, thì các môn đệ lại tranh cãi xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả, đó là điều khiến Chúa Giêsu hết sức đau lòng. Dù vậy, tự thâm tâm, các môn đệ vẫn biết là mình sai quấy, nên khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ đang cãi nhau về chuyện gì thì các môn đệ không trả lời. Họ im lặng vì xấu hổ.

Nhân dịp này Chúa dạy các ông:”Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người. Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại. Muốn làm đầu thì phải làm cuối mọi người, muốn chỉ huy thì phải làm “tôi tớ mọi người”.

Là Thủ Lãnh, Ngài đã đặt mình vào vị trí rốt hết để phục vụ mọi người. Và Chúa Giêsu tin rằng cần phải minh hoạ lời Ngài nói bằng một cử chỉ có ý nghĩa. Ngài đặt một em bé vào giữa họ rồi ôm lấy em. Cử chỉ này tạo ra một tác dụng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa đám môn đệ rồi ôm hôn nó: tất cả điều này đi ngược với tập tục đương thời.

Xã hội thời đó không quan tâm đến trẻ em.

Một đứa bé thì chẳng có ảnh hưởng gì, không thể giúp được ai thăng tiến trong sự nghiệp, nó cũng chẳng giúp thêm uy tín cho ai.

Một đứa bé chẳng làm gì cho chúng ta, trái lại nó luôn cần đến cái này, cái kia, người ta phải làm việc này, việc nọ cho nó.

Nó luôn tùy thuộc vào người lớn, luôn trông nhờ người lớn. Hơn nữa chúng chẳng biết nói năng, lý luận gì cả, thậm chí chúng thường bị xua đuổi, khai trừ khỏi cộng đồng tôn giáo vì cho rằng chúng ngu dốt không biết lề luật.

Như thế Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục hồi mang hai chiều kích (con người và tôn giáo) khi Ngài đặt đứa bé – tiêu biểu một hạng người bị khai trừ – vào giữa những bạn hữu Ngài. Và Ngài nhấn mạnh hành động này bằng một lời nói mang đầy ý nghĩa. Đây là câu trả lời đầy kinh ngạc Chúa Giêsu dùng để đáp lại câu hỏi mà các môn đệ tranh cãi nhau trong lúc đi đường: “Ai là kẻ cao trọng nhất?”.

Việc đua đòi danh vọng đã trở nên sỗ sàng đối với những kẻ bước theo Chúa Giêsu vào lúc Ngài đang đi trên con đường khổ giá, con đường dẫn đến Núi Sọ. Trở nên “tôi tớ” mọi người, mở rộng vòng đai khép kín của Giáo Hội đến tận những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất chính là “sứ vụ” Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ.

Có câu chuyện kể rằng:

Một hôm, Hồ Khưu Trượng hỏi Tôn Thúc Ngao:“Có ba điều chuốc oán, ông đã biết chưa?”

Họ Tôn trả lời: “Tôi chưa được biết”.

Trượng Nhân nói: “Tước vị cao người ta ganh, quyền thế lớn người ta ghét, lợi lộc nhiều người ta oán”.

Tôn Thúc Ngao lắc đầu nói:“Không phải luôn luôn như thế, tước vị tôi càng cao tôi càng xử nhún nhường, quyền thế tôi càng lớn tôi càng ở khiêm cung, lợi lộc tôi càng nhiều tôi càng chia bớt cho những người chung quanh, như thế thì làm gì bị oán thù của thiên hạ”.

Đức Khổng Tử cũng đã dạy các đồ đệ của ông như vậy.

Một hôm, Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết: “Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua thường để bên ngai vàng hầu làm gương”.

Khổng Tử liền hỏi: “Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ nước đầy thì lại ngã, có phải là vật này chăng?”

Rồi ngài bảo các đồ đệ múc nước thí nghiệm, thì quả nhiên đúng như thế.

Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng dạy: “Thông minh hiểu biết hơn người thì nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn người thì nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu có nhiều thì nên giữ bằng cách bố thí và tỏ ra nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.

Cũng thế, Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật khác thường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người”.

Đó là những điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

19. Đức Kitô, mẫu gương phục vụ

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

 

DẪN NHẬP.

Phục vụ! Từ ngữ này nói lên tính cách khiêm nhường, lệ thuộc và hy sinh của người đầy tớ. Bình thường, không ai muốn làm đầy tớ mà chỉ muốn làm ông chủ để được hầu hạ. Ai cũng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị thiên hạ. Nhưng Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng đổi ngược thứ tự này trong xã hội. Ngài tuy là Thiên Chúa mà đã trút bỏ mọi vinh quang của một vị Thiên Chúa, xuống trần làm một người đầy tớ rốt hết để phục vụ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài là “ông chủ” đã tự nguyện biến thành “đầy tớ” khiêm hạ để phục vụ hạnh phúc cho muôn người.

Đã có lần tông đồ Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô”, nhưng theo sự hiểu biết của ông, đây là “Đấng Kitô vinh hiển”, Đấng đến giải thoát dân tộc Do thái khỏi ách đô hộ của người Rôma và làm cho nước Do thái được hùng cường, bá chủ hoàn cầu. Nhưng thực sự, Đức Giêsu lại là “Đấng Kitô đau khổ” “bị loại bỏ, bị giết đi và sau ba ngày sẽ sống lại”. Chính vì không hiểu rõ con người của Ngài, không hiểu được Lời của Ngài, nên các ông chỉ nghĩ đến địa vị thấp cao trong nước Ngài sắp thành lập và đã tranh cãi với nhau xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước đó.

Đức Giêsu muốn sửa đổi quan niệm sai lạc của các ông và vạch ra cho các ông một hướng đi mới khi Ngài nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,36). Sau này, các ông mới hiểu được Lời Chúa và đã đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa và đã hiến dâng mạng sống mình cho phần rỗi các linh hồn.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Kn 2,12-20.

Sách Khôn ngoan được viết vào thế kỷ I trước công nguyên bởi một người Do thái tại Alexandria, nơi cộng đoàn Do thái thịnh vượng. Nhiều người trong họ đã bị lây nhiễm những quyến rũ của nền văn minh phóng đãng, đã trở thành phường vô đạo. Do đó, mới có sự xung khắc giữa những người công chính và phường vô đạo.

Đây là những lý do khiến phường vô đạo bách hại người công chính:

– Việc làm của người công chính chống lại việc làm xấu xa của phường vô đạo.

– Cách sống tốt lành của người công chính tự nó vạch trần những việc xấu xa của phường vô đạo.

– Phường vô đạo bách hại người công chính để thử xem Thiên Chúa có đến bênh vực họ không?

Truyền thống Công giáo qua mọi thời vẫn nhận ra hình ảnh của Chúa Kitô nơi người công chính bị bắt bớ và nhiều chi tiết báo trước cuộc khổ nạn của Người.

+ Bài đọc 2: Gc 3,16-4,3.

Thánh Giacôbê là người rất thực tế. Đối với ngài, tiêu chuẩn của sự khôn ngoan là “lối sống tốt đẹp”, nghĩa là lối sống thực hành đúng đắn điều răn yêu thương, nhất là thói xấu ganh tị tranh chấp.

Chúng ta có thể tóm lại đoạn thư của ngài bằng mấy ý tưởng sau đây:

– Ở đâu có ganh tị và tranh chấp thì ở đó có xáo trộn và đủ thứ xấu xa.

– Người xây dựng hoà bình sẽ thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, đó là cuộc đời công chính.

– Đầu mối của sự xung đột và chiến tranh là lòng ham muốn vì lòng ham muốn thì vô đáy.

+ Bài Tin Mừng: Mc 9,30-37.

Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần:

1/ Đức Giêsu lần thứ hai loan báo cuộc Thương khó của Ngài cho các môn đệ, và từ nay Ngài chuyên lo việc đào tạo họ lần cuối. Nhưng Nhóm Mười Hai vẫn không hiểu gì hơn đám đông dân chúng về các điều kiện để đạt tới Nước Trời. Các ông vẫn quan niệm rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô theo nghĩa trần gian mang mầu sắc chính trị. Các ông không hiểu rằng Ngài là Đấng Kitô đau khổ, đến để phục vụ và đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, trên đường đi các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước Ngài sắp thành lập.

2/ Về đến nhà, Đức Giêsu ôn tồn nói cho các ông thái độ phải có trong Nước Ngài sắp thành lập:

– Phải biết phục vụ, đừng ai để ý đến địa vị lớn hay nhỏ để ganh đua.

– Người có chức vụ càng cao càng phải hạ mình xuống phục vụ như người đầy tớ.

– Phải tiếp đón mọi người, không phân biết già trẻ, sang hèn với tinh thần quảng đại.

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Đức Giêsu, mẫu gương phục vụ.

LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN.

Phát xuất từ vùng miền Bắc đi về Cêsarê Philipphê, Đức Giêsu tiền gần về Giêrusalem. Ngài băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Ngài đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Ngài không tìm dịp nói chuyện trước công chúng, Ngài chỉ nói với các m6n đệ là mầm mống Kitô hữu tương lai. Và những gì Ngài sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo hội. Ngài đã nói với các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.

Trước lời loan báo này, xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại vì họ chưa hiểu được con người thật của Ngài. Trước đây, tuy ông Phêrô đã tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô” nhưng vẫn còn cái nhìn lệch lạc về Ngài. Đây là bằng chứng: khi Đức Giêsu loan báo lần nhất cuộc Thương khó và Phục sinh: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”(Mc 8,31), Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người đến nỗi Đức Giêsu nặng lời quở trách ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”(Mc 8,33).

Té ra, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, tư tưởng của Phêrô và của Nhóm Mười Hai hướng tới một nhân vật nổi nang nào đó trong xã hội. Chẳng hạn một chính trị gia có khả năng giải phóng dân tộc khỏi bị lệ thuộc vào đế quốc Rôma. Do đó, huấn dụ của Đức Giêsu liền sau đó là “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34) làm cho các ông bỡ ngỡ và khó hiểu.

Lần thứ hai loan báo về cuộc Thương khó và Phục sinh, Đức Giêsu còn gặp một thất bại lớn hơn nữa. Ngài nói với các môn đệ: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” (Mc 9,31). Nhưng các ông không hiểu lời đó và còn sợ không dám hỏi Người. Tại sao lời loan báo không lọt vào tai môn đệ? Điều xẩy ra liền sau đó giúp cắt nghĩa sự kiện. Marcô cho ta thấy các môn đệ bận tâm về điều ngược hẳn lại với cuộc Thương khó của Thầy các ông. Vì thế, trên đường đi Capharnaum, các ông đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập (Mc 8,34).

BÀI HỌC ĐỨC GIÊSU MUỐN DẠY.

Marcô kể tiếp: “Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy? Các ông làm thinh vì khi đi dọc đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,33-34)

Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của các ông! Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, còn các ông thì chỉ nghĩ đến “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Messia. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Messia, một vương quốc trần gian mà các ông đã tranh luận xem ai là người đứng đầu khi Chúa và các ông thắng thế.

Bị Chúa hỏi bất ngờ, các ông hổ thẹn không dám nói sự thật, các ông ngậm miệng làm thinh. Sau đó Người ngồi xuống với tư cách là một vị tôn sư, Người ôn tồn dạy bảo: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35)

Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ tự này: người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chu” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.

Nhưng một lần nữa, đó không phải là làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chủ” mà thôi! Ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, để “thống trị”, để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.

Hervieux giải thích thêm: “Chúa lấy người rốt hết để đối chọi với người đứng đầu, lấy người đầy tớ mọi người đối chọi với người cai quản. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người.

1. Theo khuynh hướng tự nhiên.

Trong xã hội ai cũng muốn cho thân mình được đề cao, được khen ngợi, được kính trọng. Ai lại không muốn ăn trên ngồi trước, không muốn cai trị người khác, không muốn được người ta hầu hạ? Nói chung, ai cũng muốn tranh dành quyền bính trong tay để bắt mọi người phục vụ mình.

Các màn kịch tranh giành quyền bính đã diễn ra từ xưa. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng phải tống cổ hắn xuống làm bá chủ hoả ngục. Adong Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn và chết chóc.

Đến đây chúng ta phải giải đáp một thắc mắc: Người ta có được phép có CAO VỌNG không? Cao vọng là tốt hay xấu?

a) Cao vọng tự nhiên của con người.

Thực ra cao vọng không là gì sai trái cả. Người Anh có một câu tục ngữ: “My place is at the top”: chỗ của tôi phải ở trên cao. Đấy là câu tâm niệm giúp kích thích mọi người phải biết sống vươn lên, không được sống tà tà trên ngọc cỏ, đáng cho các triết gia hiện sinh gán cho cái danh hiệu là “cuộc đời đáng nôn mửa”.

Thực vậy, sống là phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên, cao vọng có thể vượt qua tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình mong ước.

Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh đời sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chỉ cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì?

Truyện: Tôn Ngộ Không.

Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh còn học 78 phép biến hoá, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời. Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan. Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa. Ngộ bực tức vì ngu mà bị mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện.

Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi Ngộ Không bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý.

Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau. Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không. Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không.

(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr. 182)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiều gì về sứ mạng Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.

Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.

b) Cao vọng của các vĩ nhân.

Những con người danh tiếng được gọi là vĩ nhân đều có một lý tưởng là phục vụ nhân quần xã hội. Đây không phải là một quan điểm lý tưởng không thể thực hiện, nhưng là quan điểm hết sức phù hợp với lương tri nhân loại. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người đời nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, không phải là những người đã tự nhủ thầm “Ta có thể lợi dụng đất nước này, xã hội này để gây thêm uy tín cho riêng ta, thực hiện những tham vọng của riêng ta như thế nào đây” , nhưng tự hỏi “Ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc mình như thế nào”? Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội, nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia dân tộc, xã hội, đồng bào mình bất cứ lúc nào và ở đâu.

Truyện: Nghị viên Paedateros.

Người Hy lạp có một câu truyện về một người ơ thành Spartes tên gọi Paedateros là một ứng củ viên. Người ta chọn và bầu ra ba trăm người để cai trị thành Spartes. Paedateros là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói:

– Tiếc thật, người ta không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh , anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào”?

Nhưng Paedateros thản nhiên đáp:

– Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Spartes này còn có ba trăm người có tài, có đức hơn tôi.

Đây là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng

đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.

Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: “Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui”.

Theo tinh thần Kitô giáo.

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã làm một bài thánh ca để ca tụng tinh thần phục của Đức Giêsu:

Đức Giêsu Kitô

Vốn dĩ là Thiên Chúa

Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì

Địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.

Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,

Mặc lấy thân nô lệ,

Trở nên giống phàm nhân,

Sống như người trần thế.

Người lại còn hạ mình,

Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

Chết trên cây thập tự…. (Pl 2,6-8).

Đức Giêsu đã có một tinh thần khác hẳn với tinh thần thấp kém của loài người. Bởi vì con người tự nhiên thích ngồi chỗ cao, thích được khen ngợi, thích làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phải chỉ là tật xấu của các môn đệ Đức Giêsu. Tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng, Chúa bảo chúng ta phải loại bỏ, vì Tin Mừng chủ trương sống khiêm nhường, quên mình, quảng đại, coi mình không là gì hết, bởi vì hễ ai trở nên bé nhỏ trước mặt loài người, kẻ ấy sẽ được đề cao trước Thiên Chúa. Lòng khiêm nhượng ở đời này là điều kiện và là mức đo sự cao trọng trong Nước Trời.

Truyện: chân phước Charles de Foucauld.

Cha Charles de Foucauld, , biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin Mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn vê với Chúa.

Thực hành trong cuộc sống.

Chúng ta sống sau những biến cố đau thương của Đức Giêsu, chúng ta suy niệm, học hỏi những biến cố đó. Thế nhưng sau đó chúng ta vẫn còn tranh giành địa vị lớn nhỏ: những chuyện tranh giành ngôi thứ trong các giáo xứ, tức là các môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy nhiều nơi còn phản ảnh tâm trạng của các môn đệ xưa kia. Chung qui cũng tại bản năng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị người khác mà thời đại nào cũng thế.

Đức Giêsu đã dạy chúng ta: “Hãy làm tôi tớ cho mọi ngườ” (Mc 9,35). Đã là tôi tớ thì phải hầu hạ, phục vụ, giúp đỡ. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ chính mình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh” (Cv 20,35). Bởi vì, cho tức là trao tặng cho chính mình.

Người Anh có một câu ngạn ngữ tương tự:

Điều tôi tiêu đi thì tôi có

Điều tôi giữ lại thì tôi mất

Điều tôi cho đi thì tôi được.

Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương con người mới thực sự triển nở và gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới tìm được hạnh phúc đích thật và một sự bình an trong cuộc sống:

Thành quả của sự thinh lặng là cầu nguyện,

Thành quả của sự cầu nguyện là yêu thương,

Thành quả của yêu thương là phục vụ,

Thành quả của phục vụ là bình an.

(Mẹ Têrêsa Calcutta)

Truyện: bác sĩ Mike.

Bác sĩ Mike trong phim “Vận mệnh” thấy đời mình thất bại nhiều, chồng chết… có ý định tự tử. Tình cờ đỡ đẻ cứu sống được cả mẹ con, lúc ấy Miki bừng tỉnh và thấy đời mình còn có ích cho người khác. Miki quyết định đến một hòn đảo xa phục vụ đồng bào với số ngày còn lại. Và Miki đã thực sự thấy mình được hạnh phúc trong phục vụ.

Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của bác sĩ Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc Au châu để trở thành một bác sĩ thừa sai phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi châu:

“Tôi không biết số phận bạn ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: “Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc”.

 

 

 

 

 

20. Ai là người lớn nhất

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

 

Tin mừng Mc 9: 30-37:  Con đường tự hạ làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất, người đáng kể trước mặt Thiên Chúa.

Tin Mẹ Têrêxa thành Calcutta qua đời ngày 5/9/97 đã gây một chấn động lớn lao cho mọi từng lớp nhân dân trên thế giới, tiếp theo cái chết của Công Nương Diana. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Đức Giáo Hoàng đã làm lễ tưởng niệm Mẹ ngay tại biệt thự của Ngài ở Rôma. Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: “Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này”. Còn Thủ Tướng Singapo, Goh Chok Tong nói: “Mẹ Têrêxa là một trong những người phụ nữ nổi bật nhất của thế kỷ 20”. Tổng Thống Hàn Quốc, Kim Young Sam cũng nói: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêxa cho những người bần cùng trên thế giới”. Thủ Tướng Albani, Fatos Nano thì cho rằng: “Mẹ Têrêxa là con người nhỏ bé nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả” và ông đã muốn đưa thi hài Mẹ về an táng tại Albani, đất nước quê hương của Mẹ. Nhưng ý nguyện đó không thành. Riêng tại Ấn độ, hàng ngàn người dân thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, đã xếp hàng dài 3km trước trụ sở Dòng nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta để được vào viếng Mẹ lần cuối. Lễ quốc táng của Mẹ Têrêxa đã được cử hành ngày 13/9/87 tại sân vận động quốc gia New Delhi. Đức Giáo Hoàng đã cử Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh, Angelo Sodano đại diện Ngài đến chủ tế lễ an táng. Mười hai ngàn người gồm các nhà lãnh đạo, các chính khách, các nhân vật nổi tiếng trên thế giới cùng hàng triệu người khác đã đến tiễn đưa lần cuối Mẹ Têrêxa, “vị Thánh của những người cùng khổ”.

Thưa anh chị em,

Tại sao Mẹ Têrêxa thành Calcutta, một nữ tu nhỏ bé lại trở nên một vĩ nhân như thế? Chính vì Mẹ đã khiêm tốn phục vụ những người nghèo khổ nhất. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã giải quyết cuộc tranh luận giữa các môn đệ: “Ai là người lớn nhất” khi Ngài tuyên bố: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”, có nghĩa là ai muốn làm người lớn nhất thì phải làm người nhỏ nhất và phục vụ anh em. Sau lời tuyên bố vắn gọn đó, Chúa Giêsu làm một cử chỉ để giải thích: Ngài dẫn một em bé đến, đặt em đứng giữa các môn đệ và sau khi ôm em bé vào lòng, Ngài tuyên bố: “Ai tiếp đón một em bé như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy, và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

Nhiều lần Chúa Giêsu tự đồng hóa với những người nhỏ bé, nghèo hèn. Ở đây Chúa Giêsu tự đồng hóa với một em bé, một con người chưa được kể là thành phần của xã hội Do Thái. – Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, đàn bà và trẻ em là những con người không đáng kể – Trẻ nhỏ là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Ở đây, Chúa Giêsu ôm em bé vào lòng. Đó là một cử chỉ tiếp đón, chấp nhận, quý mến. “Ai tiếp đón một em bé như em bé này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy”. Tiếp đón một em bé như thế chắc chắn không phải để em bé đó hầu hạ mình, nhưng là hầu hạ em bé đó. Một người nhỏ bé, nghèo hèn nhất, không đáng kể trước mặt người đời cũng được Chúa Giêsu coi là hiện thân của Ngài, đón tiếp người ấy là đón tiếp Ngài và là đón tiếp chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài.

Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất. Vậy thì chúng ta đừng sợ làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người. Phục vụ một người không đáng kể nhất, một người bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội là phục vụ chính Chúa Giêsu, phục vụ chính Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao trở nên người rốt hết và phục vụ mọi người lại làm cho Mẹ Têrêxa Calcutta thành người lớn nhất, được mọi người yêu mến, kính phục, ngưỡng mộ và thương tiếc. Cuộc đời của Mẹ Têrêxa là một câu chuyện rất đời thường và có ít tình tiết éo le để khán giả háo hức tò mò. Hầu như gần cả cuộc đời của Mẹ, nào có ống kính paparazzi – những người săn ảnh – nào bám theo Mẹ khi Mẹ khòm lưng trên những con đường tăm tối ở Calcutta để ôm vào lòng những con người đang chết đói, hay khi Mẹ băng bó vết thương lở lói của những người phong cùi, nghèo khổ, chán chường, những người bị bỏ rơi, cô độc. Khi Ủy ban Nobel Hòa Bình đem vinh quang đến cho Mẹ thì Mẹ đã viết gần trọn câu chuyện về cuộc đời mình, một cuộc đời âm thầm lặng lẽ theo đuổi con đường mà mình đã chọn: phục vụ những người nghèo khổ nhất. Trong suốt cuộc đời hoạt động từ thiện bác ái, Mẹ Têrêxa không muốn danh vọng mà chỉ làm việc vì tình yêu Thiên Chúa. Mẹ đã nói: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi mỗi một người khi tôi rửa vết thương của người cùi, tôi cảm thấy như là tôi đang chăm sóc cho chính Chúa”.

Anh chị em thân mến,

Con đường tự hạ làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất, người đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã làm người rốt hết, làm tôi tớ mọi người, đem chính mạng sống của Ngài mà phục vụ mọi người. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài đến tột đỉnh vinh quang, đã ban tặng Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,5-11). Ai đi con đường khiêm tốn phục vụ như Ngài sẽ được Ngài đưa tới vinh quang tột đỉnh với Ngài.

Một khi Chúa Giêsu đã tự hạ làm người rốt hết và tự đồng hóa với cả những người mà thế gian coi như không có, thì mọi thái độ thống trị đã bị kết án rồi, vì thống trị, chà đạp bất cứ ai cũng là thống trị, chà đạp chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.

Mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay phải tự đặt câu hỏi: “Trong địa vị của tôi, tôi phải làm sao để thực sự phục vụ người khác?”. Mẹ Têrêxa với hơn 4000 Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ có mặt ở 250 cộng đoàn rải rác trên các nước là những mẫu gương phục vụ của thời đại chúng ta.

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ