Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1364563

NGƯỜI RỜI KHỎI CÁC ÔNG

NGƯỜI RỜI KHỎI CÁC ÔNG

 

(*) – Chú giải của Noel Quession Cũng như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người với một thứ hình tượng -người máy. Năm nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa… vượt qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp. Trong Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì “trời đã muộn “ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ “ (Lc 24, 13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục sinh… Trước khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ, cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ, hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên” trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên hữu Người “ theo kiểu nói của khải huyền. Đặc biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời bỏ “ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt… Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 – 24, 51). Như thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó là trang cuối cùng của Tin Mùng! Trong khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua không gian và thời gian… thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Đức Giêsu Nadarét…là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội. Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”. Đức Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”. Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác… Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi. “Việc ứng nghiệm… và hiểu biết Kinh Thánh!”. Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế giới của ‘Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện, vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin” (Lc 24, 25). “Như sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”. Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh: thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa. “Các Thánh Vịnh”: Đức Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không? Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. Luca nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất… chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu! “Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước… “. Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe… mà là một chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời gian… “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận! Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng, Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay, chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch liệt công phẫn của những người được coi là “sạch” đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo… những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình… những kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ… những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu thuế cộng tác với đế quốc Rôma… mọi người nghèo khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ” không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người, bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người. Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã giảng dạy và hành động… sẽ tiếp tục và được chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh em sẽ là chứng nhân! “. Lạy Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho tình yêu cứu độ phổ quát! Và đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống. Họ rất cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần “quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống! Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự dữ bạo lực, hận thù, chết chóc… độc ác, tà thuyết, sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ… vẫn còn tiếp diễn. Đấng sẽ trao ban quyền năng đó… ở đây không nêu tên… bởi vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa… Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống. Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được lên trời. Đó là sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây ý nghĩa đó. So sánh với cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên, ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó. Tất cả đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu xem sao: “Người dẫn các ông… “, “Người giơ tay chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để trở về với Chúa Cha trên trời”. Chưa bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ. Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau: Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành” của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở “trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền Thánh’. Đó chỉ là một biểu tượng… một sự đối xứng. Một phụng tự mới. (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN – NĂM C CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN- Chú giải của Fiches Dominicales VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI: *1. Đối với Đức Giêsu: hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua. Trong sách Công Vụ Tông đồ, chúng ta đã đọc thấy biến cố Lên Trời xảy ra vào ngày thứ Bốn mươi sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin Mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Làm như thế Luca muốn nêu bật tính thống nhất không thể tách biệt của mầu nhiệm vượt Qua: biến cố Lên Trời biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền bá chủ thần linh của Người. biến cố ấy đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu bằng việc tôn phong thiên quốc của Đấng Mêsia. Mâu thuẫn rõ ràng về thời gian – điều hoàn toàn tương hợp với cách hành văn của thời ấy – không nhằm mục tiêu nào khác hơn là phô bày tất cả vẻ phong phú của biến cố cứu độ này. Sau khi tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Đức Giêsu mở tâm hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”. Khi dẫn các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Đức Giêsu từ biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào lúc lìa cõi thế.. Và đang khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi. Mặc dầu chia ly hoặc phải chia ly, nhưng tất cả mọi người đều chấp nhận từ nay không còn được trông thấy, mà chỉ sống bằng lòng tin nên các môn đệ cũng “lòng đầy hoan hỉ”, “các ông trở lại Giêrusalem, ở trong Đền thờ” – nơi mọi việc đã khởi đầu khi thiên thần báo tin cho ông Dacaria – các ông “không ngớt chúc tụng Thiên Chúa”. Roland Meynet quảng giải: “Các môn đệ xem thấy Đức Giêsu lần cuối, cuộc chia ly thế là dứt khoát rồi. Tuy nhiên, các ông không buồn sầu, ngược lại, các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Chính là vì Thầy không đi vào cõi chết như họ đã trông thấy ba ngày trước, nhưng được đưa lên trời, đến cùng Chúa Cha. Các ông bái lạy Người và không ngớt chúc tụng Thiên Chúa. Nếu Đền thờ là nơi và là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, thì các ông biết rằng: nếu các ông luôn ở lại trước mặt Đấng tối Cao, các ông sẽ không phải xa cách Đấng vừa về với Ngài. Liệu các ông có lòng đầy hoan hỉ như thế, nếu các ông không tin chắc rằng Đức Giêsu luôn ở với các ông, mặc dầu không trông thấy? Xem như nghịch lý: cuộc chia ly đối với các ông lại trở thành dấu chỉ rằng Đức Giêsu luôn ở bên các ông. (L’Evangile selon saint Luc, Cerf cuốn 2, trg 239). *2. Đối với Hội Thánh: Khai mở một kỷ nguyên mới. Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”. “Anh em là chứng nhân của những điều đó”. Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá sức riêng của các ông. Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Một kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc ‘I’in Mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Công việc gieo trồng này sẽ bội thu, bởi vì nó bắt rễ lừ những gì vừa hoàn thành lại Giêrusalem, đó là việc “Đức Giêsu chịu khổ nạn, sống lại và sự sám hối được rao giảng nhân danh Người để được ơn tha tội”. BÀI ĐỌC THÊM: *1. Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động (G. Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69). Tận cùng lại là một khởi đầu. Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem. Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người. Đức Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất. Cử chỉ cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành cho các ông, thì Người lìa các ông…”. Đức Giêsu lên trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn mãi: bàn tay đang chúc phúc. Còn các ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất, giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu. Giờ đây các môn đệ Đức Giêsu – những môn đệ thời xưa và những môn đệ thời nay – cần phải loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng. *2. Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ. Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ và được đưa lên trời”. Có điều lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt các ông có nhiệm vụ làm chứng. Biến cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở lại. Biến cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ hiện cho mọi dân mọi nước. Đồng thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can đảm. Biến cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả. Biến cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng Người. CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN – NĂM C CUỘC TỪ BIỆT MANG CHIỀU KÍCH PHUNG5 VỤ(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông Lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố đồng một lúc: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Ki-tô có các Tông Đồ là những chứng nhân và cuộc Thăng Thiên vô hình của Chúa Giê-su không có bất kỳ một nhân chứng nào. Cv 1: 1-11 Sách Công Vụ tường thuật biến cố Thăng Thiên hữu hình, sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ Ngài. Dt 9: 24-28; 10: 19-23 Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái gợi ra biến cố Thăng Thiên vô hình: cuộc trở về mầu nhiệm của Chúa Giê-su bên cạnh Chúa Cha, từ đó xuất phát những thành quả thiêng liêng: Chúa Giê-su khai đường mở lối vào cung thánh trên trời cho tất cả mọi người, nhờ hy tế thập toàn của Ngài, trổi vượt vô cùng tận so với hiệu quả tạm thời của hy tế mà vị thượng tế Cựu Ước dâng tiến trong đền thờ Giê-ru-sa-lem tại thế. Lc 24: 46-53 Phần cuối Tin Mừng Lu-ca tường thuật việc Chúa Phục Sinh từ biệt các môn đệ và được rước lên trời. BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11) Bài Đọc I trích phần đầu sách Công Vụ Tông Đồ, được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, nhất là nhắc lại “quyển thứ nhất”, tức là sách Tin Mừng Thứ Ba. Quả thật, sách Tin Mừng Lu-ca hoàn tất với biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được rước lên trời…” (Lc 24: 52) trong khi sách Công Vụ Tông Đồ bắt đầu với việc nêu lên hai lần cùng một biến cố: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (Cv 1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (Cv 1: 9). Như vậy, bằng kỷ thuật văn chương, thánh Lu-ca trình bày biến cố Thăng Thiên vừa hoàn tất sách Tin Mừng Thứ Ba và vừa khởi đầu sách Công Vụ Tông Đồ: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Ki-tô và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài ở giữa loài người; hoàn tất sứ mạng tại thế của Đức Giê-su và khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ. *1.Hai biến cố Thăng Thiên: Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên: -Biến cố Thăng Thiên hữu hình là cuộc lên trời của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên hữu hình nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta. -Biến cố Thăng Thiên vô hình và mầu nhiệm không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay khi Ngài sống lại; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức. Đó là cuộc tôn vinh của Chúa Con, cuộc tôn vinh mà Đức Giê-su xin trong lời nguyện hiến tế của Ngài trước giờ tử nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5). *2.Ý nghĩa của biến cố Thăng Thiên hữu hình: Tại sao Đức Giê-su từ biệt các môn đệ mà lên trời cách ngoạn mục như thế, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, đáng ra Đức Giê-su chỉ cần loan báo cho họ biết rằng Ngài sẽ không hiện ra với họ theo cách thế này nữa, rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày từ khi Ngài sống lại? Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài khi thi hành sứ mạng công khai của Ngài. Ngài đã tự nhận mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật huyền nhiệm mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời” (Đn 7: 13). Đức Giê-su đã quả quyết với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13). Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Đức Giê-su đã nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống” và cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời trong tương lai của Ngài. *3.Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh: “Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”: Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở nơi con số này: nó hình thành nên một đối chiếu với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa giữa phép rửa của Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc sống công khai của Ngài để chuẩn bị cho sứ mạng cứu độ của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho sứ mạng của các môn đệ Ngài. Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy. .. Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa… (Tb 12: 16-22). *4.Phép rửa trong Thánh Thần: Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những lời sau hết và loan báo cho họ biết trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (1: 5) Vào lúc đó, các ông hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Câu hỏi này cho thấy giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn nung nấu trong lòng của các ông. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới (1: 7-8). Nhưng vào lúc nầy, vì chưa nhận được ân ban Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được. *5.Một đám mây quyện lấy Chúa Giê-su: Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng đã phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; ở đây cũng đám mây quyện lấy Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”, ở đây cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài. *6.Thời gian thi hành sứ vụ: Sức mạnh từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (1: 8). Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì sách Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ. Đây là lúc phải hành động chứ không là lưu luyến cách vô bổ như thiên sứ nhắc nhở các ông: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?… Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng khi vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình luôn luôn hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm. BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28; 10: 19-23) Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái này bàn đến cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su theo quan điểm đặc thù. Tác giả đề xuất chiều kích thần học và tính hiệu quả thần thiêng của cuộc Thăng Thiên bằng cách so sánh với sự kiện vị thượng tế Cựu Ước tiến vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem một năm một lần. Chúng ta biết rằng tác giả Thư gởi tín hữu Do thái coi sứ vụ của Chúa Giê-su là chức vụ tư tế và trình bày Chúa Giê-su là vị thượng tế thập toàn. Chúng ta không biết rõ tác giả Thư gởi tín hữu Do thái là ai; nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra ông ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái qua những ám chỉ trong Thư này, ví dụ như phụng vụ Đền Thờ được gợi ra. Thư gởi tín hữu Do thái chắc chắn được viết trước năm 70, vì vào năm này Đền Thờ bị thiêu hủy, hàng tư tế phục vụ Đền Thờ và các hy tế tiến dâng trong Đền Thờ không còn nữa. Vì thế, những lời tác giả khuyên bao gồm những điểm nhấn mang tính thời sự vượt quá sự hiểu biết của chúng ta. *1.Chức tư tế cao trọng của Chúa Ki-tô: “Quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật” (Dt 9: 24). Sự so sánh này được khai triển sâu xa suốt bức thư này dựa trên nghi thức lễ Xá Tội một năm một lần, vào ngày đại lễ đó vị thượng tế tiến vào nơi cực thánh, biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài trên cõi thế. Với cử chỉ này, vị thượng tế toan tính tiến gần Thiên Chúa chừng nào có thể để cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi cho chính mình và cho dân của mình qua việc dâng tiến máu tế vật. Còn Chúa Ki-tô đã tiến vào cung thánh trên trời để “giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta”. *2.Hy tế cao trọng của Chúa Ki-tô: Máu mà vị thượng tế dâng tiến là máu súc vật, tế vật thụ động và vô ý thức. Chúa Ki-tô dâng tiến chính máu mình, trong một hiến lễ tự nguyện; vì thế Ngài chỉ dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần: hy tế của Ngài có một giá trị vĩnh viễn. Những hy tế được vị thượng tế tiến dâng nhằm xóa những tội lỗi trong năm qua. Còn Chúa Ki-tô, Ngài “đã tự hiến một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người” (9: 28). *3.Chúa Ki-tô khai lối mở đường cho mọi người tiến gần Thiên Chúa: Chắc chắn những Ki-tô hữu gốc Do thái đã luyến nhớ nhiều nỗi hoài niệm về những giây phút long trọng vào lúc mọi người chờ đợi trước tiền sảnh, lối ra của vị thượng tế với ơn tha thứ tội lỗi. Làm thế nào họ không thể không so sánh được chứ! Trong phụng vụ Mô-sê, một nhân vật duy nhất là vị thượng tế mới có đủ tư cách tiến gần Thiên Chúa. Trái lại, trong phụng vụ Ki-tô giáo, nhờ Chúa Ki-tô, Đấng Trung Gian tối cao và thập toàn, mọi người mạnh dạn tiến gần Thiên Chúa qua cuộc sống bí tích. Mỗi người tín hữu “hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền”, nghĩa là nhờ bí tích Thánh Tẩy, bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể… Chúa Ki-tô đã khai lối mở đường cho chúng ta tiến bước vào cung thánh trên trời. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã hiểu rất rõ ý nghĩa thần học của biến cố Thăng Thiên, nhưng ông diễn tả biến cố này bằng những ngôn từ cổ kính. Những lời khuyên sau cùng trở nên khẩn thiết; nhiều đoạn văn của thư này hé lộ những người nhận thư bị những mối nghi nan ngờ vực xâu xé. Họ phải kiên vững trong niềm xác tín và nhất là trong niềm hy vọng bất khả chuyển lay. TIN MỪNG (Lc 24: 46-53) Thánh Lu-ca đã để lại cho chúng ta hai bài trình thuật về cuộc Thăng Thiên: một trong sách Tin Mừng Lu-ca và một khác trong sách Công Vụ. Trong chu trình Phụng Vụ năm C này, chúng ta gặp hai bài trình thuật: bài trình thuật của sách Công Vụ (Bài Đọc I) có nhiều tình tiết hơn; còn bài trình thuật của Tin Mừng thì đạm bạc hơn. Tuy nhiên, sự dị biệt đáng chú ý nhất liên quan đến giây phút biến cố xảy ra. Trong sách Tin Mừng, thánh Lu-ca định vị biến cố vào chính buổi chiều Phục Sinh; trong sách Công Vụ, bốn mươi ngày sau đó. Đây là cách thức mà thánh Lu-ca đã nỗ lực thuật lại hai cuộc Thăng Thiên: biến cố Chúa Giê-su trở về bên cạnh Cha Ngài ngay liền sau khi Ngài sống lại và biến cố Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ sau khi Ngài đã liên tục hiện ra cho các ông. *1.Ôn cố tri tân: Chúa Giê-su nhắc cho họ nhớ lại rằng Đức Ki-tô phải chịu đau khổ và sống lại từ cõi chết (x. Cv 2: 1-4). Bài học “ôn cố tri tân” (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Dường như thánh Lu-ca đã muốn cô động giáo huấn mà Chúa Giê-su ban trong suốt bốn mươi ngày được sách Công Vụ thuật lại. Đây là bản tóm lược bài giáo lý tiên khởi, giải thích sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô và chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ. *2.Lời hứa ban Thánh Thần: Biến cố Thăng Thiên là điều kiện tất yếu của biến cố Ngũ Tuần, vì Thăng Thiên đồng nghĩa với việc Chúa Giê-su được tôn vinh. Chính khi Đức Ki-tô “được tôn vinh”, Người sẽ sai phái Thánh Thần hay Chúa Cha sai phái Thánh Thần nhân danh Người (Ga 14: 26). Tin Mừng Gioan nhấn mạnh nhiều lần: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39) hay “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vây, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16: 7). Mặt khác, việc Đức Giê-su không còn hiện diện hữu hình nữa là một giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho các môn đệ một cách thế hiện diện khác của Người, sự hiện diện vô hình và nội tại trong Thánh Thần. *3.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ thi hành sứ vụ: Trong cuộc gặp gỡ sau cùng, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ là chứng nhân của Ngài. Biến cố Thăng Thiên không là điểm kết thúc của một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là điểm bắt đầu của một công trình bao la mà giờ đây được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi. Như trong sách Công Vụ (1: 8), sứ vụ này phải được thực hiện “Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem” (24: 47). Chính từ Giê-ru-sa-lem mà ánh sáng Phục Sinh bừng lên; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ chờ đợi Chúa Thánh Thần; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ ở lại, “lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53). *4.Cuộc từ biệt mang chiều kích phụng vụ: “Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông”: Thánh Lu-ca đề cập đến chính biến cố Thăng Thiên; thánh ký ban cho biến cố này một cung điệu phụng vụ: Đức Giê-su dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, nơi đối diện với Thành Thánh và Đền Thờ, Người giơ tay chúc lành cho các ông, rồi Người từ biệt các ông và được rước lên trời, trong khi các ông sụp lạy Người. Sách Công Vụ thuật lại một phụng vụ từ biệt tương tự khác. Khi thánh Phao-lô từ giã các kỳ mục Hội Thánh Ê-phê-xô với niềm xác tín rằng thánh nhân sẽ không còn gặp lại các ông nữa, thánh nhân quy tụ họ trên bờ biển, căn dặn họ những lời sau cùng, phó thác họ cho Thiên Chúa, rồi thánh Phao-lô cùng tất cả anh em quỳ gối xuống cầu nguyện (Cv 20: 17-36). *5.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ chan chứa hy vọng: Thánh Lu-ca tường thuật cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su với nhiều tình tiết sống động trong sách Công Vụ Tông Đồ; vì thế, trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đưa ra một bài trình thuật tóm lược về mầu nhiệm này, mầu nhiệm đánh dấu việc kết thúc sự hiện diện hữu hình của Chúa Giê-su trên trần thế. Biến cố Thăng Thiên mở ra một niềm hy vọng mới: Đức Giê-su được rước lên trời cùng với thân thể của Người. Người không rũ bỏ nhân tính để trở về bên cạnh Chúa Cha. Nhân tính, cùng với Đức Giê-su, được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Đầu ở đâu, thì các chi thể cũng sẽ ở đó”. Việc Chúa Giê-su lên trời cùng với thân thể của Người loan báo cuộc lên trời của chúng ta; và vinh quang của Người loan báo cuộc tôn vinh thân thể của chính chúng ta. Thăng Thiên và Phục Sinh là hai khía cạnh của cùng một mầu nhiệm; phụng vụ Giáo Hội tiên khởi cử hành hai biến cố này cùng nhau. *6.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ đầy tràn niềm tin: “Họ trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ”. Thật mâu thuẫn biết bao, thay vì đắm mình trong nỗi phiền muộn, các Tông Đồ tràn đầy niềm vui sau khi đã chứng kiến cuộc biến mất của Chúa Giê-su. Đây là niềm vui thời thiên sai, niềm vui cứu độ mà thánh Lu-ca đã thắp sáng hơn các thánh ký khác; niềm vui về lời hứa ban Thánh Thần, nhưng nhất là niềm vui sâu xa của một niềm tin có nền tảng chắc chắn. *7.Trong Đền Thờ: “Họ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Sách Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với việc tư tế Da-ca-ri-a thi hành sứ vụ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và hoàn tất với việc các Tông Đồ chúc tụng Thiên Chúa cũng ở trong Đền Thờ này. Đối với tư tế Da-ca-ri-a, sứ thần loan báo cho ông cuộc sinh hạ con trai của ông, đó sẽ là Gioan Tẩy Giả trong tương lai; còn đối với các môn đệ Ngài, Chúa Giê-su hứa với các ông Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sách Tin Mừng Lu-ca mở ra và đóng lại với dưới dấu chỉ của lời hứa và dấu chỉ của lời cầu nguyện.

home Mục lục Lưu trữ