Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 73

Tổng truy cập: 1367414

NGƯỜI TÔI TỚ CỦA GIAVÊ

Người Tôi Tớ của Giavê

(Suy niệm của Sr Mai An Linh OP)

 

Người Tôi tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu nhiều đau khổ, và người đương thời với Người cho đó là hình phạt của Thiên Chúa, nhưng thực chất Người chịu đau khổ vì tội lòai người (Is 50,5-9a). Đau khổ tột cùng là cái chết trên Thập Giá để cứu độ nhân lọai (Mc.8,27-35) mà Người đã thấy trước và loan báo cho các môn đệ của Người. Dù phải đau khổ nhưng Người vẫn một lòng tin tưởng Thiên Chúa (Đáp ca TV 114). Đó là tư tưởng xuyên suốt của phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

Bài Tin Mừng của Thánh Marcô cho thấy, Chúa Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình, Người dẫn họ trên con đường để họ tự khám phá. Người đời coi Ngài chỉ là một tiên tri như Gioan Baotixita, Elia, hay một tiên tri nào khác, là tiên tri thì rao giảng một học thuyết, ai muốn theo thì theo, không thì thôi. Còn các môn đệ thì sao? – Phêrô đại diện tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô”, một Mêsia đau khổ – chúng con sẽ theo Thầy dù phải vác Thánh Giá và phải bỏ mình. Phêrô nói thế hoàn toàn do mạc khải chứ chính ông cũng không hiểu hết ý nghĩa của câu nói.

Con đừơng của Chúa Giêsu là chọn kiếp người, là vâng phục ý Thiên Chúa Cha và biết rõ đâu là con đường Thiên Chúa Cha muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt những toan tính của lòai người. Người nhìn thấy và thông báo cho các môn đệ về định mệnh đang chờ đợi mình, Người biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái, và bóng dáng cái chết đang rình rập, nhưng Người không thối lui mà tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ lòai người. Đó là sự lựa chọn để trung tín với tình yêu, nên sau lời tuyên tín của Phêrô Chúa Giêsu liền thông báo về cái chết.

Lời tiên báo về cuộc khổ nạn làm cho Phêrô bỡ ngỡ không sao hiểu được, vì ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã can ngăn Chúa bằng một tình yêu chân thành, nhưng Đức Kitô cảm nhận đó là một cám dỗ nên đã quở Phêrô “Hãy đi sau Ta”, nghĩa là hãy ở đúng vị trí của người môn đệ là đi theo chứ không phải là người dẫn đường cho Người, muốn đi trước Người. Lời quở mắng cũng là lời cảnh tỉnh để các môn đệ nhận định lại việc đi theo Chúa Giêsu. Người nói “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo tôi”, muốn làm môn đệ Người thì cũng phải đi theo con đường Người đi, đó là con đường thập giá.

Đi theo Chúa Giêsu đòi buộc phải từ bỏ, từ bỏ tận căn, là từ bỏ chính mình, từ bỏ này là gốc rễ của những từ bỏ khác. Hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta và đòi chúng ta phải trả lời, câu trả lời bắt nguồn từ kinh nghiệm sống với Người. Nếu chúng ta trả lời như Phêrô  “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta hãy ca đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy. Đây là lời mời gọi hoàn toàn tự do, chúng ta có toàn quyền lực chọn, Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Từ bỏ mình là từ bỏ mọi sự kể cả mạng sống, mà từ bỏ mình không phải chỉ một lần là đủ mà là thái độ sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.

Từ bỏ chính mình không phải là vong thân mà trở nên giống Đức Kitô “đồng hình đồng dạng” với Chúa Giêsu, nên giống Đức Kitô là tìm lại hình ảnh ban đầu. Từ bỏ để theo Chúa chúng ta không mất gì mà còn được tất cả, bỏ cái mau qua lấy cái vĩnh hằng, bỏ cái tương đối lấy cái tuyệt đối, bỏ cái chết để lấy cái sống. Thế nhưng, sống tận căn thân phận từ bỏ là đi theo con đường của Thầy, con đường độc đạo, con đường nhiều bấp bênh và tăm tồi, chúng ta có dám sống không? Cuộc sống của chúng ta sẽ vén mở căn tính của Đức Kitô, dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Người, để chúng ta có thể nói như Phaolô “anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Giêsu”.

Lạy Chúa, Chúa đã chấp nhận cuộc sống đau thương và cái chết nhục nhã để đem lại sự sống đời đời cho chúng con. Xin Chúa luôn nhắc nhớ chúng con vấn nạn xưa “còn con, con bảo Thầy là ai” để chúng con tăng thêm lòng mến và niềm tin vững mạnh vào Chúa. Nhờ đó, chúng con biết kiên trì theo Người trên con đường khước từ bản thân, sống nhẫn nhục, hiền hậu, xả thân theo gương Chúa.

 

 

 

 

 

77. Nghe và thực hành Lời Chúa để nhận biết Chúa

(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)

 

I-sa-ia viết 4 ca khúc về người tôi tớ trong phần II từ chương 40-55 nói về “Sách an ủi Israel”. Đây là thiên trường ca nói lên việc một người đang cổ gắng trung thành thực hiện nhiệm vụ Đức Chúa đã giao với biết bao đau khổ.

Đức tin của chúng ta bị thử thách trong đau khổ do sự liên kết với Thiên Chúa. Vậy “Nếu Thiên Chúa thương yêu tôi sao lại để tôi phải đau khổ?”. Trong những trường hợp như muôn vàn khổ đau bất ngờ đổ ập đến do bệnh hoạn, mà nếu người ấy chịu được thì đó là bằng chứng của một tôi tớ Chúa. Khi đau khổ do nhiệm vụ mang tới; nếu muốn tránh né; chỉ cần từ chối nhiệm vụ là xong. Thế nhưng người tôi tớ muốn trung thành; do vì “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe”; nên tôi vẫn chấp nhận hứng chịu đau khổ vì tôi tin rằng Đức Chúa sẽ không quên tôi là người đang trung kiên thực hiện nhiệm vụ Ngài.

Làm đúng chưa chắc chúng ta sẽ thành công. Vì ở đây không nói đến sự thành công, nhưng nói về cách thể hiện lòng trung thành. Nhưng làm sao trung thành được khi phải trả giá bằng đau khổ? Sự đau khổ là điều khó tránh khỏi và không lối thoát? Và người tôi tớ này đưa chúng ta đến một ý tưởng khôn ngoan là “Đức Chúa sẽ hổ trợ tôi khiến tôi không phải hổ thẹn”.

Người tôi tớ này là ai, nói về sự đau khổ của nhiệm vụ trong thời xa xưa của nhiều thế kỷ trước Chúa Kitô? Phải chăng là một người đang cố gắng sống theo đường lối của Thiên Chúa giữa những đố kỵ của thế gian. Hay đó là dân Israel, đang bị lưu đày xa quê hương trong một xã hội khác văn hóa và tín ngưỡng. Hay có thể là một ngôn sứ như I-sai-a chẳng hạn; đang bị dân phản đối vì nói lời Chúa cho họ nghe.

Những câu hỏi trên có thể đặt ra cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Trong cộng đoàn đang thờ phượng hôm nay, cũng có một số người là những tôi tớ Chúa đang chịu đau khổ vì đang cố gắng sống đức tin trong một xã hội đầy dị biệt, chống đối khinh miệt. Là một Kitô hữu chúng ta hãy học nơi Đức Giêsu Kitô là tạo cho chúng ta một “vẻ mặt lạnh” đối với thế gian và luôn hướng về Thánh Đô để rao giảng tin mừng trong thân phận người được Thánh Linh xức dầu luôn trung thành với sứ vụ cho dù có bị thế gian “đánh vặt râu..”nói theo cách I-sai-a (Is 50,6).

Trong phúc âm hôm nay, thánh Mác-cô đưa ra trường hợp về danh tính của người tôi tớ Thiên Chúa. Ngài đặt câu hỏi với các môn đệ là người ta và cả các ông nữa nói thầy là ai. Câu hỏi này đánh dấu bước đầu huấn luyện của Ngài cho các môn đồ, tuy ngắn gọn nhưng thật đầy đủ trong việc làm và nếp nghỉ của các môn đồ, trên đường đến Thánh Đô và những miền xa xôi khác. Chúa Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Có thể câu trả lời sẽ làm sáng tỏ sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài không ám chỉ Ngài là người tôi tớ đang bị đau khổ như I-sai-a; nhưng, lời Ngài nói về những đau khổ sắp đến Ngài sẽ nhận có liên quan đến những tôi tớ đau khổ của I-sai-a; và đó cũng là hệ quả mà những Kitô hữu chúng ta; những tôi tớ của Chúa; sẽ nhận được khi đang cố gắng thực thi sứ vụ ở trần gian.

Trên đường đến Giê-ru-sa-lem, Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rằng các ông sẽ phải gặp những gian truân đau khổ và các ông có còn quyết tâm làm môn đệ của Ngài không. Vì thế Chúa Giêsu đặt câu hỏi đó cho các ông và qua đó Ngài cũng hỏi chúng ta nữa. Câu trả lời của chúng ta sẽ chứng minh sự tuyên xưng đức tin của mình về Ngài ra sao, và chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hàng ngày nơi trần gian thế nào?

Các môn đệ đã trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu nhưng không sâu sắc. Ngài không phải chỉ là một ngôn sứ hay một người thánh thiện nhất trong lịch sử trần gian. Đúng Ngài là một ngôn sứ lớn, là đấng Mê-si-a, là Đức Kitô. Nhưng Ngài không đem đến quyền lực huy hoàng và thống trị trần gian để trả về cho dân Israel. Trái lại, Ngài nói đến sự chống đối của các lãnh đạo tôn giáo. Ngài sẽ bị ”các kỳ mục, thượng tế kinh sư từ chối” Vậy Ngài là ai và Ngài lãnh đạo thế nào mà khác lạ vậy?.

Cũng như “Người tôi tớ đau khổ” của I-sai-a Chúa Giêsu sẽ chịu nhiều đau khổ về lẻ công chính. Tôi quen một người, vì bất đồng ý kiến với người chủ về việc thường lừa gạt khách hàng, nên bị cắt lương và cho tạm thôi việc có thời gian. Tôi cũng biết một phụ nữ có trình độ chuyên môn vững chắc ở ngoài đời lại làm việc trong hội đồng giáo xứ, vì bà nói “Tôi muốn thực hiện cuộc sống cho có ý nghĩa”. Tôi cũng biết một thợ sữa xe hơi khi anh sữa xe cho ai it hơn thời gian dự kiến thì anh tính tiền ít lại so với ước tính ban đầu. Tôi quen với một nữ sinh viên khi được biết các bạn mình nhận được một đáp án bài thi bị đánh cắp trước đó; cô đã không hề nhìn vào đó để làm bài cho mình mặc dầu điểm các môn thi của cô ta không được tốt. Khi nghe về những người này; những người đã bị thiệt hại khi làm những điều đúng; có người cho rằng họ ngu. Không phải dễ gì ai cũng làm được việc đó. Những tôi tớ đau khổ của I-sai-a nói “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe, nên tôi không chống đối hay quay lưng lại với Ngài”. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài muốn cho các môn đệ nhìn thấy mọi việc trong cái nhìn mới qua đó các môn đệ sẽ hiểu được Ngài qua việc chấp nhận hay từ chối đau khổ là một yếu tố không thể thiếu được trong sứ vụ của các ông.

Thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay nói rất rõ là nếu tai chúng ta được mở rồi, và đã một lòng tin vào phúc âm thì chỉ có một hành động duy nhất là “Hãy thực hiện những điều chúng ta đã nghe”. Cuộc sống và lời dạy của Chúa Giêsu đã mở tai chúng ta, Vì vậy hãy nên giống Ngài bằng cách khi nghe ở đâu cần dến sự giúp đỡ, chúng ta hãy đáp lời ngay vì theo thánh Gia-cô-bê: ”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).

Vừa qua tôi có đi đo thị lực. Trong khi đo, bác sĩ thường thay đổi những tròng kính như thế nào để tôi có thể đọc rõ được những hàng chữ chiếu trên tường. Chúa Giêsu cũng như bác sĩ mắt vậy, Ngài hỏi các môn đệ nhiều câu hỏi để các ông thấy rõ hơn về Ngài. Khi họ trả lời là mắt họ đã mở ra. Và cũng để cải thiện thêm tầm nhìn của tâm hồn họ, Ngài đã dùng các lời giảng dạy, các phép lạ chữa lành bệnh, qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài đã làm các ông thấy rõ hơn để có thể nói rằng “Bây giờ tôi thấy rất rõ rồi”. Vì là con người, nên trong tương lai các ông lại không trông thấy rõ ràng nữa và đôi khi bị mờ đi vì những tia sáng khác lạ chiếu vào.

Cũng như các môn đệ, chúng ta là những cá nhân sinh hoạt trong cộng đoàn giáo hội để cùng nhau thờ phượng Chúa. Theo lịch sử giáo hội, chúng ta thấy đã nhiều lần giáo hội dựa vào quyền thế trần gian; đàn áp một số cá nhân có nhiều thắc mắc vấn nạn, chấp nhận chế độ nô lệ, lập nên quân đội tấn công bắn giết những người thệ phản, từ chối những nhân tài trong giới nữ. v.v… Trong suốt thời quá khứ và một số lần trong thời hiện tại, giáo hội đã không trông thấy rõ được. Thế nên giáo hội cần những người có đôi mắt sáng suốt hơn như các thánh, các ngôn sứ để kích thích giáo hội trông thấy rõ hơn. Đời sống của họ chính là một câu hỏi cho chúng ta: “Bạn nghĩ Chúa Giêsu là ai?”. Các thánh đã giúp chúng ta sống và tuyên xưng đức tin qua những hành động và lời nói. Và như thánh Gia-cô-bê đã nhắc: Đức tin không có việc làm là đức tin chết.

Để trả lời câu hỏi, “Còn anh em, anh em nghỉ Thầy là ai?”. Chỉ có một cách trả lời là làm cho cộng đoàn chúng ta trở nên như các môn đệ đầu tiên đến với Chúa Giêsu để xem Ngài là ai. Những điều các ông đã thấy, được trình bày trong các sách phúc âm, trong các thư gởi cho tín hữu các cộng đoàn tiên khởi. Hôm nay chúng ta cùng nhau thờ phượng Chúa cũng là một cách để nghe những điều mà các môn đệ các môn đệ đã thấy rõ Chúa Giêsu là ai. Đức tin của các ông giúp cho chúng ta tin thờ Thiên Chúa hôm nay, qua bí tích thánh thể chúng ta nhận dược mình máu thánh Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta thấy tỏ tường hơn.

 

 

 

 

 

78. Xung đột – Như Hạ, OP

 

Mở đầu Kỷ Nguyên Thứ Ba, vào đúng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, 12 tháng 03 năm 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xin Thiên Chúa và nhân loại tha thứ những tội lỗi Giáo hội đã làm cho thế giới suốt hai kỷ nguyên qua. Người nhìn nhận đôi khi Giáo hội đã phản bội Tin Mừng khi dùng bạo lực để phục vụ chân lý, đã phạm tội “chống lại nhân phẩm phụ nữ và chia rẽ nhân loại,” và không luôn luôn liên đới với những người nghèo và người bị áp bức.[1]

Hình ảnh ÐGH sám hối vì tội lỗi Giáo hội đã làm cho cả thế giới và Giáo hội sững sờ đến kinh ngạc. Trong suốt lịch sử và truyền thống Giáo hội, chưa hề thấy một vị Giáo Hoàng nào làm được một cử chỉ như thế. Dám hỏi hàng Giáo Phẩm Việt nam có ai dám làm điều đó chưa, trong khi suốt hơn bốn trăm năm đồng hành với dân tộc, chắc chắn Giaó Hội Việt nam không thể tránh được những lầm lỗi? Biết bao những ngộ nhận và ác cảm với Giáo hội vẫn chưa được khai thông. Ngay sau cuộc sám hối của ÐGH Gioan Phaolô II, người ta đã chờ đợi. Nhưng tới nay, vẫn không có một cử chỉ đẹp nào từ phía Giáo hội Việt nam.

Trong khi đó, ngày 30 tháng 9 năm 1997, nhớ lại thái độ thụ động của Giáo hội Pháp hồi thế chiến thứ hai và trách nhiệm đối với người Do thái, các Giám mục Pháp đã công bố bản “Tuyên Ngôn Sám Hối” với những lời lẽ chân thành và đau đớn như sau: “Chúng tôi thú nhận tội lỗi này. Chúng tôi xin Thiên Chúa thứ tha, và xin dân tộc Do thái lắng nghe những lời hối hận của chúng tôi.”[2] Tại sao ÐGH Gioan Phaolô II và Hàng Giám Mục Pháp đã làm được cử chỉ vô cùng ngoạn mục đó? Vì các ngài đã theo sát gót Ðấng đã từng quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Hành động thống hối đó chứng tỏ sự hiểu biết và yêu mến Chúa nơi các ngài cao tới mức nào. Nếu không hiểu biết, không thể theo Chúa.

Ngày xưa, các tông đồ hăm hở bước theo Chúa. Nhưng đến một lúc muốn củng cố bước chân các ngài, Chúa đã không ngần ngại tra vấn các ông về hình ảnh và căn tính đích thực của Chúa. Phải chăng cách đặt vấn đề chứng tỏ Chúa sống lệ thuộc dư luận? Thực tế, cách đặt vấn đề đó cho ta có cảm tưởng Chúa muốn phân biệt dư luận “bên ngoài” của quần chúng và niềm tin từ “bên trong” của các môn đệ.

Sau khi Chúa tra vấn, Phêrô trả lời ngay: “Thầy là Ðấng Kitô.”[3] Nhưng ông nói không đúng lúc. Phải đợi đến lúc xuất hiện trước Thượng Hội Ðồng, khi nắm chắc cái chết, Chúa mới hiên ngang trả lời cho vị Thượng Tế Người là Ðức Kitô, Con Ðấng Ðáng Chúc Tụng.[4] Phêrô không sai lầm. Nhưng Chúa đọc được những gì đang diễn ra trong đáy lòng ông. Bởi vậy, vừa nói xong, không những ông không được khen thưởng, mà còn bị Chúa “sửa lưng” và “cấm ngặt.”

Cuộc xung đột tư tưởng giữa Chúa và Phêrô bắt đầu. Phêrô quá trần tục đến nỗi không hiểu nổi ý định của Thiên Chúa. Bằng chứng, ông đã ngăn cản khi Thầy tự xưng là Con Người với một viễn ảnh vô cùng đen tối. Ngược với hình ảnh “Ðấng Kitô” trong đầu Phêrô và truyền thống Do thái, “Con Người” mới là hình ảnh trung thực nhất diễn tả căn tính và sứ mạng của Chúa. Nếu là “Con Người,” chắc chắn Người sẽ có một số phận vô cùng bi đát, chứ không oai hùng như giấc mơ Thiên Sai (Nhà Vua, Ngôn Sứ hay Tư Tế, Người Ðược Xức Dầu) có ảnh hưởng lớn tới tương lai Tuyển dân.[5] Ông Phêrô cố ngăn cản Thầy thực hiện sứ mệnh Con Người. Ðến đây, Người có hành động quyết liệt và giáng cho ông một đòn chí tử. Tại sao tôn xưng Chúa là Ðấng Kitô và ngăn cản Thầy khỏi rơi vào bể khổ lại là một tội lỗi giống Satan? Không hiểu tại sao Thầy lại có lời lẽ quá cứng rắn như thế?

Từ tư tưởng đến hành động, hai Thầy trò đều không gặp nhau. Thầy luôn theo sát nút ý muốn Thiên Chúa. Không ai hiểu Thiên Chúa bằng Thầy. Thiên Chúa muốn “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”[6] Bởi đấy, sau khi Người bị lên án, cây Thập giá nặng nề đã đè bẹp Người xuống tận bùn đen. Ðó là cách phục vụ lớn lao nhất và khó khăn nhất. Con Thiên Chúa hủy mình ra không. Ðến lúc gần bị hành hình, Người vẫn còn lớn tiếng kêu gọi tôi: “Hãy theo Thầy!”[7]

Có ai dám bước theo Thầy tới mức đó không? Thầy đã hoàn toàn từ bỏ và thắng vượt chính mình. Ðó là bài học đắt giá nhất! Ðó cũng là tặng phẩm cao quý nhất, tặng phẩm vượt trên mọi ân sủng và ân huệ Chúa Kitô ban cho người Chúa yêu là tôi.[8] Ân huệ lớn lao đó bắt đầu từ một niềm tin sâu xa mà tôi phải đáp trả cho Chúa Giêsu tận đáy lòng. Ðối với tôi, thực sự Chúa Giêsu là ai? Ðức tin cá nhân tôi đồng thời cũng là lời tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Khi tra vấn tôi, Chúa Giêsu muốn tôi xác minh xem điều tôi tin có phù hợp với điều Giáo hội dạy khi trung thành loan báo Tin mừng không.

Tôi có thể bị cám dỗ sống đức tin như trong sách vở. Chính ông Phêrô đã trải qua cơn cám dỗ này. Ông đã trả lời đúng bài bản, nhưng lại không hiểu gì về sứ điệp của Chúa. Bởi thế, ông mới bị la rầy là Satan. Kinh Thánh cho biết Satan tưởng mình thông minh bằng Thiên Chúa. Nó tìm mọi cách thuyết phục con người sống độc lập với Ðấng Tạo Hóa và tự quyết về bản chất thiện ác. Giữa xã hội tục hóa hôm nay, tôi cũng đang bị lôi cuốn sống độc lập với Thiên Chúa.

Dù thế, hôm nay Chúa Giêsu vẫn kêu gọi tôi từ bỏ chính mình. Có bỏ mình mới có thể bước theo Thầy.[9] Mặc dù không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại chìm ngập trong nền văn hóa và lối sống đầy tính ích kỷ, không biết tôi đã bước theo Thầy cách nào và tới đâu rồi? Chỉ một mình Thiên Chúa mới biết con đường nào dẫn tôi đến thành công, dù không phải bao giờ cũng thành công như tôi muốn.

Bao lâu chưa hiểu biết rõ về Chúa Giêsu, tôi chưa thể làm chứng cho Người và lôi cuốn mọi người theo Chúa. Một cuộc sống chỉ lo hưởng thụ là bằng chứng tố cáo tôi chưa hiểu gì về Chúa Giêsu. Khi đã chiếm được quyền bính và của cải, tôi cố sức giữ chặt và khai thác, mặc bao người đang đau khổ chung quanh. Tôi tự mãn về công trạng và hưởng thụ những gì đã chiếm hữu và nhất định không chia sẻ cho ai. Miệng tôi vẫn ca tụng và rao giảng Ðức Kitô, nhưng lòng tôi vẫn nghĩ như Phêrô! Nếp sống hưởng thụ và tự mãn tố cáo tôi chưa hiểu Ðức Kitô là Con Người Ðau Khổ. Những than thân trách phận suốt bao năm tháng là bằng chứng tôi chưa đặt tất cả niềm tin và hy vọng vào chiến thắng cuối cùng Ðức Giêsu Phục sinh sẽ dành cho tôi. Bao năm tháng đã trôi qua. Thật là uổng phí!!!

Nhưng không phải chỉ có tôi. “Tiếc thay, phải thú nhận rằng lỗi lầm của Phêrô vẫn được lập lại trong lịch sử. Cũng thế, vào một lúc nào đó một số người trong Giáo hội, kể cả những Ðấng Kế Vị Thánh Phêrô, đã hành xử như thể Nước Thiên Chúa thuộc về thế gian này và quyết tâm chiến thắng kẻ thù (nếu cần cũng dùng vũ lực), thay vì chịu đau khổ và tử đạo.”[10]

Nhìn vào Giáo Hội Việt nam hôm nay, chúng ta thấy gì? Có lẽ GHVN đang sống như một Nước Thiên Chúa hoàn hảo trên mặt đất. Không bao giờ sai lầm. Chẳng cần ai góp ý hay sửa sai. Như thế, vô tình đã mắc vào cạm bẫy thế gian. Dựa trên quyền bính để khẳng quyết giá trị và chỗ đứng Giáo hội. Nếu thế làm sao có thể lôi kéo mọi người ra khỏi cơn lốc thời đại? Thế gian đang dùng mọi phương tiện truyền thông, phim ảnh, tiểu thuyết, phong tục và những thông tin kỳ lạ để trình bày một Ðức Giêsu theo quan niệm Phêrô. Phim truyện “Giải Mã Da Vinci Code” chỉ là ấn bản mới nhất trong một chuỗi dài những nỗ lực của Satan hôm nay.[11]

Hơn lúc nào, trước khi dấn thân phục vụ để rao giảng Chúa Kitô[12], GHVN hãy trả lời câu hỏi Chúa đã đặt ra cho Phêrô và các tông đồ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”[13] Từ chỗ xác tín đúng đắn mới phục vụ đắc lực và rao giảng hiệu quả được. Nếu không, ngay cả sự hiện hữu của chúng ta cũng vô nghĩa, nói chi đến việc phục vụ. Ðúng như thánh Hillary Poitiers nói khi mới gia nhập Ðạo: “Trước khi biết Chúa, con không hiện hữu.”

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa là ai. Giữa những thử thách hôm nay, xin cho con luôn đứng vững và tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của Chúa Phục sinh. Nhờ đó, con sẽ được thánh hóa, dấn thân làm chứng, xây dựng một xã hội tự do, công bình và hòa bình. Lạy Chúa, xin hãy đến! Amen.

——————————————————–

[1] x. www.findarticles.com ngày 15/09/2006.

[2] www.sacredheart.edu

[3] Mc 8:29.

[4] x. Mc 11:61 tt.

[5] x. Harper’s Bible Dictionary, ed Paul J. Achtemeier & Associates, Harper & Row, Publishers, San Francisco, 1985.

[6] Mt 20:28; Mc 10:45.

[7] Ga 21:19; Lc. 5:27; Mc 2:14; Mt 9:9.

[8] Theo Thánh Phanxicô Assisi.

[9] x. Mc 8:34

[10] Linh mục Cantalamessa: Zenit 15.09.2006.

[11] x. Linh mục Cantalamessa: Zenit 15.09.2006

[12] Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam: Thư Mục Vụ Năm 2006: Sống Ðạo Hôm Nay.

[13] Mc 8:29.

 

 

 

 

 

79. Vào trong vinh quang ngang qua đau khổ

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

 

HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Sau khi nghe biết dư luận quần chúng, Đức Giê-su đòi các môn đệ phải xác định đức tin vào Người: “Anh em bảo Thầy là ai?” Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô”. Từ đây Đức Giê-su bắt đầu cho các ông biết con đường Người sắp trải qua là: “qua đau khổ vào vinh quang”. Người trách Phê-rô khi ông cản Người theo con đường này. Người đòi ai muốn làm môn đệ của Người phải bỏ mình vác thập giá mình mà đi theo Người.

CHÚ THÍCH:

– C 27-28: + “Người ta nói Thầy là ai?”: Qua các môn đệ, Đức Giê-su muốn biết người ta nghĩ gì về Người. + Là Gio-an Tẩy Giả tái sinh: Đây là ý tưởng của đảng Hê-rô-đê (x. Mt 14,2). + Là Ê-li-a: Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã tuyên sấm về sứ mệnh của ngôn sứ Ê-li-a là sẽ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23). + Là một trong các vị ngôn sứ: Dân chúng tin Đức Giê-su ít ra là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến giáo huấn dân Người.

– C 29-30: + Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Đức Giê-su đặt câu hỏi này với các môn đệ để xem nhận thức của các ông về Người. + Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”: Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Kitô hay Đấng Cứu Thế. Đây là lời tuyên xưng chính xác về thân thế Đức Giê-su. Do lời tuyên xưng này mà Phê-rô đã được khen ngợi là có phúc (x. Mt 16,16-17). Chính Đức Giê-su cũng thừa nhận Người là Đấng Kitô trước tòa án tôn giáo (x Mc 14,61-62). Lời tuyên xưng của Phê-rô tuy đúng, nhưng chưa rõ ràng, vì người ta có thể hiểu sai sứ mệnh cứu thế của Người và gán cho Người sứ mệnh cứu thế trần tục, nhằm giải phóng dân Do thái bằng bạo lực, thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma. + Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người: Đức Giê-su cấm nói ra không phải để phủ nhận lời tuyên tín của Phê-rô, nhưng vì muốn tránh sự cuồng nhiệt của dân Do Thái muốn sử dụng bạo lực để lật đổ nhà cầm quyền Rô-ma. Người cấm các môn đệ nói ra Người là Đấng Kitô vì cần có thêm thời gian rao giảng về sứ mệnh cứu thế thiêng liêng tinh thần phù hợp thánh ý Thiên Chúa. Cuối cùng, Người cấm vì “Giờ của Người chưa đến”, vì cần phải nhờ Thần Khí tác động, người ta mới có thể chấp nhận được chân lý này.

– C 31-33: + Người bắt đầu dạy các ông biết…: Đây là lúc Đức Giê-su loan báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua. + Con Người: Khi tự nhận là Con Người, Đức Giê-su vừa khiêm tốn xưng mình là: “kẻ hèn mọn này”, lại vừa theo ý nghĩa biểu tượng của văn chương khải huyền Do Thái về Con Người là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Tv 110,1) và sẽ đến trên mây trời (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su đã dùng tước hiệu Con Người nhiều hơn tước hiệu Mêsia. là tước hiệu đã bị người Do Thái tục hóa mang mầu sắc chính trị. Trong Tân Ước, từ ngữ Con Người được lặp đi lặp lại tới 70 lần. Con Người có nghĩa là “Người Tôi tớ Gia-vê, bị loại bỏ và bị giết để sau cùng được tôn vinh và cứu rỗi muôn người” (x. Mc 8,31). Trước khi xuất hiện trong vinh quang vào ngày sau hết, Con Người phải tự hạ, sống cuộc đời trần thế, bị nghèo khó (x. Mt 8,20), bị khinh dể (x. Mt 11,19), bị xúc phạm (x. Mt 12,32), bị tử hình thập giá (x. Ga 3,14), rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh (x. Dt 2,6-9). Cuối cùng khi đến ngày tận thế, Con Người sẽ lại đến ngự trên ngai uy quyền mà xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). + Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Tuy tuyên xưng Đức Giê-su với tước hiệu là Đấng Kitô, nhưng Phê-rô chưa hiểu được ý nghĩa thực sự của tước hiệu này. Ông chưa hiểu rằng theo thánh ý Thiên Chúa thì “Đấng Kitô phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang” (x Lc 24,26). Ông đã thay mặt anh em can trách Đức Giê-su đừng chịu như vậy, vì các ông đều không muốn thấy Thầy phải chịu thất bại trước rồi sau đó mới chiến thắng. Các ông muốn Thầy sớm lên làm vua Mê-si-a để các ông cũng được chia sẻ quyền cao chức trọng (x. Lc 22,24), được ngồi bên tả bên hữu Thầy (x. Mt 20,21). + Người trách Phê-rô: “Xa-tan! Lui lại đằng sau Thầy!: Khi kéo riêng Đức Giê-su ra mà can trách, ông phê-rô đóng vai trò của Xa-tan, kẻ đã cám dỗ xúi giục Đức Giê-su đi con đường khác với thánh ý Thiên Chúa. Nhưng Đức Giê-su ra lệnh cho Phê-rô phải trở về chỗ của người môn đệ là ở phía sau và phải theo đường lối của Thầy (x. Mc 1,17.20; 8,34). + Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”: Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: ”Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,9). Ông Phê-rô đã không hiểu thánh ý Thiên Chúa là muốn cho Đức Giê-su cứu thế bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” và mời gọi người ta đi theo con đường này (x. Mt 16,21-23).

– C 34-35: + “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”: Đây là lời Đức Giê-su mời gọi người ta tự nguyện theo Người chứ không ép buộc. + Từ bỏ chính mình: “Từ bỏ” ở đây đồng nghĩa với “ghét” hay “yêu ít hơn” hoặc “coi thường” bản thân mình (x. Lc 14,26 ; Ga 12,25). + Vác thập giá mình: Thành ngữ “vác thập giá mình” gợi lên thói tục quân lính bắt tử tội phải tự vác cây thập giá của mình đến nơi hành hình. Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, cũng phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. + “Cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Liều mạng sống mình vì Đức Giê-su và vì Tin Mừng thì cứu được mạng sống ấy”: Câu nói nghịch lý này mời gọi người nghe quan tâm đến giá trị đích thực của cuộc sống đời sau. Một người sống ích kỷ ở đời này, thì sẽ bị mất đời sống vĩnh hằng ở đời sau. Nhưng nếu ai sẵn sàng chịu thua thiệt, chịu chết vì đức tin ở đời này, thì sẽ có được sự sống đời đời do Chúa sẽ ban sau này.

CÂU HỎI:

1) Khi được hỏi, các môn đệ đã thuật lại cho Đức Giê-su dư luận của quần chúng về Người thế nào?

2) Phê-rô tuyên xứng Đức Giê-su là ai? Lời tuyên xưng ấy đúng hay sai? Người Do thái thời đó có hiểu tước hiệu ấy đúng như thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su thi hành không?

3) Tại sao Đức Giê-su cấm các môn đệ nói ra tước hiệu Kitô mà Phê-rô vừa tuyên xưng?

4) Khi xưng mình là “Con Người”, Đức Giê-su ngầm dạy điều gì về vai trò và sứ mệnh của Người?

5) Tại sao Đức Giê-su thích xưng mình là “Con Người” hơn là “Đấng Mê-si-a” hay “Đấng Kitô” nghĩa là “Đấng Thiên Sai”?

6) Trong Tân Ước, từ “Con Người” được nói tới bao nhiêu lần và mang ý nghĩa gì?

7) Tại sao ông Phê-rô can trách Đức Giê-su?

8) Tại sao Đức Giê-su lại mắng Phê-rô là Sa-tan và bắt ông lui lại phía sau?

9) Thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su phải cứu thế bằng con đường nào?

10) Đức Giê-su đòi ai tình nguyện đi theo làm môn đệ của Người phải làm gì?

11) “Từ bỏ mình”có ý nghĩa thế nào?

12) Câu “vác thập giá mình mà theo Thầy” nghĩa là gì?

SỐNG LỜI CHÚA

LỜI CHÚA: Chúa phán: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34):

CÂU CHUYỆN:

1) Vào trong vinh quang ngang qua đau khổ:

Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Ít-ra-en, khi còn là thiếu nữ đã thất vọng về nhan sắc của mình. Bà thuật lại giai đoạn thiếu thời ấy như sau: “Mỗi lần nhìn khuôn mặt của mình trong gương, tôi lại thầm trách sao Ông Trời quá bất công, khi ban cho tôi một khuôn mặt không mấy đẹp đẽ duyên dáng như các bạn đồng trang lứa khác. Mãi về sau tôi mới nhận ra rằng: Chính khuôn mặt không mấy đẹp đẽ của tôi lại là điều may mắn và mang lại sự tốt lành cho tôi. Bởi vì điều ấy buộc tôi luôn phải cố gắng khám phá ra những tài năng sâu kín nơi bản thân và phát triển chúng ngày một tốt hơn. Cuối cùng tôi rút ra được bài học này là: Một phụ nữ đáng quí trọng không phải ở chỗ có một sắc đẹp trời cho, vì nó không mấy bền vững và sẽ phai tàn theo năm tháng. Nhưng giá trị đích thực của một phụ nữ ở chỗ cố gắng phấn đấu làm việc, để khám phá ra khả năng Chúa ban cho mình, rồi phát huy những mặt tích cực, biến những tài năng đó trở thành phương tiện giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội…”.

GÔN-ĐA MÊ đã chấp nhận thập giá của mình, không than khóc phản kháng, không tức giận chán nản, nhưng sẵn sàng vác nó lên vai với lòng can đảm vượt qua trở ngại, để cuối cùng đã trở thành vị nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Israel (Giảng lễ CN B – M. Link).

2) Bài thơ “Dọc Đường”:

Thi sĩ RÔ-BỚT BAO-NING HA-MINH-TƠN (Robert Browning Hamilton) trong bài thơ “Dọc đường” (Along the Road), đã tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay bằng những lời thơ đầy ý nghĩa như sau: “Tôi đã cùng bước đi một quãng đường với Nữ Thần Hoan Lạc. Dọc đường, nàng đã cho tôi được sung sướng bằng những lời ve vuốt tự ái của tôi. Nhưng rồi cuối cùng tôi chẳng thấy khôn ngoan hơn bao nhiêu. Sau đó, tôi lại bước đi với Nữ Thần Đau Khổ. Dọc đàng, nàng chẳng nói một lời. Nhưng cuối cùng tôi lại thấy mình lớn lên về kinh nghiệm sống, về sự khôn ngoan, nhờ trải qua kinh nghiệm đau thương suốt thời gian bước đi bên nàng…”.

THẢO LUẬN:

1) Mỗi khi gặp được những điều may lành như ý, chúng ta thường dâng lời tạ ơn Chúa. Nhưng khi gặp rủi ro trái ý, chúng ta nên làm gì theo Lời Chúa dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”?

2) “Vác thập giá mình mà theo” Đức Giêsu cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận hoa quả của Thần Khí như thánh Phaolô đã liệt kê sau đây: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ… Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).

SUY NIỆM:

1) “Thầy là Đấng Kitô”:

Câu hỏi “Người ta bảo Con Người là ai?” của Đức Giêsu đã được đặt ra cho dân Do thái, cho các môn đệ xưa và cho mỗi tín hữu chúng ta hôm nay. Dư luận dân Do thái coi Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy giả tái sinh, là ngôn sứ Ê-li-a hay một vị ngôn sứ thời xưa. Tông đồ Phêrô đã tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Kitô”. Tước vị Kitô hay “Chris-tus”, “Mê-si-a” ám chỉ Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong làm Vua Thiên Sai, để giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma và trở thành một dân tộc hùng mạnh. Tuy nhiên sau đó Đức Giê-su lại mặc khải cho ông Phê-rô biết sứ mệnh Kitô của Người là cứu độ nhân loại bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” (x Mt 16,21). Ngừơi là “Tôi trung của Đức Chúa”, chịu đau khổ để đền tội thay cho dân và làm cho muôn người được nên công chính như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x Is 53,3-11).

Lời Đức Giêsu tiên báo về việc Người sẽ trải qua cuộc Tử Nạn rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh đã làm cho Tông đồ Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được tại sao Thầy của ông lại phải chịu điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã phản ứng ngay, bằng việc kéo Đức Giêsu lại mà can trách Người. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan nói qua miệng Phêrô, nên Người đã bảo ông: “Satan, hãy lui lại sau Ta”. Thực vậy: Ngay từ khi gọi Simon Phêrô ở bờ hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho thấy chỗ của ông: “Hãy đi sau Thầy”. Chỗ đứng của môn đệ là ở đằng sau Thầy. Qua câu này, Đức Giêsu muốn đưa ông Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông đang muốn đi trước dẫn đường cho Người. Lý do Đức Giêsu nếu ra: “Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người.” Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan của loài người. “Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người.” (1 C 1,25)

2) “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình” (x Mt 16,24):

Đi theo Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu, từ hàng giáo phẩm đến giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Tất cả mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi đi theo Người. Theo sau Đức Giêsu đòi phải từ bỏ: Các môn đệ đầu tiên đã bỏ nghề chài lưới, bỏ cả cha già cùng những người làm công mà theo Thầy. Ở đây, Đức Giêsu đòi hỏi không phải chỉ từ bỏ một vật hay người nào đó, mà là từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Người. Như thế có thể định nghĩa: Kitô hữu là người vác thập giá mình đi theo sau Đức Giêsu cũng đang vác cây thập giá. Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài tình nguyện gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta hôm nay là gì?:

– Là từ bỏ chính mình, bỏ đi “cái tôi” tự ái, ích kỷ; lòng ham mê tiền bạc, danh vọng, quyền hành và các đam mê bất chính khác. Là từ bỏ con người cũ để nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x Rm 8,29), tìm lại hình ảnh ban đầu tốt đẹp khi mới được sáng tạo “giống như Thiên Chúa” (x Stk 1,26).

– Là vác thập giá mình: Vác thập giá là thái độ tự chủ, vượt lên trên những đòi hỏi của bản năng. Vác thập giá là thái độ nỗ lực muốn nên hoàn thiện, là quyết tâm lọai bỏ con người “thuộc thể”, để mặc lấy con người “thuộc linh” được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy: “vác thập giá mình” là sẵn lòng chấp nhận những đau khổ và rủi ro hoặc thất bại gặp phải trong cuộc sống, noi gương Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ trong cuộc khổ nạn đau thương của Người.

“Vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu” cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện mình khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận được hoa quả của Thần Khí, như thánh Phaolô đã liệt kê trong thư Galata: “Là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ… Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).

3) Người tín hữu cần vui vẻ đón nhận đau khổ thập giá trong cuộc sống:

Cuộc đời mỗi người không phải lúc nào cũng thành công. Bên cạnh những điều như ý vẫn có những nỗi cay đắng, tủi nhục, những tai nạn rủi ro, những thất bại đau khổ… mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chịu đựng. Đau khổ thất bại vẫn có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến thành công, như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. “Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành”, từ việc tổ phụ Giu-se bị các anh bán làm nô lệ bên Ai Cập, lại trở thành tể tướng triều đình Ai Cập và về sau đã đưa cả dòng tộc của Tổ phụ Gia-cóp sang bên Ai cập tránh khỏi nạn đói kém. Tin là chấp nhận con đường thập giá chật hẹp và leo dốc đi theo Đức Giê-su như thánh Phao-lô đã khuyên đồ đệ Ti-mô-thê: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình (2 Tim 2,12-14).

4) Cần ý thức đau khổ có giá trị thanh luyện để giúp ta nên thánh:

Thiên Chúa thường sử dụng khổ đau để rèn luyện con người nên tốt hơn. Các vĩ nhân trên thế giới, các thánh nhân trong Giáo hội, đều đã trải qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống… Nhưng các ngài không nản chí buông xuôi, mà quyết tâm vượt qua để trở nên vĩ đại, nêu cao gương sáng đức tin cho hậu thế noi theo. Như “Đức Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế , rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26), người tín hữu chúng ta cũng phải trải qua đau khổ rồi mới được thành công. Từ đây thập giá không còn là hình khổ ghê sợ, nhưng là phương tiện để được vào trong vinh quang. Con người ngày nay thường ngại hãm mình, tránh sự từ bỏ và hy sinh… Nhưng nếu ai muốn cuộc sống có ý nghĩa thì phải chấp nhận gian nan thử thách như người ta thường nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim” . Một khi hiểu được ý nghĩa cao cả của đau khổ thập giá, chúng ta sẽ hãnh diện về cây thập giá như thánh Phaolô đã nói: ”Vinh dự của tôi là thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Chính cây thập giá là chiếc cầu duy nhất dẫn đưa chúng ta về tới thiên đàng đời sau.

NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay nếu con được Chúa hỏi: “Về phần con, con bảo Thầy là ai? ” Con sẽ tuyên xưng lòng tin ra sao? Xin Chúa đừng để con chỉ tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng, nhưng bằng hành động: Bằng việc cầu nguyện kết hiệp với Chúa; luôn chu toàn bổn phận với lòng yêu mến Chúa; Biết cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng; Biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… Vì biết rằng tất cả những gì Chúa để xảy đến, đều là hồng ân, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của con như thánh nữ Tê-rê-sa đã dạy. Xin giúp con năng nhìn lên thánh giá Chúa, để học sống tình thương hiến thân quảng đại của Chúa, vì: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

 

 

 

 

80. Tư tưởng, lời nói phải đi đôi với hành động

(Suy niệm của Sr. Thanh Thủy, LHC)

 

Môn đệ hỏi thầy: “Thưa thầy đâu là hành động cao trọng nhất con người có thể thực hiện được?”

Sư phụ đáp: “Ngồi suy niệm.”

Môn đệ thắc mắc: “Thưa Thầy, ngồi suy niệm như vậy sẽ dẫn đến sự thụ động chứ đâu phải hành động.”

Sư phụ: “Đúng vậy, đó là một sự thụ động.”

Môn đệ: “Thụ động thì không thể xem là cao trọng, phải không thưa Thầy?”

Sư phụ: “Sự thụ động là sức sống của hành động. Không có sự thụ động sẽ dẫn đến những hành động chết.”

(Anthony de Mello, “One minute wisdom”- Double Day, NY 1985)

Bài suy niệm này được soạn trong khi giới điện ảnh và báo chí thi nhau khai thác những dữ kiện liên quan đến cuốn phim “Da Vinci Code”. Một số nhà lãnh đạo tinh thần hô hào việc tẩy chay việc xem phim này, vì họ lo sợ những người thiếu hiểu biết sẽ bị lung lay đức tin sau khi xem phim. Một số khác thì bình tĩnh hơn, lợi dụng cơ hội để chọn chính đề tài này trong việc giảng dậy giáo lý hay trên bục giảng. Họ nhấn mạnh rằng đây chỉ là một phim giả tưởng mà người xem chỉ nên tin như tin một câu chuyện tiểu thuyết, không có thật.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cảnh Đức Kitô thẩm vấn các môn đệ của Người: “Người ta bảo Thầy là ai?” Và họ trả lời: “Gioan Tẩy Giả, tiên tri Elijah, hoặc một tiên tri nào đó…” Và chúng ta biết câu chuyện diễn tiến như thế nào. Vấn đề là mỗi người chúng ta phải có sự trả lời cho Đức Kitô về câu hỏi: “Đối với tôi, Đức Kitô là ai?” Và chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó một cách sâu xa và chân chính, sau khi chúng ta suy tư, học hỏi và quyết tâm chọn để Đức Kitô chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí của mỗi người chúng ta. Tìm hiểu và học hỏi không chỉ để biết Đức Kitô từ đâu đến, con nhà ai v.v… nhưng điều cốt yếu là tìm hiểu giáo huấn, sứ mạng và cuộc sống của Người. Vô tri bất mộ. Không hiểu thì không yêu được và không yêu thì không chọn ký thác cuộc đời cho người đó được. Một khi đã chọn rồi, thì chúng ta hãy sống chết với sự lựa chọn đó, để mỗi khi những biến cố “Da Vinci Code” khác nổi lên, chúng ta sẽ không bị lay chuyển và nao núng.

Để thực sự chọn Đức Kitô làm đối tượng duy nhất trong cuộc sống, chúng ta phải tìm hiểu, suy niệm, chọn, xác tín và hành động như chính Đức Kitô, những hành động đi ngược với trào lưu của xã hội, những hành động đi ngược lại sự mời gọi của Satan. Nếu chọn những tư tưởng, lời nói hay hành động do thần dữ xui khiến, thì chúng ta sẽ nghe Đức Kitô lên tiếng: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33). Tìm hiểu, tin và theo Đức Kitô không khó, nhưng sống cách sống của người là một thách đố: “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8:34-35).

Bài đọc hai hôm nay trích từ thư Thánh Giacobê tông đồ nhắc nhở cho chúng ta biết “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” Còn câu chuyện do Anthony de Mello kể trên thì xác định rằng, hành động mà không đi đôi với sự chiêm niệm cũng sẽ dẫn đến sự chết. Phải chăng hai xác quyết này lại là một sự mâu thuẫn? Chiêm niệm và hoạt động là hai thực trạng không thể tách rời được. Cuộc đời của Đức Kitô đầy dẫy những gương cầu nguyện, ăn chay và hành động. Chiêm niệm chuẩn bị cho hành động và hành động phải được nuôi dưỡng bằng sự chiêm niệm. Cuộc sống của các Thánh cũng không thiếu những gương sáng về việc chiêm niệm và hoạt động. Điều quan trọng vẫn là động lực hay đối tượng của việc chiêm niệm và hoạt động. “Các Thánh không phải là những người có nhiều bằng cấp hoặc những con người đạt được nhiều thành công vượt bực. Họ là những người với một hai tính cách rất giống nhau, nhưng ít ai nhận ra. Những gì họ nói luôn đi đôi với cuộc sống và việc làm của họ (Keith Miller).

Lậy Chúa, con muốn noi gương Chúa, để tư tưởng và lời nói luôn đi đôi với hành động trong cuộc đời của con.

 

 

 

 

 

81. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?

(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano OP –

Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp)

 

Thắc mắc về thân phận của Đức Giêsu đã được nhắc đến trước đó trong Tin mừng theo thánh Máccô. Đức Giêsu đã gợi lên bao hào hứng, tò mò thắc mắc và chống đối khi Người rảo quanh Galilê để rao giảng và chữa lành. Trong chương 6, người ta đã tranh luận về việc Đức Giêsu là ai và họ đã thốt lên: “Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết trỗi dậy,… là ông Êlia… một ngôn sứ” (Mc 6,14-15). Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” Và các môn đệ lặp lại ý kiến đó: “Gioan Tẩy Giả, Êlia…. một trong các ngôn sứ”.

Đức Giêsu đặt câu hỏi về thân phận của Người và nghe lời xầm xì dấy lên từ việc chữa lành và giáo huấn của Người. Một cuộc thảo luận về thân phận Đức Giêsu hẳn sẽ là cuộc trò chuyện thú vị giữa những người đang quây quần trong bữa liên hoan ngoài trời với ly bia trên tay. Câu chuyện sẽ trở nên sôi nổi với những ý kiến trái ngược nhau. Có thể cả nửa trong đám thực khách cũng nóng hùng hực như cục than hồng. Nói về một chuyện như thế có thể khiến cho cuộc trò chuyện thêm thú vị và thậm chí còn gây lên sự tò mò, và ở khía cạnh nào đó còn mang tính học hỏi; có người lấy sách ra kiểm chứng, có người lên mạng tìm câu trả lời. Nói chung là tốt. Nhưng cần một chút gì đó riêng tư hơn.

Trong sự tiến triển của niềm tin, chúng ta cần lắng nghe và học hỏi từ những người khác, nhưng việc lập lại các công thức và ý niệm thôi thì chưa đủ. Đức Giêsu đòi chúng ta phải tận hiến cuộc đời này cho Người và đón nhận cuộc đời của Người như lối sống của chúng ta – dù cho có phải chịu đau khổ và tự hiến vì danh Người. Một người môn đệ phải liên lụy thiết thân với Đức Kitô và có khả năng nói lên niềm tin của mình khi bị thử thách. Dẫu cho không ai thắc mắc về niềm tin của chúng ta nơi Đức Giêsu, thì cũng sẽ có những khoảnh khắc quan trọng, vấn nạn đó sẽ được đặt ra cho chúng ta qua những biến cố trong cuộc đời.

Chúng ta sẽ nói gì và làm gì khi: công việc mang lại cho ta một khoản tiềm thêm nếu chúng ta chấp nhận thỏa hiệp; bệnh tật khiến chúng ta và gia đình mình bị xáo trộn; một người bạn chất vấn chúng ta về niềm tin; chúng ta phải đưa ra chọn lựa về ứng cử viên cho cuộc bầu cử; chúng ta cố gắng chuyển trao niềm tin của mình cho con cháu chúng ta; giáo xứ cần thêm người giúp về khoản phục vụ nhà cấp phát lương thực cho người nghèo,…? Trong những khoảnh khắc nhất định đó của đời mình, Đức Giêsu quay về phía chúng ta và hỏi, như Người hỏi các môn đệ xưa rằng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và rồi Người sẽ nói thêm, “Vậy thì anh em sẽ làm gì nào?”

Vào những giai đoạn khác nhau trong đời, chúng ta cũng bị chất vấn những câu như thế và chúng ta phải trả lời chứ không chỉ dùng lại công thức tuyên xưng đức tin hay câu trả lời mà chúng ta học được từ các lớp giáo lý khi còn là trẻ con, nhưng phải là câu trả lời từ một đức tin trưởng thành được nuôi dưỡng bởi các bí tích, bài đọc, các cơ hội học hỏi trong giáo xứ, qua cầu nguyện, suy tư Lời Chúa – cũng như những như những gì chúng ta học được từ nỗ lực nhằm trả lời cho những thiếu thốn của con người và thế giới quanh ta.

Các môn đệ mà Đức Giêsu đặt câu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” đã có thời gian học từ Người và nhìn xem Người đối xử với những kẻ nghèo khó thiếu thốn chạy đến với Người ra sao. Các ông được “giáo dục” trong vai trò người môn đệ – chúng ta cũng vậy. Các ông phải học nhiều và sau này, trên đường sứ vụ, câu hỏi đó cứ được lặp lại mãi với các ông, “Anh em bảo Đức Giêsu là ai?” Sự đáp trả của các ông ngày càng tăng, trên hết vì các ông đã cảm nghiệm câu hỏi đó từ lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các ông. Sau này, sau cái chết và phục sinh của Người, các ông có thể trả lời xa hơn, như chúng ta đang học để tự mình trả lời: “Người là Đức Kitô phục sinh!”

Phêrô làm một cú nhảy vọt trong câu trả lời cho Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô” (hay “Đấng Mêssia”). Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu khen ngợi Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,17-18). Nhưng thánh Máccô không giống như thánh Mátthêu, và ngài có mục đích riêng của ngài.

Trong Máccô, Đức Giêsu lệnh cho tất cả các môn đệ không được nói với ai về Người. Các môn đệ trong bài Tin mừng này vẫn khá khờ khạo. Ngay trong đoạn Tin mừng trước bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khuyến cáo họ về “men Pharisêu và men Hêrôđê”. Men là mộ biểu tượng nói đến sự thổi phồng tính kiêu ngạo nhưng, dĩ nhiên, các ông lại hiểu rằng Đức Giêsu đang nói đến việc họ thiếu lương thực. Quý vị hiểu ý tôi không? Khờ khạo!

Các môn đệ, cả chúng ta cũng vậy, còn nhiều thứ phải học trên hành trình làm mộn đệ. Nhưng may cho chúng ta, Đức Giêsu không từ bỏ chúng ta, nhưng còn cho chúng ta thời gian – hết lần này đến lần khác. Vì Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là đấng Mêssia, và vì niềm mong đợi đấng mêssia đến mang theo nhiều thứ, như sự thống trị và giải phóng về mặt chính trị – Phêrô và các môn đệ còn phải học nhiều để biết Đức Giêsu là đấng Mêssia như thế nào. Vì thế, Đức Giêsu cảnh báo họ “đừng nói với ai về Người”.

Bài đọc I là “Bài Ca Người Tôi Trung” thứ ba trích từ sách ngôn sứ Isaia. Bài này có thể giúp cho các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi có được lời giải đáp cho câu hỏi của Đức Giêsu “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Khi trả lời, những tín hữu đầu tiên áp dụng hình ảnh người tôi trung của Isaia để giúp họ hiểu Đức Giêsu là ai và Người đã làm điều gì khác biệt trong cuộc đời họ.

Bài Ca Người Tôi Trung có thể được viết hướng đến lúc kết thúc thời gian lưu đày ở Babylon. Nó diễn tả niềm hy vọng rằng những người bị giam cầm sẽ được quyền năng của Thiên Chúa giải thoát. Đó là điều Thiên Chúa đã làm bằng cách khiến cho vua Kyrô nước Ba Tư trả tự do cho dân lưu đày và cho họ trở về quê cha đất tổ.

Đức Giêsu đang nói về sự đau khổ và cái chết của Người, điều đó sẽ xảy đến vì, như nhân vật của Isaia, Người đã trung tín với sứ vụ. Dù có phải chịu đau đớn và bị từ chối, Người vẫn tin tưởng nơi sự minh xét sau cùng của Thiên Chúa. Cả Đức Giêsu và ngôn sứ Isaia đều mang Tin mừng đến, nhưng cả hai đều bị từ chối.

Khoảnh khắc hỏi và trả lời trong đoạn trích Tin mừng thánh Máccô hôm nay là một điểm xoay chuyển quan trọng. Từ đầu cho đến giờ, chỉ có ma quỷ mới nhận ra Đức Giêsu là ai và Người bắt chúng phải im miệng. Nay, Phêrô gọi đích danh Đức Giêsu là “Đấng Kitô” – Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Trong Tin mừng theo thánh Máccô mà chúng ta theo dõi cho đến nay và sau này chúng ta sẽ thấy căn tính Đức Giêsu dần được hé lộ như Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa, Người là Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa cho chúng ta và luôn trung thành với thánh ý của Thiên Chúa – dẫu cho có phải chịu đau khổ và phải chết.

Nhờ con đường Đức Giêsu đã chọn mà chúng ta biết được Thiên Chúa của chúng ta, không phải một Thiên Chúa xa vời, nhưng là Đấng luôn đồng hành cùng với ta hằng ngày, trong niềm vui cũng như trong những thử thách.

Phêrô không muốn nghe gì về việc Con Người phải chịu đau khổ và bị giết chết. Ông vẫn một mực với ý niệm về một Đấng Mêssia mạnh mẽ và chiến thắng, đấng khuất phục mọi quyền lực; chứ không chịu chúng làm cho đau khổ và giết chết. Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta được tỏ lộ ra trên thập giá và rồi, được bày tỏ cách trọn vẹn, như Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “sau ba ngày” – khi Người từ cõi chết trỗi dậy.

Nếu chúng ta chỉ tìm kiếm sự hiện diện của Thiên Chúa trong những hành động uy hùng thì chúng ta sẽ thất vọng. Có thể vì chúng ta diễn giải sức mạnh không đúng cách. Đức Giêsu dập tắt niềm hy vọng của Phêrô về một đấng mêssia quyền uy về chính trị và quân sự. Nhưng, Người lại biểu lộ một kiểu sức mạnh khác bằng cách chọn ở lại với chúng ta trong sự mỏng giòn, kiếm tìm và đau khổ, cho chúng ta niềm hy vọng rằng Người có thể nâng chúng ta lên với một đời sống mới.

Kết quả của niềm tin này là, trong sự yếu đuối lại là chính sức mạnh của Thiên Chúa, chúng ta đáp lại bằng cách chọn đứng về phía những người đang gặp khó khăn, đau khổ và trở thành dấu chứng tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa cho họ – như Đức Giêsu đã làm cho chúng ta.

 

 

 

 

 

82. Nghe và thực hành Lời Chúa để nhận biết Chúa

(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano OP – Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP)

 

I-sa-ia viết 4 ca khúc về người tôi tớ trong phần II từ chương 40-55 nói về “Sách an ủi Israel”. Đây là thiên trường ca nói lên việc một người đang cổ gắng trung thành thực hiện nhiệm vụ Đức Chúa đã giao với biết bao đau khổ.

Đức tin của chúng ta bị thử thách trong đau khổ do sự liên kết với Thiên Chúa. Vậy “Nếu Thiên Chúa thương yêu tôi sao lại để tôi phải đau khổ?”. Trong những trường hợp như muôn vàn khổ đau bất ngờ đổ ập đến do bệnh hoạn, mà nếu người ấy chịu được thì đó là bằng chứng của một tôi tớ Chúa. Khi đau khổ do nhiệm vụ mang tới; nếu muốn tránh né; chỉ cần từ chối nhiệm vụ là xong. Thế nhưng người tôi tớ muốn trung thành; do vì “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe”; nên tôi vẫn chấp nhận hứng chịu đau khổ vì tôi tin rằng Đức Chúa sẽ không quên tôi là người đang trung kiên thực hiện nhiệm vụ Ngài.

Làm đúng chưa chắc chúng ta sẽ thành công. Vì ở đây không nói đến sự thành công, nhưng nói về cách thể hiện lòng trung thành. Nhưng làm sao trung thành được khi phải trả giá bằng đau khổ? Sự đau khổ là điều khó tránh khỏi và không lối thoát? Và người tôi tớ này đưa chúng ta đến một ý tưởng khôn ngoan là “Đức Chúa sẽ hổ trợ tôi khiến tôi không phải hổ thẹn”.

Người tôi tớ này là ai, nói về sự đau khổ của nhiệm vụ trong thời xa xưa của nhiều thế kỷ trước Chúa Kitô? Phải chăng là một người đang cố gắng sống theo đường lối của Thiên Chúa giữa những đố kỵ của thế gian. Hay đó là dân Israel, đang bị lưu đày xa quê hương trong một xã hội khác văn hóa và tín ngưỡng. Hay có thể là một ngôn sứ như I-sai-a chẳng hạn; đang bị dân phản đối vì nói lời Chúa cho họ nghe.

Những câu hỏi trên có thể đặt ra cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Trong cộng đoàn đang thờ phượng hôm nay, cũng có một số người là những tôi tớ Chúa đang chịu đau khổ vì đang cố gắng sống đức tin trong một xã hội đầy dị biệt, chống đối khinh miệt. Là một Kitô hữu chúng ta hãy học nơi Đức Giêsu Kitô là tạo cho chúng ta một “vẻ mặt lạnh” đối với thế gian và luôn hướng về Thánh Đô để rao giảng tin mừng trong thân phận người được Thánh Linh xức dầu luôn trung thành với sứ vụ cho dù có bị thế gian “đánh vặt râu..”nói theo cách I-sai-a (Is 50,6)

Trong phúc âm hôm nay, thánh Mác-cô đưa ra trường hợp về danh tính của người tôi tớ Thiên Chúa. Ngài đặt câu hỏi với các môn đệ là người ta và cả các ông nữa nói thầy là ai. Câu hỏi này đánh dấu bước đầu huấn luyện của Ngài cho các môn đồ, tuy ngắn gọn nhưng thật đầy đủ trong việc làm và nếp nghỉ của các môn đồ, trên đường đến Thánh Đô và những miền xa xôi khác. Chúa Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Có thể câu trả lời sẽ làm sáng tỏ sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài không ám chỉ Ngài là người tôi tớ đang bị đau khổ như I-sai-a; nhưng, lời Ngài nói về những đau khổ sắp đến Ngài sẽ nhận có liên quan đến những tôi tớ đau khổ của I-sai-a; và đó cũng là hệ quả mà những Kitô hữu chúng ta; những tôi tớ của Chúa; sẽ nhận được khi đang cố gắng thực thi sứ vụ ở trần gian.

Trên đường đến Giê-ru-sa-lem, Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rằng các ông sẽ phải gặp những gian truân đau khổ và các ông có còn quyết tâm làm môn đệ của Ngài không. Vì thế Chúa Giêsu đặt câu hỏi đó cho các ông và qua đó Ngài cũng hỏi chúng ta nữa. Câu trả lời của chúng ta sẽ chứng minh sự tuyên xưng đức tin của mình về Ngài ra sao, và chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hàng ngày nơi trần gian thế nào?

Các môn đệ đã trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu nhưng không sâu sắc. Ngài không phải chỉ là một ngôn sứ hay một người thánh thiện nhất trong lịch sử trần gian. Đúng Ngài là một ngôn sứ lớn, là đấng Mê-si-a, là Đức Kitô. Nhưng Ngài không đem đến quyền lực huy hoàng và thống trị trần gian để trả về cho dân Israel. Trái lại, Ngài nói đến sự chống đối của các lãnh đạo tôn giáo. Ngài sẽ bị ”các kỳ mục, thượng tế kinh sư từ chối” Vậy Ngài là ai và Ngài lãnh đạo thế nào mà khác lạ vậy?.

Cũng như “Người tôi tớ đau khổ” của I-sai-a Chúa Giêsu sẽ chịu nhiều đau khổ về lẻ công chính. Tôi quen một người, vì bất đồng ý kiến với người chủ về việc thường lừa gạt khách hàng, nên bị cắt lương và cho tạm thôi việc có thời gian. Tôi cũng biết một phụ nữ có trình độ chuyên môn vững chắc ở ngoài đời lại làm việc trong hội đồng giáo xứ, vì bà nói “Tôi muốn thực hiện cuộc sống cho có ý nghĩa”. Tôi cũng biết một thợ sữa xe hơi khi anh sữa xe cho ai ít hơn thời gian dự kiến thì anh tính tiền ít lại so với ước tính ban đầu. Tôi quen với một nữ sinh viên khi được biết các bạn mình nhận được một đáp án bài thi bị đánh cắp trước đó; cô đã không hề nhìn vào đó để làm bài cho mình mặc dầu điểm các môn thi của cô ta không được tốt. Khi nghe về những người này; những người đã bị thiệt hại khi làm những điều đúng; có người cho rằng họ ngu. Không phải dễ gì ai cũng làm được việc đó. Những tôi tớ đau khổ của I-sai-a nói “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe, nên tôi không chống đối hay quay lưng lại với Ngài”. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài muốn cho các môn đệ nhìn thấy mọi việc trong cái nhìn mới qua đó các môn đệ sẽ hiểu được Ngài qua việc chấp nhận hay từ chối đau khổ là một yếu tố không thể thiếu được trong sứ vụ của các ông.

Thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay nói rất rõ là nếu tai chúng ta được mở rồi, và đã một lòng tin vào phúc âm thì chỉ có một hành động duy nhất là “Hãy thực hiện những điều chúng ta đã nghe”. Cuộc sống và lời dạy của Chúa Giêsu đã mở tai chúng ta, Vì vậy hãy nên giống Ngài bằng cách khi nghe ở đâu cần dến sự giúp đỡ, chúng ta hãy đáp lời ngay vì theo thánh Gia-cô-bê: ”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17)

Vừa qua tôi có đi đo thị lực. Trong khi đo, bác sĩ thường thay đổi những tròng kính như thế nào để tôi có thể đọc rõ được những hàng chữ chiếu trên tường. Chúa Giêsu cũng như bác sĩ mắt vậy, Ngài hỏi các môn đệ nhiều câu hỏi để các ông thấy rõ hơn về Ngài. Khi họ trả lời là mắt họ đã mở ra. Và cũng để cải thiện thêm tầm nhìn của tâm hồn họ, Ngài đã dùng các lời giảng dạy, các phép lạ chữa lành bệnh, qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài đã làm các ông thấy rõ hơn để có thể nói rằng “Bây giờ tôi thấy rất rõ rồi”. Vì là con người, nên trong tương lai các ông lại không trông thấy rõ ràng nữa và đôi khi bị mờ đi vì những tia sáng khác lạ chiếu vào.

Cũng như các môn đệ, chúng ta là những cá nhân sinh hoạt trong cộng đoàn giáo hội để cùng nhau thờ phượng Chúa. Theo lịch sử giáo hội, chúng ta thấy đã nhiều lần giáo hội dựa vào quyền thế trần gian; đàn áp một số cá nhân có nhiều thắc mắc vấn nạn, chấp nhận chế độ nô lệ, lập nên quân đội tấn công bắn giết những người thệ phản, từ chối những nhân tài trong giới nữ. v.v… Trong suốt thời quá khứ và một số lần trong thời hiện tại, giáo hội đã không trông thấy rõ được. Thế nên giáo hội cần những người có đôi mắt sáng suốt hơn như các thánh, các ngôn sứ để kích thích giáo hội trông thấy rõ hơn. Đời sống của họ chính là một câu hỏi cho chúng ta: ”Bạn nghĩ Chúa Giêsu là ai?”. Các thánh đã giúp chúng ta sống và tuyên xưng đức tin qua những hành động và lời nói. Và như thánh Gia-cô-bê đã nhắc: Đức tin không có việc làm là đức tin chết.

Để trả lời câu hỏi, “Còn anh em, anh em nghỉ Thầy là ai?”. Chỉ có một cách trả lời là làm cho cộng đoàn chúng ta trở nên như các môn đệ đầu tiên đến với Chúa Giêsu để xem Ngài là ai. Những điều các ông đã thấy, được trình bày trong các sách phúc âm, trong các thư gởi cho tín hữu các cộng đoàn tiên khởi. Hôm nay chúng ta cùng nhau thờ phượng Chúa cũng là một cách để nghe những điều mà các môn đệ các môn đệ đã thấy rõ Chúa Giêsu là ai. Đức tin của các ông giúp cho chúng ta tin thờ Thiên Chúa hôm nay, qua bí tích thánh thể chúng ta nhận dược mình máu thánh Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta thấy tỏ tường hơn.

home Mục lục Lưu trữ