Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 66

Tổng truy cập: 1365937

NGƯỜI VIỆT HAY DÌM HÀNG

NGƯỜI VIỆT HAY DÌM HÀNG

 

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Người Việt có câu "thà chết cả đống còn hơn sống một mình". Đây là câu cô đọng về thói đố kỵ, không muốn ai hơn mình, đôi khi lại còn muốn kéo mọi người xuống ngang bằng với mình. Tôi cũng từng nghe một người đã nói giỡn vui rằng: “nếu mỗi quốc gia đều có một chiếc chảo dầu dưới âm phủ cho những kẻ phạm tội bị thảy vào thì chắc chắn chảo dầu của người Việt Nam không cần đậy nắp. Đơn giản, nếu kẻ nào ngoi lên là ngay lập tức bị kéo xuống”.

Sự đố kỵ là lý do dẫn đến người Việt hay ghen tương, dìm hàng, nói xấu, tẩy chay nhau. Sự đố kỵ ấy lại thường xảy ra nơi những bà con láng giềng với nhau. Hai nhà đang sống cạnh nhau có thể rất thân thiết khi cơ hàn như nhau, nhưng chắc chắn sẽ có chuyện khi một nhà tự dưng phất lên. Sống trong một tập thể dường như có ai thành công thì ắt sẽ bị gièm pha, nhòm ngó.

Sự đố kỵ không chỉ muốn người khác thua kém mình mà thậm chí còn cầu mong cho họ gặp thất bại cay đắng mới hả dạ.

Có một nhà buôn rất sùng đạo. Dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào thì cũng không bỏ việc cúng vái thần thánh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và thần tiên xuất hiện và ban cho ông ta những điều ước, nhưng với điều kiện sẽ cho hàng xóm ông được gấp đôi. Ông vui mừng, nhưng rồi lại buồn, vì nếu:

- Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ tiên lại cho họ hai chiếc.

- Xin một căn nhà thì sợ họ được hai căn.

- Xin 1 tỷ thì hàng xóm được 2 tỷ.

- Và cứ thế, ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng lại không chọn gì cả, vì sợ mình được một thì người khác được hai.

- Cuối cùng ông quyết định: xin thần tiên cho con bị mù một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị mù một thì người kia sẽ bị mù hai con mắt.

Những người biệt phái năm xưa dường như cũng muốn dìm hàng với Chúa Giê-su. Họ không muốn Chúa Giê-su nổi lên giữa họ. Họ chỉ muốn Chúa sống bình dị an phận trong sự dẫn dắt của họ. Đó là lý do họ gièm pha, khó chịu khi Chúa Giê-su nổi lên với lời giảng dạy và việc làm đầy uy quyền. Họ không phục vì bản tính cố chấp không muốn ai hơn mình. Họ đã đánh mất niềm vui khi nhìn thấy thành công của người đồng hương. Và dường như Chúa Giê-su cũng không thể làm điều gì cho họ vì họ quá cứng lòng tin.

Ở đời vẫn còn đó sự đố kỵ dẫn đến ghen tương mà làm hại lẫn nhau.

Tôi vẫn nghe những lời nói xấu ông A, bà B nhưng đều phát xuất từ ghen tỵ mà dựng chuyện bêu xấu nhau.

Tôi vẫn thấy những người làm việc tông đồ nhưng vẫn rỉ tai nhau để kết bè, kết phái để loại trừ nhau.

Tôi vẫn thấy những ý tốt bị mọi người loại trừ chỉ vì “trứng mà khôn hơn rận” nên cố chấp loại trừ nhau.

Tôi vẫn thấy những người môn đệ của Chúa vẫn đố kỵ dìm hàng nhau bằng nói xấu, gièm pha và bất hợp tác với nhau.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu sống bên nhau mà thôi đố kỵ nhau. Cuộc sống sẽ thăng tiến nếu ai cũng hợp tác và khích lệ nhau thay cho sự chê bai, dìm hàng nhau. Đặc biệt những người trong một tổ chức, một hội đoàn cần có tình yêu thương hiệp nhất với nhau. Xin đừng đố kỵ ghen tương với nhau nhưng luôn hợp tác và chia sẻ thành công và thất bại với nhau.

Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa Giê-su luôn hiền lành và khiêm nhường để hòa hợp với mọi người. Xin đừng vì cố chấp mà dèm pha lẫn nhau gây mất tình hiệp nhất trong cộng đoàn. Xin loại bỏ trong chúng ta tính đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.

 

29.Ngôn sứ không được chấp nhận tại quê hương

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin mừng Lc 4: 21-30 Trên hành trình đi rao giảng đó đây, Chúa Giêsu cũng nhớ về quê hương Nazareth, nơi Người đã lớn lên, nên đã trở về quê loan báo Tin Mừng.

Suy niệm

Trong những ngày cuối năm Âm lịch, đó đây chúng ta thấy trên báo đài đưa tin nào là ở tại phi trường, người người đến đón người thân về quê ăn Tết; tại các ga xe lửa, hành khách nằm đầy ở ga chờ “chuyến tàu về quê hương”; hay dọc theo các quốc lộ, có những hành khách thức suốt đêm nô nức chờ đón chuyến xe khách về quê. Có một số công ty có sáng kiến tổ chức mướn xe đưa nhân viên về tận quê nên họ an tâm làm đến ngày cuối cùng. Vâng, quê hương là một điều gì đó thiêng liêng trong trái tim của mỗi người, mà thi sĩ Đỗ Trung Quân đã viết lên bài thơ “Bài học đầu cho con”

“Quê hương là gì hả mẹ

Mà cô giáo dạy hãy yêu?

Quê hương là gì hả mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

……

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người.”

Trong tâm tình ấy, trên hành trình đi rao giảng đó đây, Chúa Giêsu cũng nhớ về quê hương Nazareth, nơi Người đã lớn lên, nên đã trở về quê loan báo Tin Mừng. Thế nhưng, thay vì đón nhận, thán phục về những lời từ miệng Chúa Giêsu thốt ra, về những điều nghe biết từ việc Người làm phép lạ tại Capharnaum, người Do Thái đồng hương lại bị che khuất không nhận ra Đấng Messia đang ở giữa họ, chỉ bởi vì Chúa Giêsu suốt ba mươi năm sống gần gũi với họ trong một miền quê nhỏ bé Nazaréth.

Như người ta thường nói “xa thì thương, gần thì thường”, những người đồng hương với Chúa Giêsu do “quen quá hóa nhàm” thành ra thiếu sự trân trọng nên dễ vấp phạm: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” Họ ám chỉ tới nghề thợ mộc tầm thường của cha Giuse, tới sự giản dị mộc mạc của bà mẹ quê Maria, khiến cho cảm tưởng thán phục về Chúa Giêsu, người mà họ xem là một ngôn sứ vĩ đại mau chóng vụt tắt. Chính những thành kiến, suy nghĩ chủ quan khiến cách nhìn sai lệch, cách đối xử với nhau thiếu sự trân trọng. Trong việc thờ phượng Thiên Chúa cũng không tránh khỏi, nếu chúng ta không biết tôn kính đủ thì rất dễ “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Và từ chỗ coi thường dễ dẫn con người ta đến phẫn nộ, thách thức Chúa: “Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông xem nào”.

Chúa Giêsu biết rõ người Do Thái chỉ biết nghĩ đến mình, hay mang tính vụ lợi, nên người thẳng thắn dạy dỗ họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.” Từ đây, Chúa Giêsu cho thấy sứ vụ của Người đến thế gian không bó buộc cho dân Do Thái thôi, nhưng là cho tất cả những ai thành tâm tìm kiếm Chúa và trân trọng mở lòng đón nhận những ơn Chúa ban. Người đã trích dẫn từ trong sách Cựu Ước rất quen thuộc với họ thời các tiên tri Êlia và Êlisêô. “Đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một nguời nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon vùng dân ngoại này vì bà đã có lòng thương người biết chia cơm, sẻ nước cho người khách lạ là Êlia, còn các bà dân Israel theo nhà Vua Akháp và hoàng hậu Izabel đi cầu khẩn tà thần Baal (1V 16,30-17,15). Cũng có nhiều người bệnh tật trong dân Israel, thế nhưng chỉ có đại tướng Naaman, người dân ngoại nước Syri cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến nài xin tiên tri Êlisêô của Thiên Chúa cứu. Ông đã nghe lời tiên tri chỉ bảo xuống sông Giođan thanh tẩy và đã được khỏi (2V 5,1-15).

Thực ra, Thiên Chúa đã yêu thương kêu gọi chúng ta qua việc cho chúng ta làm người như lời kinh Cám Ơn chúng ta đọc sau khi kết thúc Thánh lễ: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con…” như Chúa đã chọn gọi tiên tri Giêrêmia ngay từ trong lòng mẹ, Chúa cũng kêu gọi ngay cả khi chúng ta chưa ý thức: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.

Như thế, mỗi người chúng ta cũng được giao phó một sứ vụ, loan báo tình yêu thương của Thiên Chúa đến cho anh chị em mình.

Chuyện kể về một nhà buôn rất sùng đạo, dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào, ngày ngày ông không quên khấn vái thần linh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và một ông bụt xuất hiện, hứa ban cho nhà buôn này một điều ước, nhưng với điều kiện người hàng xóm nhà ông sẽ được gấp đôi. Ông vui mừng, nhưng rồi lại đắn đo: “Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ bụt lại cho ông hàng xóm hai chiếc; xin một căn nhà thì sợ người kia được hai căn, xin cho được đàn bò thì cũng lo người kia được gấp đôi”. Ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng tính ích kỷ khiến ông lại không chọn gì cả. Cuối cùng ông quyết định: “Xin bụt cho con bị chột một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị chột một mắt thì người kia sẽ bị mù hai con mắt”. Chính tính ích kỷ đã khiến con người ta đóng lòng lại với anh em mình, mà đã đóng lòng lại với người thân cận thì cũng đóng lòng lại với chính Thiên Chúa.

Chính thánh Phaolô cũng đã ưu tư tới đời sống đạo của các tín hữu nên đã dạy dỗ qua bài ca Đức Mến nổi tiếng trong thư thứ II gởi tín hữu Côrintô. Ngài cho thấy dù làm bất kỳ việc gì mà không có đức mến thì công cốc. Ngay cả trong việc thờ phượng Chúa cũng thế. Ba nhân đức Tin- Cậy-Mến tự bản chất đều là tốt lành, thế nhưng “cao trọng hơn hết vẫn là đức mến”. “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả”. Đức Mến không khi nào qua đi ngay cả ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất đi nữa.

Vậy trong năm Giáo phận Phú Cường đề ra chủ đề sống “Hiệp thông trong bác ái”, chúng ta tập sống bác ái với nhau ngay từ trong chính suy nghĩ, đến lời nói và hành động: luôn nghĩ tốt về nhau, nói tốt cho nhau và làm việc tốt dẫu với những người chưa được tốt với mình hoặc ngay cả mình chưa được tốt lành gì. Xin Chúa thương đón nhận thiện chí muốn nên sống thánh hơn từng ngày của mỗi chúng ta. Amen.

 

30.Khiêm nhường để khám phá sự thật

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Tắc… tắc… tắc… cụp! Đêm đã khuya lắm, những âm thanh nghe khô khốc ấy còn vang. Một chú bé dáng nhỏ nhắn, đi mải miết vào lòng con hẻm nhỏ, tiếp theo sau là những tiếng gõ. Chú bé bước nhanh nhưng gật gà gật gù, chắc cậu ta buồn ngủ.

- Ê! hủ tiếu mì…! Bộ điếc hả?

Sực tỉnh vì tiếng gọi giật giọng từ ban-công một căn lầu, chú bé quay bước tiến tới, hỏi:

- Thưa chú, mấy tô?

- Ba!

- Dạ! Chú bé đáp nhanh và chạy vụt đi.

Một lát sau, chú bé khệ nệ bưng cái mâm xếp đầy những tô hủ tiếu đến trước căn lầu khi nảy. Anh thanh niên gắt gỏng:

- Tưởng mày ngủ quên ở ngoài đó rồi.

Chú bé lại cố nở nụ cười để làm dịu lòng người khách khó tính rồi tất tả bưng tiếp những tô mì còn lại đi về cuối hẻm. Vô ý thế nào mà… oạch, chú bé trợt chân vào vũng nước té sóng soài trên mặt sàn xi-măng. Những sợi hủ tiếu trộn lẫn cát bụi, xà lách, giá, thịt nằm vương vãi, tô đũa lăn lóc khắp nơi. Tiếng cười trong đêm vắng của mấy thanh niên kia lại ré lên, đeo lấy chú bé.

Chắc hẳn thằng bé tủi buồn, mà tôi cũng thấy xót xa trong dạ. Xót xa cho chú bé nghèo, phải vất vả lặn lội, bằng ấy tuổi phải cõng trên vai cuộc đời đã vậy. Càng xót xa hơn cho những người giàu tiền của lại nghèo yêu thương, sao nỡ nhẫn tâm cất tiếng cười không đúng lúc, đến mức quá quắc như thế. Một tràn cườI chẳng những không vui cho những ai phải nghe nhưng chẳng muốn nghe, ngược lại còn khắc trong lòng một sự đáng giá chẳng hay ho gì: khả ố. Ai đó hay chăng, nụ cười khả ố là nụ cười đánh mất giá trị của chính con người mình…

Những tràng cười như thế, chắc không bao giờ xuất hiện nơi những anh chị em lấy đức khiêm nhường làm thước đo cho mọi tương quan sống của mình. Chắc chắn chỉ có những kẻ kiêu ngạo, trong lòng chứa đầy nỗi tự phụ, hóng hách… mới có thái độ khiếm nhã đến thế.

Trong cuộc sống thường ngày của bạn và tôi, xét lại bản thân, có lẽ chúng ta đã từng cũng có những kiểu cười khả ố tương tự. thêm một lần nhắc lại những hình ảnh như thế này, để một lần nữa, chúng ta ý thức rằng, mình phải sống đẹp và đừng vô tình trước nỗi bất hạnh của anh chị em. Nhất là hãy loại trừ thái độ kiêu căng, tự phụ để có thể đón nhận và sống Lời Chúa trong cuộc sống thường ngày với anh chị em.

1. Giêsu trong Tin Mừng

Đi từ cụ thể của đời thường, ta lại bắt gặp hình ảnh của một Giêsu trong Tin Mừng. Bởi Chúa Giêsu cũng đã từng bị khinh miệt như thế. Đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay, người đồng hương của Chúa đã có thái độ coi thường Chúa. Phải chăng đó cũng là biểu hiện của lòng kiêu căng, của thái độ tự phụ, hách dịch? Một mặt nghe những lời giảng dạy, họ khen ngợi nhưng liền sau đó, do lý lịch không mấy nổi nang, có khi còn tầm thường, những người đồng hương của Chúa đã vấp phạm.

Từ lời nhận xét thiếu thiện cảm, thiếu tế nhị: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”, cho thấy cả một cái nhìn đầy thành kiến, tiêu cực, có cái gì như xoi mói và thiếu chấp nhận nơi những người đồng hương của Chúa Giêsu. Từ đó phản ánh lòng đầy kiêu căng qua thái độ mà họ dành cho một người con của quê hương của họ là chính Chúa Giêsu. Họ thật đáng trách, vì lẽ ra, khi nhận thấy sự khôn ngoan lạ thường của Chúa, họ phải chân thành ghi nhận, đàng này chỉ vì một chút tự phụ, họ đã để ký ức về gia cảnh của Chúa ngự trị trong tim não: Và như thế, họ chỉ thấy một Giêsu hơn ba mươi năm bình dị đến mức tầm thường. Người có một cuộc sống quá đơn sơ: Một thợ mộc, con của một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Giêsu cũng chẳng lạ gì, chẳng hề nổi danh nổi tiếng bao giờ. Chính lòng kiêu ngạo mà đôi mắt của họ bị che mù.

Cũng chính lòng kiêu ngạo ấy đã biến họ thành những kẻ thiệt thòi lớn. Nếu từ xa xưa, vào thời đói kém, tiên tri Êlia đã không thể làm gì cho quê hương ông; Hay tiên tri Êlisêô cũng đã từng không chữa một người cùi nào ở chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thì hôm nay cũng thế, Chúa Giêsu cũng chẳng làm được gì hơn trên chính nơi mà Người sinh ra và lớn lên.

Lấy tích xưa để nói chuyện mình, Chúa Giêsu như muốn dạy người đồng hương và cả chúng ta nữa, kinh nghiệm ngu dại của thói kiêu căng. Sự kiêu ngạo làm ta bị đánh mất, bị tước mất tất cả những gì là ân huệ, là tốt đẹp. Và cái mất lớn nhấn là mất chính Chúa.

Tưởng chỉ có cha ông mình từ ngàn xưa, vì thiếu hiểu biết mới tự phụ như thế. Nào ngờ, bài học của cha ông đã qua bao nhiêu thế hệ, con cháu vẫn chưa thuộc. Vì thế, bạn và tôi càng đáng trách hơn, trách nhiệm của chúng ta càng nặng hơn. Thật là xót xa và đáng thương, nếu chúng ta thiếu ý thức điều này.

2. Giêsu trong đời

Nếu đã có lần Chúa Giêsu khẳng định: Ai cho anh chị em mình, dù chỉ một chén nước lả là làm cho chính Chúa (Mt 10, 40-42), hơn thế, Người đã tự đồng hóa mình với biết bao nhiêu anh chị em nghèo đói, bất hạnh, bị bỏ rơi… (Mt 25, 40), thì hôm nay, Người vẫn hiện diện với ta, trong ta và nơi mọi người cùng ta đang sống, nhất là nơi những anh chị em khổ nghèo.

Bởi đó, nếu một Giêsu trong Tin Mừng bị khinh miệt, thì khi Giêsu ấy hiện diện giữa đời, chắc còn chịu nhiều khinh miệt hơn. Câu chuyện về cậu bé bưng hũ tiếu mì bên trên là một bằng chứng rất thật trong cuộc đời, xung quanh chúng ta.

Chỉ có khiêm tốn mới có thể yêu thương. Và khi yêu thương, người ta sẽ càng khiêm tốn hơn. Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới trao cho nhau tâm hồn khả ái, chứ không phải những cái cười vô tình đến mức vô tâm và khả ố.

Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới có thể có lòng chân thành tìm kiếm sự thật. Nhưng sự thật ấy, có khi như ngọc lẫn trong đá, phải bới, phải tìm mới thấy, mới khám phá. Những người đồng hương của Chúa Giêsu vấp phải khuyết điểm này, bởi họ đã không đủ thiện chí để tìm kiếm, ngược lại còn kiêu căng, tự phụ, nên họ chẳng những bị Chúa chê trách, mà còn không nhận được bất cứ điều gì do Chúa ban.

Nguyện xin cho lòng chúng ta luôn khiêm nhường để có thể nhận ra Chúa nơi anh chị em; Và khiêm nhường để nhờ đó, chân thành tìm kiếm những sự thật khác nhau, được khoác những màu sắc khác nhau trong cuộc đời. Có chân nhận như thế, ta mới không lên án, không kỳ thị anh chị em, nhưng luôn sống điều mà trong bài đọc II, thánh Phaolô dạy: khoan dung, nhân hậu, tha thứ, “không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công…” (1Cr 13, 4-7).

Chỉ có một đời sống khiêm nhường, ta mới khám phá được điều mà thánh Phaolô đã khám phá. Đó mới là sự thật mà mỗi một Kitô hữu cần phải sống. Bởi vậy, khiêm nhường thật cần thiết để ta nhận biết Thiên Chúa, nhận biết cuộc đời, và nhận biết anh chị em quanh mình. Nhờ đó, sống cho Thiên Chúa, sống vì cuộc đời và bác ái với anh em.

 

31.Người đồng hương - Nguyễn Thái

“Chúa Giêsu, như Elia và Elisa, không phải chỉ được sai đến với người Do Thái”.

Trong thời gian theo học tại đại chủng viện St. Mary of The Lake, Mundelein thuộc tổng giáo phận Chiacago, tôi có dịp học chung với một thầy người Nigeria ở Phi Châu sang Mỹ du học. Thầy chia sẻ lý do tại sao người dân Nigeria vẫn còn giữ tục lệ đa thê. Sự chênh lệch giữa những người giầu và nghèo là một trong những nguyên nhân làm cho vấn dề đa thê vẫn còn phổ biến. Các ông điền chủ giàu sang có nhiều ruộng đất, một mình không thể trông coi hết được. Ông cần có nhiều người coi sóc và nhiều con cháu chia nhau trách nhiệm lo việc ruộng rẫy. Vì thế cứ mỗi nơi có ruộng ông điền chủ để lại đó một bà vợ cùng với một bầy con chăm sóc mùa màng. Có nhiều ông có đến trên 10 bà vợ, vì ruộng đất ở rải rác nhiều nơi.

Chuyện kể về một trong những vị giám mục đầu tiên người bổn xứ Nigeria. Sau khi đã được thụ phong Giám mục, ngài trở về quê quán cho dâng làng chúc mừng. Dân làng của ngài là những điền chủ giàu có, nên họ tổ chức một buổi tiệc liên hoan vĩ đại để vinh danh ngài. Nhưng họ cũng lại là những người không mấy có thiện cảm với luật lệ hôn nhân của Công giáo. Trong bài diễn văn, vị bô lão đại diện lên phát biểu. Họ rất hãnh diện vì một trong những người con cháu được cất nhắc lên một chức vị danh dự và lớn lao trong giáo hội, đại diện cho Thiên Chúa. Họ hứa sẽ gia nhập đạo Công giáo, nếu với tư cách là Giám mục, ngài dùng quyền của ngài bỏ đi một trong 10 điều răn cho họ. Đó là điều răn thứ sáu, “chớ mê dâm dục!”

Trong bài đáp từ, vì tân giám mục trẻ mượn cơ hội này để giảng cho những người đồng hương một bài học. Mười điều răn là luật lệ và ý muốn của Thiên Chúa chứ không phải của loài người. Do đấy không thể thay đổi được. Buổi tiệc chúc mừng bỗng trở nên ngột ngạt và tuyệt vọng. Sau đó vị tân Giám mục bèn vội vã từ biệt dân làng ra đi.

Giống như vị tân giám mục, Chúa Giêsu về thăm gia đình và những người đồng hương ngay sau khi chịu phép rửa ở sông Giodan, nơi Thần khí ngự xuống trên Ngài và công khai tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa.

Giống như vị tân Giám Mục, đồng hương của Chúa Giêsu cũng đón tiếp Ngài với sự kinh ngạc và ca ngợi: “Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: Người này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4:22)

Giống như vị tân giám mục, đồng hương cũng mong chờ Ngài dùng quyền bính làm cho họ được hưởng những ân huệ đặc biệt, vì họ tự coi mình là dân riêng của Ngài.

Và sau cùng, giống như vị tân giám mục, Chúa Giêsu đã nói sự thật rằng Thiên Chúa không thiên vị một người nào, nhưng đối xử với toàn thể nhân loại như nhau. Nghe thế họ tuyệt vọng, quay ra chống đối Ngài, tìm cách xô Ngài xuống vực thẳm. Nhưng Ngài thoát khỏi họ mà đi. Vì: “Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình” (Lc 4:24).

Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước nỗi tuyệt vọng của những người đồng hương, vì Ngài đã hiểu thấu đáo sứ mệnh tiên tri của ngài. Theo từ ngữ của Thánh Kinh, một tiên tri không chỉ là người nói trước việc tương lai sẽ xảy đến, nhưng tự bản chất, tiên tri là người nói thay cho Thiên Chúa, là xướng ngôn viên của Thiên Chúa. Vì thế, ngôn ngữ của vị tiên tri được Thánh Kinh diễn tả theo khuôn mẫu như sau: “Do đó, Thiên Chúa phán…” Tiên tri phải tập trung vào việc diễn tả lời của Chua, cho dù được dân chúng đón nhận hay không (1Cr 9:15-16). Các tiên tri phải nói lên sự thật (2Cr 11:10; 13,8). Mà sự thật thì mất lòng. Sự thật làm các ngài bị từ chối, bị bắt bớ, và khốn khổ! (Pl 1:29-30; 1Pr 4:12-14).

Chúa Giêsu phải nói cho những người đồng hương Do thái biết sự thật rằng đức tin, ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa được ban phát cho tất cả mọi người (Rm 1:16), gồm toàn thể nhân loại, chứ không riêng gì dân Do Thái, hay đồng hương. Sự cứu rỗi đã đến với toàn thể nhân loại, không phải chỉ giới hạn cho dân tộc được “tuyển chọn”. Óc địa phương, phe nhóm, chủng tộc, màu da… đều không phải là tiêu chuẩn của một Thiên Chúa yêu thương và công bằng.

Đối với Thiên Chúa, tiêu chuẩn để ban ơn cứu rỗi là đức tin và lòng sám hối.“Con người cần phải được mời gọi để tin và hoán cải” (Sacrosanctum Concilium đoạn 9), “Giáo hội phải tiến bước trên con đường của sám hối và đổi mới” (Lumen Gentium đoạn 171; GLCG #827,853). Bởi Chúa Kitô đã chết cho tất cả chúng ta là những người tội lỗi (Ga 3:14-16; Rm 5:8-10; Gaudium et Spes đoan 38).

Xưa kia có một bà nông dân dữ tợn. Khi bà chết chẳng để lại một việc lành phúc đức nào, do đó mà quỷ chờ lệnh cuả Thiên Chúa đưa bà xuống hỏa ngục để dìm vào trong hồ lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh vẫn đứng bên cạnh bà, cố gắng suy nghĩ, may ra tìm được một việc lành nào đó bà đã làm để bầu cử cho bà trước tòa Thiên Chúa. Sau cùng, thiên thần nhớ ra một điều; nó không lớn lắm, nhưng là điều thiên thần có thể đưa ra biện minh trước Thiên Chúa. “Xưa kia, bà đã nhổ một cọng hành trong vườn của bà và đem cho một người ăn xin nghèo khó,” thiên thần nói với Thiên Chúa. Thiên Chúa trả lời: “Được lắm. Hãy lấy cọng hành, để bà bám chặt vào nó, rồi kéo bà lên thiên đàng. Nếu thiên thần kéo bà lên được, hãy cho bà vào thiên đàng. Còn nếu cọng hành bị đứt, bà ấy sẽ ở dưới hỏa ngục muôn đời”.

Thiên thần đưa cho bà cọng hành: “Nào, mau lên! Hãy nắm chặt lấy nó để ta kéo ngươi lên thiên đàng.” Và thiên thần bắt đầu kéo rất cẩn thận. Vừa kéo bà lên được một chút, những người tội lỗi khác nhìn thấy bèn cố gắng giành nhau bám vào chân của bà để họ cũng sẽ được cứu thoát. Nhưng người đàn bà đã vùng vẫy dữ dội, đá họ văng ra, đồng thời la hét rằng: “Ta đã được cứu chứ không phải các ngươi!” “Đây là cọng hành của ta, không phải của các ngươi!” Ngay khi bà vùng vẫy la hét như vậy cọng hành đã bị đứt, và bà bị rơi xuống hồ lửa. Vị thiên thần bản mệnh chỉ thương tiếc cho thân phận của bà rồi quay bước ra đi mà thôi!

Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã nghe bản tuyên ngôn của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nagiaret. Phần đầu của bài giảng đã được những người đồng hương nhiệt liệt khen ngợi. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Lc. 4:21-30, Chúa Giêsu áp dụng bài giảng của Ngài để chứng tỏ cho những người Do Thiếu thấy rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa cũng bao gồm cả những người dân ngoại. Để chứng minh, Người đã dùng câu chuyện của tiên tri Elia đang bị đói và người đàn bà góa đã giúp ông lại là một người dân ngoại xứ Xiđon. Thời tiên tri Êlisa, những người cùi Do Thái đã không được chữa lành, mà là một người cùi dân ngoại, Naaman, xứ Syria. Điều này đã làm cho họ giận dữ!

Dân chúng ngày nay cũng vẫn tự hào rằng họ tốt hơn những người khác. Dân tộc, quốc gia, cộng đoàn, gia đình, và bản thân mình là nhất! Nhìn vào các biểu tượng của lá cờ và huyền thoại của các quốc gia đủ biết rằng lòng tự ái dân tộc trong tâm tư của con người rất cao độ.

Các nhà đạo đức thường khuyên rằng lòng kính sợ Thiên Chúa chính là khởi điểm của sự khôn ngoan (Hc 1:14; Gn 1:7). Vì biết kính sợ Thiên Chúa tức là biết mình tội lỗi và cần đến ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.

Câu chuyện thần thoại Hy lạp cổ kể rằng ở bên ngoài thành phố Thebes có một quái vật gọi là Sphinx. Mọi người đi ngang con quái vật này phải trả lời một câu đố, nếu trả lời sai sẽ bị giết chết. Câu đố như sau: Con vật nào vào ban sáng bước đi bằng bốn chân, vào ban trưa, bước hai chân, và vào ban tối bước đi bằng ba chân? Nhiều người đã phải chết vì không trả lời được! Cuối cùng chỉ có Oedipus trả lời đúng câu hỏi này mà thôi. Đó là con người, khi còn nhỏ bò bằng hai tay và hai chân, khi trưởng thành bước đi bằng hai chân, và khi về già phải chống thêm cây gậy nữa mới bước đi được.

Thế hệ của chúng ta cũng đang đối diện với cùng một câu hỏi, trả lời được câu hỏi này hay không sẽ liên hệ tới sự sống còn của đời sống tâm linh. “Tôi là ai? Cuộc đời có nghĩa lý gì?” là câu hỏi rất quan trọng. Thái độ của chúng ta đối với chính chúng ta, sự liên hệ của chúng ta với tha nhân và Thiên Chúa, sự tham gia của chúng ta vào trong thế giới đều tùy thuộc vào câu trả lời này.

Vào những năm xảy ra chiến tranh tại Sarajevo, thủ đô Bosnia. Báo chí đã đăng tải câu chuyện sau đây của một anh phóng viên chiến trường. Trong khi đôi bên đang bắn nhau dữ dội, một em bé gái bị trúng đạn. Người đầy máu, em bước đi thất thểu dọc theo vệ đường nơi hai bên đang giao tranh. Trước khi anh phóng viên ra tay hành động, đã có một người đàn ông nhào ra ôm lấy em, và năn nỉ anh phóng viên lái xe đưa họ tới bệnh viện:

“Anh có xe không?” người đàn ông hỏi. “Anh làm ơn đưa chúng tôi đến bệnh viện ngay được không?” không do dự, anh phóng viên chiến trường vội vàng đưa họ lên xe ngồi ở băng ghế phía sau đưa tới bệnh viện. Sau đó vài phút, người đàn ông hối thúc: “Làm ơn chạy mau đi! Cháu vẫn còn sống!” Anh phóng viêng tăng ga, chạy mau hơn. Vài phút sau, người đàn ông lại hối thúc: “Chạy lẹ đi, làm ơn làm phúc mà! Cháu vẫn còn thở!” Anh phóng viên nhấn thêm ga, chạy mau hơn nữa. Tuy nhiên, sau đó, người đàn ông lại hối: “Làm ơn chạy lẹ nữa đi! Cháu vẫn còn ấm!”

Sau cùng, họ đã đậu xe ngay trước cửa bệnh viện. Nhưng em bé gái đã chết! Người đàn ông và anh phóng viên chiến trường cùng đi vào phòng vệ sinh để rửa những vết máu dính trên tay. Người đàn ông nói: “Và bây giờ đến phần khó khăn nhất đây!” “Chuyện gì vậy?” Anh Phóng viên hỏi. “Bây giờ tôi phải đi tìm người cha của em bé gái này để báo cho biết, con gái ông ấy đã chết!” Trong kinh ngạc anh phóng viên nói: “Tôi lại cứ tưởng ông là cha của em gái ấy! Và em gái là con của ông chứ!”

Tất cả chúng ta lại không phải là con cái của Thiên Chúa sao? (1Ga 3:1-2; Rm 8:16-17). Trong tình thương - sự nhân đạo và ơn cứu rỗi – tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương như nhau, không thiên vị (1Pr 1:17; Rm 2:11; Cv 10:34; Gl 2:6).

 

32.Thân phận ngôn sứ.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ)

Có người đã mô tả các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não và cũng là những người gây phiền não cho những kẻ giàu sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng bào của ông. Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia phải giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.

Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: “Ông nội Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?”. Tình trạng căm ghét ngày càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.

Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép Rửa từ sông Giođan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: “Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta chẳng phải là một người nghèo khổ trong làng Nagiareth sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?”. Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: “Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác”.

Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới tận Giêrusalem. Trên con đường ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy. Cuối cùng họ lôi được Ngài lên thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: đem lại ơn cứu độ cho muôn dân. Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng trái đất.

Bài mô tả của Thánh Luca về những khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiaret khiến cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị “té cái bịch” xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh: “Trẻ nầy… là một dấu chỉ cho người ta chống đối” (Lc 2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng Nagiaret từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ y như thế (x. Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiaret đã từng cố công tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!” y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài.

Cùng với Giêrêmia, Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ những khó khăn, thử thách và nguy hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành hòa tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Ngay nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.

Chúng ta cầu xin cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh… biết nhìn vào gương của Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu người đã và đang hết sức trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần.

Và chính chúng ta nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa Tội, khi chúng ta được trở nên thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng còn phải để tâm đem Lời Chúa, những giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, hầu thánh hóa xã hội chúng ta đang sống.

Hạnh phúc của chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa qua tiếng nói của các sứ giả Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau mắn, chăm chú nghe Lời Chúa, suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật. Chớ gì chúng ta biết thay đổi đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta trên nền tảng Lời Chúa, trên giáo huấn của Giáo Hội.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:

“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước nhữn gánh quá nặng đè lên chúng con.

Xin giúp chúng con là muốn ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối nầy”. Amen.

 

33.Đức Giêsu không chỉ đến với dân Do Thái

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Tuần trước chúng ta đã suy nghĩ đến việc Chúa Giêsu rao giảng tại hội đường Nadaret và chỉ nói đến đoạn đầu, hôm nay chúng ta tiếp tục suy nghĩ về phản ứng của dân chúng trước những lời của Chúa Giêsu. Ngài tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời các ngươi vừa nghe”. Chúa Giêsu giải thích đoạn Kinh Thánh đó, nhưng rất tiếc, thánh Luca không ghi lại những gì Ngài giảng mà chỉ kết luận: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”.

Chúa Giêsu là Lời hằng sống, vì thế lời Ngài nói đều mang một tầm vóc đặc biệt, đánh động người nghe. Không chỉ có Luca mới nói về điều này mà các thánh sử khác cũng ghi lại điều đó. Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như những kinh sư.

Lời Ngài xua đuổi ma quỷ khiến mọi người đều kinh ngạc sững sờ. Thánh Gioan kể lại câu chuyện xảy ra trong Đền Thờ: “Các Thượng tế sai một đội lính ra bắt Chúa Giêsu khi Ngài đang giảng ở Đền thờ. Họ tuân lệnh ra đi, nhưng khi họ trở về thì không có Chúa Giêsu. Các Thượng tế hỏi: “Sao các anh không bắt hắn? Họ thưa: “Không ai nói như ông ấy”.

Dân Nadaret cũng thán phục trước những lời giảng dạy của Ngài. Họ ngạc nhiên và tự hỏi sao Ngài lại thông minh như thế? Họ nhìn về thân thế của Ngài. Trước mắt họ, Ngài chỉ là con ông thợ mộc Giuse mà ai cũng biết, nhưng điều đáng ngạc nhiên là họ không thể hiểu tại sao Ngài được như vậy. Ngài sống giữa họ hơn 30 năm, lớn lên làm lụng như mọi người, nghèo nàn chứ có ăn học gì nhiều đâu! Thế mà hôm nay Ngài lại xuất chúng, lỗi lạc như vậy. Nếu họ chấp nhận sự thật như thế thì có chuyện gì phải nói? Nhưng họ lại cứ thắc mắc. Chính Chúa Giêsu giải đáp và vạch trần cho họ thấy họ đang ganh tị với những người khác, những người dân ở Caphacnaum. Ngài đã làm một số phép lạ ở đó, họ cũng muốn được như thế, họ muốn được ưu tiên hơn những người nơi khác vì họ là đồng hương của Ngài.

Con người luôn muốn được ưu tiên. Có lẽ chúng ta không khác gì dân Nadaret bao nhiêu. Hãy nhìn lại chính bản thân chúng ta. Bao giờ chúng ta cũng muốn được người ta chú ý, khen ngợi hay ít ra cũng tán thành, ủng hộ.

Chúa Giêsu không như chúng ta, Ngài luôn sống cho sứ mệnh. Đứng trước những đòi hỏi của dân Nadaret, Ngài xác nhận: “Tôi bảo thật các ông không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.”

Nói như thế, đương nhiên chứng minh rằng Ngài là ngôn sứ. Thân phận của Ngài cũng như thân phận các ngôn sứ khác là phải bị bách hại, bị từ chối.

Trong lịch sử dân Chúa, các ngôn sứ như Êlia, Amốt, Hôsê, Giêrêmia, nhất là Giêrêmia đã bị dân Do Thái xua đuổi, bách hại. Các ngài phải rên siết, cảm thấy mình bất lực trước sự cứng lòng của dân chúng. Môsê đã từng nói với Chúa: “Có phải con đã cưu mang dân này đâu! Có phải con đã sinh ra nó đâu mà Chúa lại bảo con: Hãy bồng ẵm vào lòng như vú nuôi bồng trẻ thơ! Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con.” Giêrêmia cũng thế, cũng nản lòng đến nỗi ông thối thoát, không còn muốn nói tiên tri nữa. Các tiên tri đã bị giết dưới thời các vua vô đạo như Akháp, Mơnase…

Chúa Giêsu cũng đồng số phận. Trước tiên Ngài bị các đồng hương từ chối, và muốn tiêu diệt Ngài. Tại sao? Vì Ngài luôn đi ngược lại những ước muốn xấu xa của họ.

Chạm trán với sự cứng tin của dân Nadaret, Chúa Giêsu cho họ thấy rằng, họ đã mất tất cả những hồng ân của Chúa cũng như xưa kia, trong thời ngôn sứ Êlia và Êlisa, những người ngoại giáo được cứu giúp, như bà góa thành Xarepta và ông quan Naaman, đang lúc đó những người Do Thái lại không. Vì họ không xứng đáng được hưởng những hồng ân ấy. Chạm tự ái họ phẫn nộ và muốn giết Ngài.

Sau này, thánh Phaolô cũng vậy. Khi ngài rao giảng cho người Do Thái, họ từ chối và ngài phải quay về phía dân ngoại.

Chúng ta có chối từ như thế không? Hãy thành thật với chính mình, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã từ chối Chúa rất nhiều vì lười biếng, vì tự ái, vì kiêu căng, vì ham mê thế gian… Chúng ta đã đánh mất nhiều cơ hội có thể giúp chúng ta tiến nhanh hơn trên con đường nên thánh. Chúng ta cứ muốn “ngồi mát, ăn bát vàng”. Chúng ta ngại khó, ngại bỏ ý riêng, ngại con đường hẹp của Chúa. Chúa bảo chúng ta: “Hãy đứng dậy, chúng ta đi thôi”. Không thể nằm lì trong sự chối từ của chúng ta. Có lẽ chúng ta không minh nhiên chối từ lời mời gọi của Chúa, nhưng trong thâm tâm, chúng ta đồng lõa với con người xác thịt.

Chúng ta được gì khi chúng ta sống theo xác thịt? Chúng ta gặt hái được gì khi chúng ta chỉ muốn an nhàn, yên tâm trong lúc Chúa chúng ta bị loại trừ, bị mọi người khinh khi nhạo báng? Chúng ta không thể hạnh phúc khi anh chị em chúng ta đang ngột ngạt trong một thế giới đầy hận thù và tội ác. Hãy can đảm chấp nhận ra đi với Chúa. Chấp nhận thân phận ngôn sứ của chúng ta như Chúa Giêsu của chúng ta. Chúa đang tin tưởng vào chúng ta và giao trách nhiệm cho chúng ta phải cứu vớt anh chị em chúng ta. Người Công giáo là người đã được chọn để làm ngôn sứ, thông phần tính ngôn sứ của Chúa khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta không thể chối từ ơn gọi cao quý đó. Giáo hội cũng đang mời gọi chúng ta trở thành nhân chứng đáng tin trong thế giới hôm nay. (Xem Tự sắc Cửa đức tin,số 14-15).

Hãy sống những gì chúng ta đã lãnh nhận. Hãy yêu thương thật tình. Chúa không đòi hỏi những gì quá sức chúng ta, nhưng Chúa sẽ không bao giờ bỏ quên chúng ta, nếu chúng ta dám quên mình vì người khác. Thế giới càng vô đạo, ơn Chúa càng thúc bách chúng ta. Trách nhiệm chúng ta càng nặng nề, nhưng trong cái nặng nề đó, chúng ta sẽ cảm thấy vui mừng vì Chúa sẽ là niềm vui độc nhất. Chúng ta sẽ gặt hái được Thiên Chúa là phần thưởng vô giá. Các thánh đã kinh nghiệm một cách chính xác điều đó, điều mà thế gian không thể hiểu được.

Hôm nay, chúng ta đã lãnh nhận được phần thưởng rồi khi chúng ta tham dự vào hiến tế này, vì chính Chúa trở thành của ăn cho chúng ta. Còn gì cao quý hơn Chúa Giêsu? Thế mà chúng ta đã có được Ngài trong thân xác hay chết của chúng ta, và như thế chúng ta không cần cái gì khác trên đời này, chúng ta đã có tất cả.

 


home Mục lục Lưu trữ