Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1365915

NGUYÊN NHÂN ĐỨC GIÊSU BỊ KHƯỚC TỪ TẠI QUÊ HƯƠNG

NGUYÊN NHÂN ĐỨC GIÊSU BỊ KHƯỚC TỪ TẠI QUÊ HƯƠNG

Ở đời, người ta vẫn thường nói: “Bụt nhà không thiêng”, để nói lên thái độ khinh thường những gì là gần gũi. Nguyên nhân dẫn đến thái độ trên chính là do thói kiêu ngạo, tự mãn...

Thật vậy, kiêu ngạo là đầu mối sinh ra mọi giống tội.

Trong lịch sử cứu độ, chúng ta thấy rất nhiều thái độ kiêu ngạo đã từng xảy ra. Chẳng hạn như:

Lucifer đã muốn ngang bằng Thiên Chúa; Adam và Eva đã chống lại lệnh truyền của Người (x St 3, 1-20). Dân chúng muốn xây tháp Babel chọc trời...(x. St 11, 1-9).

Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như thay thế Thiên Chúa, thì lại là mối họa cho con người, bởi lẽ nó được khởi xướng từ Ma Quỷ, qua thái độ kiêu ngạo.

Vì thế, không lạ gì, khi con người kiêu ngạo với Thiên Chúa, thì đương nhiêu họ cũng khước từ anh chị em đồng loại và có nguy cơ giết chết đời sống tâm linh, đánh mất đức tin và không đón nhận được nguồn sống từ Thiên Chúa. Suốt ngày, họ chỉ quay quắt với chính mình, và không chừng đánh mất luôn chính bản thân!

Như vậy, sự kiêu ngạo là con đường không thể đến với Thiên Chúa, ngược lại, nó dẫn đưa kẻ tự mãn đến hố diệt vong.

Đây chính là khinh nghiệm từ tạo thiên lập địa và đến muôn đời sau cho tất cả mọi người Kitô hữu.

Vì kiêu ngạo nên họ không chấp nhận Đức Giêsu

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu bị đồng hương khước từ. Nguyên nhân cũng không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của người đồng hương.

Vì kiêu ngạo, nên trước mặt họ, Đức Giêsu chỉ là người bình thường nếu không muốn nói là tầm thường. Vì thế, mắt họ mờ đi và lương tâm trở nên trai cứng. Những dấu lạ điềm thiêng nơi Đức Giêsu đã không làm họ rung động và thay đổi đời sống, ngược lại, trước mặt họ: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”.

Tại sao vậy? Thưa sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.

Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: Đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.

Qủa đúng như vậy, vì xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.

Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!

Chính vì sự coi thường này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.

Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay

Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn...

Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”.

Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.

Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác... Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với gia đình. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với người thân. Họ thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”; “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”;... hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng tiên tri cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!

Trước tiên, sứ mạng tiên tri được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.

Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ... được tôn vinh hay giết chết... Mặt khác, khi thi hành sứ vụ, chúng ta không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói và làm điều Thiên Chúa muốn một cách trung thành (x. 1Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2Cr 11,10; 13,8).

Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”.

Bởi vì làm tiên tri không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phúc tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức... nên: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20).

Thật vậy, sứ mạng tiên tri đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaokê…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính...

Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên!

Mong sao, sứ mạng và số phận tiên tri của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.

Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.

Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.

 

44.Giáo Hội không biên giới

(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Đoạn Phúc âm tuần này tiếp nối sự kiện Đức Giêsu trở về Galilê, như là cứ điểm xuất phát đầu tiên cho chương trình cứu thế của Ngài.

Galilê, miền bắc của nước Palestine, có kích thước khoảng 50 dặm từ bắc xuống nam và 25 dặm từ đông sang tây. Danh xưng Galilê tự nó, trong tiếng Do thái, có nghĩa là vòng tròn. Vùng đất này được đặt tên như thế là vì vây quanh nó toàn là dân ngoại. Đã có thời các sử gia ghi nhận Galilê có đến 204 ngôi làng, với số dân trong mỗi làng không dưới 15 ngàn người. Vị chi có tới 3 triệu người từng cư ngụ chen chúc nhau nơi đây.

Galilê còn là vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Văn học dân gian Do thái từng ví “Trồng một rừng cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa bé ở Giuđêa.” Khí hậu tươi mát và nguồn nước ngọt phong phú từ hồ Tibêria đã biến Galilê thành vườn cây thiên nhiên trù phú của Palestine.

Riêng người dân Galilê thì được mô tả là “rất có óc sáng tạo, hay canh tân đổi mới, và rất thích dấy động. Họ sẵn sàng đi theo bất kỳ người nào dám đứng lên lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa. Dân Galilê dễ nổi nóng và ưa tranh biện. Họ không thiếu can đảm, nhưng bao giờ cũng lưu tâm đến danh dự hơn vật chất bên ngoài.”

Đó là những nét đặc thù của Galilê, “cứ điểm cứu thế”. Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ từ đó, trong một hội đường của người Do thái.

Hội đường là trung tâm sinh hoạt tôn giáo. Theo qui định, bất cứ nơi đâu có 10 gia đình Do thái trở lên, chỗ đó phải có một hội đường cho vấn đề phụng tự. Việc giảng dạy được thực thi trong các hội đường, còn việc sát tế súc vật để dâng lên Thiên Chúa thì được cử hành tại Đền thờ Giêrusalem.

Chính trong một hội đường nơi làng Nazaret mà Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ cứu thế, bằng một bản tuyên ngôn hùng hồn: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được xem thấy, kẻ bị áp bức được giải oan, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4:18-19).

Có lẽ bản tuyên ngôn trên không có gì mới lạ đối với dân Do thái. Không chừng họ còn nghe nằm lòng. Chắc chắn đã vài ba lần, những người được vinh dự công bố sách Luật và các Tiên tri đã đọc cho họ nghe lời tiên báo trên đây. Nó được trích trong sách tiên tri Isaiah, chương 61, nói về Đấng Cứu Thế.

Nhưng điều lạ lùng đến sinh ra bối rối kinh ngạc nơi người Do thái là vì sau khi đọc lên đoạn ấy, Đức Giêsu gấp sách lại, dõng dạc tuyên bố với cử toạ: “Hôm nay, lời Kinh thánh các ngươi vừa nghe đã ứng nghiệm” (Lc 4:21).

“Ôi! Đã ứng nghiệm rồi sao lời tiên báo của các tiên tri về Đấng Cứu Thế? Phải chăng niềm an ủi của Israel, nỗi trông chờ trải bao thế kỷ đã thành sự trước mắt chúng ta? Nhưng sao lại như thế được? Chàng Giêsu này thì ai mà không biết. Chàng đã sống giữa chúng ta. Từng giúp đỡ chúng ta chuyện này việc kia. Mới đây tự nhiên chàng bỏ làng ra đi. Không biết đi đâu. Nhưng tin đồn thì cứ đổ về làng. Nào là chàng đã làm phép lạ hoá rượu ra hàng mấy trăm lít bên làng Cana. Nào là chàng đã trừ ma diệt quỉ, chữa lành người bệnh bên làng Caphanaum. Bây giờ trở về cố hương, chàng lại tự xưng là Messiah-Đấng Cứu Thế. Chà, sao mà nghe chói tai quá,” có lẽ người Do thái xì xào bàn tán với nhau như vậy.

Thế rồi tiếng xì xào lớn dần thành lời hằn học: “Tại sao hắn lại không làm những sự cả thể thế kia nơi đây mà lại trổ tài nơi khác. Người nhà bao giờ cũng phải được ưu tiên hơn chứ…. Nhưng kìa, tại sao hắn lại nói cái gì về chuyện Êlia cứu giúp bà goá tại Sarepta trong thời kỳ hạn hán và Êlisê chữa lành cho Naaman người Syria, khi ông này bị bịnh phung cùi. Mà mấy kẻ đó đâu có phải là dân Do thái. Họ là những người ngoại, những người đáng bị kinh tởm. Ấy thế mà họ lại được ưu tiên cứu chữa mới tức chứ… Còn tên Giêsu này, nghề ngỗng thì có gì đặc biệt đâu. Anh ta không làm vài phép lạ cho bà con đồng hương xem chơi đã đành, lại còn nhắc đến mấy cái chuyện chạm tự ái dân tộc thế kia thì chịu sao nỗi.” Thế là họ đồng loạt xông lên, căm tức vô bờ, nhất tề tống xuất Đức Giêsu ra khỏi hội đường. Kinh khiếp hơn, họ còn muốn đẩy ngài xuống chân núi cho chết.

Thế mới hay lòng tự ái và ích kỷ của con người thật khủng khiếp, chỉ mong đẩy kẻ khác đi đến cái chết! Nhưng Đức Giêsu không chấp nhận thái độ ích kỷ và cục bộ đó. Tin mừng Nước Trời, niềm vui ơn cứu độ không thể giới hạn trong một làng hay một dân tộc nào, nhưng tin mừng và niềm vui đó phải được phổ quát đến tất cả mọi nước mọi dân.

Như lời tiên tri của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu thế nào, thì lời của ngôn sứ Giêrêmia cũng thành sự nơi Ngài như vậy: “Thiên Chúa phán cùng tôi rằng; Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc” (Grr 1:4-5).

Không phải chỉ nơi dân tộc Israel mới có người “nghèo khó” cần cứu giúp, người “tù đày” cần tự do, người “đui mù” muốn nhìn chân lý, kẻ bị “áp bức” cần được minh oan, nhưng là khắp mọi nơi. Tin Mừng của “năm hồng ân” phải vượt khỏi ranh giới Nazaret, vươn ra ngoài biên cương Galilê và Palestine, đến cùng các dân tộc và mọi tâm hồn.

Thế nên, bao lâu mà người Kitô hữu vẫn chỉ lưu lại trong cái nhìn cục bộ, lo tìm tư lợi hơn là mưu cầu ích chung, đòi hỏi ơn riêng thay vì rộng tay ban phúc, chắc chắn “Chúa phải băng ngang giữa họ mà đi” (Lc 4:30). Vì đạo Chúa phải là đạo Công giáo, đạo cho mọi người.

 

45.Nói tốt

Khi Đức Giêsu trở lại quê hương Nagiarét; người ta đã mời Ngài giảng dạy ở hội đường. Phản ứng đầu tiên của họ đối với Ngài hết sức thuận lợi. Họ ngạc nhiên về những lời nhân từ của Ngài. Tuy nhiên, sự thán phục của họ chẳng bao lâu đã đổi thành nghi ngờ và kế đó là thù hận. Có lầm lẫn nào đã xảy ra.

Họ vẫn còn coi Ngài chỉ là con ông Giuse. Và họ cảm thấy rằng nếu Ngài có điều gì ban phát thì những người đồng hương như họ phải được hưởng trước tiên. Không hề bày tỏ một niềm tin chân thật vào Ngài, họ yêu cầu Ngài thực hiện ở Nagiarét một số phép lạ mà họ thấy Ngài đã làm ở nơi khác – dù sao, bác ái phải bắt đầu ở tại nhà mình. Họ cảm thấy họ có quyền thiêng liêng được hưởng những ơn của Ngài trước tiên.

Nhưng Ngài đã nói bất kể anh em là ai, điều quan trọng là anh em có đức tin hay không. Không có chỗ trong vương quốc của Thiên Chúa cho những kẻ có đặc quyền. Bác ái của Thiên Chúa bắt đầu ở bất cứ nơi nào mà con người đang cần, và đức tin là điều kiện để nhận lãnh nó. Đức Giêsu đã cho hai ví dụ – cứu chữa cho bà góa ở Xadépta và cho ông Naaman, và cả hai người này đều là dân ngoại. Khi nghe những ơn huệ mà họ đã từ khước (vì thiếu niềm tin vào Đức Giêsu) sẽ được ban cho dân ngoại, người dân Nagiarét đã phẫn nộ. Là những người Do thái, họ là dân Thiên Chúa. Những người khác đều là những kẻ bên lề và tội lỗi. Làm sao Đức Giêsu lại dám cho rằng dân ngoại sẽ được ưa thích hơn họ. Trong sự bùng phát nhiệt tình của chủ nghĩa dân tộc, họ quay lưng với Ngài. Họ đưa Ngài ra khỏi hội đường, và tìm cách thủ tiêu Ngài. Tại sao họ đã quay ra phẫn nộ với Ngài như thế? Bởi vì những điều Ngài đã nói. Đó là lý do đầu tiên. Nhưng có một lý do sâu xa hơn. Đó là vì Ngài đã nói ra những điều xấu xa nằm ẩn kín trong lòng họ. Nếu bạn khuấy nước ao tù lên một lớp bùn sẽ nổi lên trên mặt nước. Điều đáng tiếc là đôi khi tôn giáo làm lộ rõ điều xấu nhất trong lòng người. Điều này làm cho họ trở nên hẹp hòi hơn, mù quáng hơn và có khả năng thù ghét và giết chóc hơn. Chúng ta thấy một gương xấu của điều đó trong những người dân Nagiarét. Nhưng những sự việc như thế vẫn còn xảy ra. Tôn giáo có thể bị bóp méo và trở thành một điều ghê tởm như cuồng tín và mù quáng. Tôn giáo trở thành đồng nghĩa với tâm lý hẹp hòi, nhỏ nhen và không dung thứ.

Nhưng tôn giáo cũng có thể nói lên điều tốt nhất trong con người. Nó làm cho họ trở nên bao dung và có lòng yêu thương hơn. Tôn giáo chân thật giải phóng tâm hồn và trí tuệ con người, và nuôi dưỡng những mối quan hệ hài hòa với những người khác. Tôn giáo có như thế mới tốt đẹp. Mỗi người trong chúng ta phải tự hỏi: “Tôn giáo thể hiện điều gì nơi tôi?” Có một dây liên kết chủ yếu giữa đức tin và tình yêu, hay đức mến. Thánh Phaolô nói: “Đức tin, đức cậy, đức mến cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. (Bài đọc 2) Có đức tin và đức cậy để làm gì nếu chúng ta thiếu lòng yêu mến?

 

46.Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội đường Nazareth, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.

1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính thần linh

Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.

Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazareth không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.

Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?

2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính nhưng không

Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.

Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.

Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).

3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính phổ quát

Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (x. Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Abraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.

Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).

Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?

 

47.Loại bỏ

Sau nhiều năm rời bỏ ngôi làng nơi ông đã chào đời ở Transkei, Nelson Mandela đã trở về thăm quê hương. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư và sống ở Johannesburg. Sau này ông đã viết về cuộc thăm viếng đó: “Không có gì giống như khi ta trở về một nơi vẫn không thay đổi để tìm lại những con đường trong đó chính bạn đã đổi thay. Chốn cũ tiếp tục như trước đây, không đổi khác với khi tôi lớn lên ở đó. Nhưng tôi nhận ra rằng quan điểm của tôi và thế giới quan của tôi đã tiến triển”. Thật vậy, ông đã nói điều đó đúng lúc ông trở về quê hương, ông không thể sống ở đó nữa – nó trở nên quá nhỏ đối với ông.

Đức Giêsu đã trở lại Nagiarét và với dân làng. Ngài đã lớn lên ở giữa họ. Người cũng muốn đem lại cho họ những ơn ích của Người. Họ là những người biết rõ Người. Hẳn bạn nghĩ rằng họ sẽ đánh giá Người cao nhất. Đáng buồn là họ không tin Người.

Quang cảnh mà bạn có về một nhà thờ lớn thì một khoảng cách rất khác với quang cảnh khi bạn ở thật gần. Từ một khoảng cách, ngôi nhà thờ đứng rực rỡ trong khung cảnh xung quanh. Bạn có thể nhìn thấy những đường nét, hình thể và vẻ đẹp của nó. Nhưng khi ở thật gần, bạn thấy toàn là bụi bẩn và rạn nứt.

Một điều tương tự xảy ra với người ta. Một người không bao giờ là một anh hùng với những người thân. Một thiên tài dường như không được chính bạn bè mình khám phá. Những người ở gần phải chịu đựng vì các khuyết điểm và giới hạn quá rõ ràng. Những người ở xa, trái lại, được sự quí trọng cổ vũ vì chỉ những đức hạnh của người ấy được thấy rõ.

Nhưng điều đã xảy ra với Đức Giêsu ở Nagiarét còn sâu xa hơn thế. Không phải chỉ vì họ không đánh giá đúng Đức Giêsu. Họ khước từ Người. Tại sao? Bởi vì Người đã chỉ ra sự thiếu đức tin của họ và nói với họ rằng dân ngoại còn cởi mở với Thiên Chúa hơn họ. Những ơn ích từ lời hứa trong giao ước không có ý nghĩa là tất cả.

Đức Giêsu đã chịu đựng số phận của mọi ngôn sứ – bị dân của Người khước từ. Lời ngôn sứ không phải để làm vui lòng người ta, nhưng để nói lên sự thật mà người ta không muốn nghe, sự thật mà người ta thường che đậy. Nhưng động lực khiến Đức Giêsu nói lên sự thật là lòng thương xót của Người.

Người phải làm gì? Hẳn Người có thể nói: “Tôi đã chán họ! Tôi đã chán mọi người. Vì vậy tôi sẽ rút lui vào một cái lều trong rừng và để cho cỏ dại mọc quanh trên mặt đất”.

Hoặc Người có thể nói: “Họ muốn gì nào?” Và khi đã tìm ra điều họ muốn, Người có thể xúc tiến cho họ điều đó. Nhưng trong trường hợp này, ơn đặc biệt mà Người muốn cho họ và họ hết sức cần sẽ bị bỏ mất.

Sau cùng, Người có thể cố gắng tìm ra một số ít người sẵn sàng đón nhận điều Người muốn cho họ. Nếu Người tìm được ít người đó, Người có thể cho họ điều đó tùy theo khả năng họ đón nhận. Đó là điều Người đã chọn để thực hiện.

Bị những người thân quen của mình khước từ là một việc tổn thương sâu sắc. Đức Giêsu đã đau buồn bởi những điều xảy đến với Người ở Nagiarét, nhưng Người đã không trở nên cay cú và chôn vùi những ân huệ của Người. Người làm điều Người có thể làm cho những kẻ đã tin Người ở Nagiarét, và rồi Người mang những ân huệ của Người đi nơi khác.

 

48.Sứ vụ.

Người xưa thường nói: “Vạn sự khởi đầu nan”. Điều này cũng đã xảy ra ngay khi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người tại hội đường Nagiarét, nơi sinh trưởng của Người. Thành công vừa mới chớm nở, thì khó khăn, thử thách, không mời đã chợt ập đến, không chịu uốn mình chiều theo những toan tính vị kỷ của những người đồng hương, Chúa Giêsu đã bị chống đối khước từ, thậm chí họ muốn thủ tiêu Người. Dẫu sao, Chúa vẫn dũng mạnh thi hành sứ vụ của Người bằng một trái tim rộng mở, luôn đập những nhịp đập của yêu thương.

Thánh Luca đã ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc và giải thích đoạn sách của tiên tri Isaia, những người trong hội đường xì xầm với nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? “. Có lẽ, câu nói này không diễn tả một thái độ nghi ngờ, trần tục hóa sự thiêng liêng cao cả của Đức Giêsu, bởi vì họ vừa mới chăm chú lắng nghe và thán phục những lời thốt ra từ miệng Người. Đúng hơn, câu nói đó như diễn tả một sự toan tính đầy ích kỷ, tư lợi của những người đồng hương với Chúa. Họ mang một tâm tính vốn rất thường gặp ở đời: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Nếu người này là con ông Giuse, bây giờ trở thành tiên tri và làm được các phép lạ, vậy tại sao chúng ta lại không lợi dụng địa vị đó để mưu ích cho thôn xóm, bản làng của mình. Câu ngạn ngữ Chúa Giêsu trưng dẫn để nói với họ: “Thầy lang ơi! Hãy chữa lấy mình” cho thấy, họ muốn Chúa hãy làm cho họ hưởng các phép lạ trước rồi sau đó mới cho người khác được hưởng. Họ muốn đưa ra một tối hậu thư bi đát ép Chúa phải phục vụ họ trước. Vậy Chúa Giêsu đã xử trí thế nào trước thái độ hẹp hòi của họ.

Biết rõ đầu óc cục bộ địa phương, còn nhiều ganh tỵ, mang đậm tính mầu cờ sắc áo Nazareth của những người đồng hương như thế, Chúa Giêsu muốn từ chối ràng buộc ơn cứu độ của Người trong mối liên hệ máu mủ thân quen nên Người đã nói rõ ý định của Người: “Tôi bảo thật các ông, không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghĩa là, vị tiên tri không có tình cảm ưu ái với những người đồng hương hơn những người xa lạ. Chúa đã trưng dẫn hai vị tiên tri lớn trong Cựu ước là Elia và Elisa đã có những hoạt động vượt ra ngoài ranh giới tôn giáo cũng như lãnh thổ, để từ chối không ban cho những người Nazareth, mà cả dân tộc Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu độ. Ý thức mình là dân riêng Chúa chọn, nên người Do thái không thể tưởng tượng được một Đấng Cứu thế được Thiên Chúa sai đến lại lưu tâm đến dân ngoại là người tội lỗi, hơn là ghé mắt chiếu cố đến họ. Chính điều này đã khiến họ tức giận. Họ lôi Người ra khỏi thành và xô Người xuống vực. Tuy nhiên, thánh Luca đã ghi lại: “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”. Nghĩa là, Chúa vẫn bình tĩnh thi hành sứ vụ trước thái độ “được ăn cả, ngã về không” hay “không ăn được thì đạp đổ” của họ.

Thái độ hẹp hòi của người Nazareth và phản ứng của Chúa Giêsu như thế có giúp chúng ta rút ra bài học gì cho cuộc sống hôm nay không?

Trong cuộc sống, người tín hữu nếu không tỉnh thức, không xét mình đấm ngực hằng ngày và không thắp lên trong tim ngọn lửa truyền giáo sẽ dễ trượt theo “vết xe đổ” của những người Do thái thời xưa.

Tự hào mình thuộc dòng dõi đạo gốc lâu đời, được rửa tội, được hưởng nền giáo dục và đời sống ơn thánh, dễ làm cho người Công giáo có cảm tưởng, Thiên Chúa thuộc về người Công giáo và phục vụ cho người Công giáo. Và điều này dễ dẫn đến khuynh hướng đóng khung giam hãm Thiên Chúa để độc quyền chiếm hữu Chúa Kitô và ơn cứu độ của Người hơn là chia sẻ cho những anh em chưa được biết Chúa.

Có thể nói khuynh hướng này là “Tội thứ nhất, tội của những người được soi sáng mà không sáng tỏa ra. Họ biết ý nghĩa của cuộc sống, biết hướng đi, biết những điểm có nước, những trạm có xăng dầu nhưng họ không chỉ dẫn cho ai”. Thế nên, thay vì là những rào cản, sẽ tốt hơn, đẹp hơn, ý nghĩa hơn nếu mỗi người trở nên những nhịp cầu dẫn đưa người khác đến với Chúa. Đừng vô tình tự nguyện biến mình thành một trở lực, nhưng hãy cố tình biến đổi thành một trợ lực cho tha nhân.

Một nhà thần học rất nổi tiếng người Đức là cha Karl Rahner có một ý tưởng rất đáng cho chúng ta lưu ý. Ngài nói: “Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là những Kitô hữu ngoại đạo; trong số những người Công giáo, không phải tất cả đều thực sự là con cái của Nước Trời. Bao nhiêu kẻ xem ra ở bên ngoài thực sự lại ở trong, còn những người bẩm sinh là công dân Nước Trời thì sẽ bị ném vào nơi tối tăm dầy đặc”.

Vì thế, sứ mạng loan báo Tin Mừng đòi hỏi chúng ta phải cố gắng khám phá “những người ngoại có tâm hồn Kitô hữu”. Họ là những người ở gần Thiên Chúa mà không hay biết. Họ bị bóng tối vị kỷ của chúng ta làm che mất ánh sáng. Tuy nhiên, không thể có tâm hồn truyền giáo nếu không có đức ái. Không phải vô tình mà thánh Phaolô đã dùng tới 10 lần chữ “đức ái” trong bài đọc 2 để nhấn mạnh đức ái là nhân đức tuyệt đối cần và quí trọng nhất. Người loan báo Tin Mừng cần phải có và cầu xin hơn cả, vì đây chính là con đường hoàn hảo.

Có lẽ là không quá cường điệu khi nhà bác học Pascal nói rằng: “Tất cả mọi vật chất gộp chung lại, cộng với tất cả mọi tinh thần gộp chung lại, cộng với tất cả mọi sản phẩm của hai thứ đó gộp chung lại, cũng không có giá trị bằng một chút bác ái. Đó là một trật tự khác hẳn, vô cùng cao cả hơn”.

Ước chi “vết đen” của những người Nazareth thời xưa không lập lại và trở thành “phách mạnh” trong đời sống chúng ta, nhưng chớ gì tấm gương đời sống của Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức và mở lòng mình ra trước sứ vụ truyền giáo, dẫu có gặp khó khăn thử thách, thậm chí là chống đối bách hại, vẫn kiên trì và dũng mạnh thi hành sứ vụ bằng một trái tim chan chứa tình yêu như Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài.

home Mục lục Lưu trữ