Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1371012

NHẬN DIỆN MỤC TỬ VÀ NGƯỜI CHĂN THUÊ

Nhận diện Mục Tử và Người Chăn Thuê

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo hội hướng đến việc cổ võ ơn thiên triệu trong bậc tu trì nói chung và cách riêng ơn gọi làm linh mục. Một trong những nội dung làm việc của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kỳ I năm 2012 tại giáo phận Xuân Lộc, đó là việc đào tạo linh mục. Dĩ nhiên là mục tiêu nhắm là để có những vị “mục tử như lòng Chúa mong ước”. Có thể luận suy rằng khi người ta yêu sách phẩm hạnh cần có của một bậc sống thì mặc nhiên người ta khẳng định sự cao quý và cần thiết của bậc sống ấy.

Một sự thật dễ thấy, đó là khi đề cập đến mặt tích cực và khi đó là một trong những nhân đức hay lý tưởng thì người ta dễ đón nhận và cũng dễ tự bằng lòng khi thấy mình chưa đạt đến. Một trong những luận lý để tự châm chước đó là phận người còn nhiều hạn chế, thiếu sót vì như lời người xưa: “nhân vô thập toàn”. Trái lại khi nói đến điều tiêu cực, hay mặt trái của vấn đề thì người ta khó đón nhận, vì ai ai cũng vấn vương chút sĩ diện, chút tự ái nào đó. Nói rằng bạn chưa hoàn hảo thì chúng ta dễ chấp nhận ngay nhưng nếu nói rằng bạn xấu xa thì xem ra dễ có phản ứng. Hoặc giả như cho rằng bạn nói chưa đúng thì dễ chấp nhận nhưng nếu ai đó cho rằng chúng ta nói sai thì vấn đề lại trở thành trầm trọng. Dẫu sao đi nữa thì bài trích Tin Mừng thánh Gioan của Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B, qua những lời của chính Chúa Kitô, chúng ta cũng cần xem xét đôi điều để phân biệt mục tử với người chăn thuê.

Đã nói là phân biệt hai thực thể nào đó thì chắc chắn giữa chúng phải có nét tương đồng khiến người ta dễ lầm lẫn. Vì thế, trước hết chúng ta cùng xem xét một vài nét xem ra tương đồng giữa người chăn thuê và vị mục tử:

1. Qua cửa ràn chiên: Cả hai, vị mục tử và kẻ chăn thuê đều đường đường chính chính qua cửa ràn chiên mà vào và ra chứ khong leo tường hay chui rào. Có thể nói rằng dù được tấn phong giám mục thành sự, được truyền chức linh mục thành sự, dù có sắc phong, có văn thư bổ nhiệm hợp pháp… thì cũng chưa hẳn đã là mục tử chính hiệu.

2. Biết chiên: Dù rằng khó có thể có cái “biết” theo nghĩa Kinh Thánh đó là đồng thân, chung phận, nhưng người chăn thuê cũng biết con chiên một cách nào đó khả dĩ đáng gọi là biết theo nhãn quan nhân loại.

3. Chiên nghe tiếng và đi theo mục tử cũng như kẻ chăn thuê: Ít ai phản đối sự thật này, vì người chăn thuê không phải là người lạ hay là kẻ trộm (x.Ga 10,5;8). Ngoại trừ một số ít chiên “cá biệt” hoặc bị gán nhãn mác là “chống giáo sĩ”, thì có thể nói là đại đa số giáo dân Công giáo, cách riêng giáo dân Công giáo Việt Nam đều ngoan, theo nghĩa là biết vâng nghe lời các đấng bậc.

4. Người chăn thuê và mục tử đều dẫn chiên đến đồng cỏ và nguồn nước: Rất có thể chiên không được hưởng dùng các loại cỏ xanh tươi hay dòng nước mát trong cách tốt nhất, nhưng người chăn thuê vẫn không quên bổn phận cung cấp thức ăn và nước uống cho đàn chiên.

5. Tiếp đến chúng ta cùng nhận diện những điểm khác biệt giữa người chăn thuê và vị mục tử. Đây là nội dung muốn chia sẻ. Hy vọng rằng khi trực kiến với hình ảnh mang tính phản diện thì chúng ta dễ giật mình hơn, không chỉ với những người đang trong phận vụ muc tử mà còn với cả những người trong danh phận con chiên.

Làm chỉ vì tiền: Mục đích nhắm của bất cứ người làm thuê nào, nếu thực sự là làm thuê, thì đều vì tiền công. Người chăn thuê cũng có thể có tấm lòng với đàn chiên, nhưng ưu tiên số một vẫn là tiền công, dù là công nhật, công tháng, công năm hoặc hưởng lương theo sản phẩm.

Làm hết giờ hơn là làm hết việc: Trong thân phận người làm thuê thì người ta rất mong đến giờ tan sở. Giả như người làm thuê nếu có làm hết việc thì ít khi hết lòng. Nếu người làm thuê làm ăn lương theo sản phẩm thì có đó chuyện làm hết sức, nhưng làm cách công tâm và hết tình thì chưa hẳn có. Trái lại, nếu đúng là mục tử thì có thể nhiều khi làm không hết việc, thậm chí có khi không được việc trước mắt, nhưng luôn thực thi hết lòng.

Không quan tâm đến chiên ngoài đàn: Đây là một điều tất yếu đương nhiên. Đã là làm thuê thì ít có ai thích dài tay với những việc xem ra không quá đòi buộc phải làm hoặc có xao nhãng hay không làm cũng chẳng bị trừ lương. Đã là mục tử thì không thể quên lời của Thầy chí thánh, Giêsu: “Ta còn nhiều chiên ở ngoài đàn…”

Không bao giờ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì chiên: Cần thú nhận rằng chẳng có ai dại gì tự nguyện bị thiệt thân vì những gì không thuộc về mình. Khi thấy sói đến người chăn thuê sẵn sàng bỏ chiên để giữ lấy mạng sống mình (x.Ga 10,12). Chuyện hiến dâng mạng sống vì chiên xem ra chẳng hề có trong tâm trí của người chăn thuê. Trái lại, đây là điểm không thể thiếu để thẩm định ai mới là mục tử.

Với bốn điểm đồng và bốn điểm dị, thầm mong khi phân biệt mục tử với người chăn thuê, chúng ta thêm xác tín rằng ngoài việc cần thiết cầu nguyện liên lỉ cho các mục tử trong Giáo hội, thì đang còn đó nhiều việc đáng làm và nên làm. Cũng hy vọng rằng một số mục tử nào đó trong Giáo hội, dù chưa hẳn xứng danh mục tử tốt lành nhưng không phải là những người chăn thuê. Và mong sao không hề có những kẻ chăn thuê đang mang danh mục tử.

“Hãy ra khỏi ngôi mộ trống!” Hy vọng rằng lời nhắn nhủ của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, vị đại diện của Đức Thánh Cha giúp cho nhiều đấng bậc, cách riêng trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam biết thức tỉnh để sống lại con người mục tử chính danh chính hiệu của mình. Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn đoàn chiên của Người sống và hành xử như “đoàn cừu của Panurge”, mà là như đoàn dân Thiên Chúa trưởng thành, đầy ý thức và tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực cộng tác với ơn Chúa để dệt xây những mục tử tốt lành như lòng Chúa ước mong.

 

 

 

 

 

67. Đức Giêsu, Vị mục tử nhân lành – Lm. Đan Vinh

 

Tìm hiểu lời Chúa

1) Ý chính: Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành:

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự ví mình như một Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử biểu lộ qua 3 hành động sau: một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đàn chiên, nhất là những con bị đau ốm, bị thương tích hay lạc mất. Ba là can đảm thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.

2) Chú thích:

– Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên (Ga 10,11-13):

+ Tôi chính là: Đây là kiểu nói mặc khải về Danh xưng của Thiên Chúa: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đức Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,24.28); “Chính tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,35), “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41); “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên vào” (Ga 10,7.9); “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14); “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25); “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6); “Thầy là cây nho thật… Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5).

+ Mục Tử nhân lành: Mục tử là người chăn chiên, một hình ảnh quen thuộc đối với dân Do Thái. Thiên Chúa chính là Mục Tử cai trị, hướng dẫn dân Người (x. Tv 23,1). Ngôn sứ Edêkien đã tuyên sấm lời Đức Chúa phán như sau; “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; Con nào bệnh tật, Ta sẽ cho mạnh; Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để thay Người mà coi sóc dân như Môsê (x. Is 63,11), Đavít (x. Tv 78,70-71). Bên cạnh các mục tử tốt cũng có những kẻ xấu xa bất xứng (x. Gr 10,21; 12,10). Thiên Chúa hứa ban một Mục Tử thuộc dòng dõi Đavít, luôn làm đẹp lòng Người (x. Gr 23,4-6; Ed 34,23-24). Vị Mục Tử duy nhất ấy chính là Đức Giêsu như Người đã từng khẳng định: “Tôi là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14).

+ Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên: Đây là sự khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Hy sinh mạng sống là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga 15,13).

+ Người làm thuê không phải là Mục Tử: Đức Giêsu dùng kiểu nói tương phản để làm nổi bật tính cách nhân lành của Mục Tử chân chính. Người chăn thuê thường tỏ ra hèn nhát và vô trách nhiệm đối với đoàn chiên (x. Ga 10,12-13). Ở đây, người làm thuê ám chỉ là các đầu mục dân Do Thái như các kinh sư, các người pha-ri-sêu gỉa hình (x. Mt 23,2), các Ngôn sứ giả (x. Mt 24,11). Những đầu mục này chỉ lo tìm tư lợi, là kẻ dẫn đường sai lạc, là người nói mà không làm, là người đạo đức giả (x. Mt 23,14.16.25.28).

– Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử (Ga 10, 14-16):

+ Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi: Từ ngữ “Biết” trong Kinh Thánh không những nói về sự hiểu biết đối với tha nhân về tri thức, mà còn có nghĩa là một sự quan hệ mật thiết: Biết cái gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó. Biết một người nào là có liên hệ mật thiết với người đó (x. St 4,1; Lc 1,34). Đức Giêsu biết các tín hữu là đoan chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và sẵn sàng vâng nghe lời Người. Tuy nhiên những điều mặc khải của Đức Giêsu thường khó hiểu và khó chấp nhận, bao lâu Đức Giêsu chưa được tôn vinh, nghĩa là chưa được treo trên thập giá(x. Ga 8,28). Sự tôn vinh này là điều kiện để các môn đệ đón nhận được ơn Thánh Thần (x. Ga 7,39). Rồi nhờ Ơn Thánh Thần tác động, các ông sẽ hiểu biết trọn vẹn các chân lý đã được Đức Giesu mặc khải trước đó (x. Ga 16,3).

+ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này: Sự quan tâm săn sóc của Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, không chỉ dành riêng cho các tín hữu, mà còn phổ biến đến mọi dân tộc nhờ các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô được trao cho các môn đệ và cũng là trao cho Giáo Hội, trao cho mỗi tín hữu chúng ta trước khi Người về trời (x. Mt 28,19; Cv 1,8).

+ Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Với cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl3,28). Mọi người mọi dân tộc đều có thể gia nhập đoàn chiên của Người, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn nhân loại (x. 1 Tm 2,4). Viễn tượng về một ngày đoàn tụ nhân loại trong một đại gia đình, một đoàn chiên duy nhất dưới quyền một Mục Tử tối cao là Đức Giêsu (Vua Mêsia) có trở thành hiện thực hay không, là tùy vào sự ý thức và quyết tâm của mỗi người tín hữu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng “được sai đi khắp thế gian, đến với muôn dân” hay không.

– Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại Mạng Sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được (Ga 10,17-18):

+ Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi: Khi hiển dung trên quả núi cao, Đức Giêsu đã được Chúa Cha công nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về người” (Mt 17,5). Lý do Người được Chúa Cha yêu mến:

+ Là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá vâng theo ý Chúa Cha như Người đã cầu nguyện trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Người sẵn sàng chịu chết để rồi nhờ quyền năng Thánh Thần, Người sẽ lấy lại mạng sống bằng sự phục sinh vinh quang.

+ Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức Giêsu chịu chết không phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, tổng trấn Philatô, Giuđa, quân lính và dân chúng… Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha (x. Mt 26,39) khi đến “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x.Ga 12,23).

+ Để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã báo cho các môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ do các đầu mục Do Thái gây ra, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x. Mt 16,21; 17,22; 20,18-19), nhờ quyền năng Thiên Chúa Cha (x. Cv 2,32-33).

+ Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được: Đức Giêsu đã luôn vâng lời Chúa Cha (x. Mc 14,36), đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8).

Học sống lời Chúa

1) “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

– Câu chuyện: Mẹ chết thay con:

Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Giăng Coóctê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Angien. Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ là ông đành chịu bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết Angien đã chết! Bà Maria mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quì cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe thấy lời bà cầu xin cho mình được chết thay con. Ong cùng mọi người im lặng ra bên ngoài để bà một mình với đứa con yêu đã chết.

Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng. Mọi người hiện diện đều rất ngạc nhiên khi thấy Angien đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ. Em đang ngồi trên giường và ôm mẹ, còn mẹ em thì lại nằm gục trên giường và đang ở trong tình trạng sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa đã thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay thế cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóctê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Angien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Maria mẹ em lại mắc chứng bệnh ung thư bao tử của em mà trước đó bà không hề mắc phải. Thân nhân xúm lại chung quanh bà Maria để động viên an ủi bà và có người hứa sẽ thay bà mà nhận bé Angien làm con và chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt. Vài giờ sau bà Maria tắt thở trong bình an, Bà được mọi người kính phục về tình mẫu tử cao quí bà dành cho con. Bác sĩ Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích lý do tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Angien đã chết. Có thể đã có một quyền năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!”

– Suy nghĩ: Tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến bà Maria hy sinh chịu chết thay cho con. Tình mẫu tử ấy là phản ảnh tình yêu của Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành đối với các tín hữu là đoàn chiên của Người. Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong bài Tin Mừng hôm nay Người nói: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.

– Câu hỏi: 1) Mỗi người chúng ta đều có thể là mục tử đối với đoàn chiên là những người được Chúa trao cho ta nhiệm vụ trông nom săn sóc. Vậy đoàn chiên ấy gồm những ai?

* Đáp: Đoàn chiên ấy chính là các con cái và các em trong gia đình mà ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng, dạy dỗ và săn sóc; Đoàn chiên ấy cũng là các công nhân trong nhà máy xí nghiệp mà ta đang giữ nhiệm vụ quản lý điều hành; Đoàn chiên ấy cũng là các học trò trong một lớp học mà ta là giáo viên chủ nhiệm; Đoàn chiên ấy còn là các hội viên trong hội đoàn Công Giáo Tiến Hành mà ta có nhiệm vụ là huynh trưởng trong Ban Chấp Hành…

– Câu hỏi: 2) Phân biệt giữa Mục Tử nhân lành với các kẻ chăn thuê giống và khác nhau thế nào?

* Đáp: Giống nhau vì cả hai đều có nhiệm vụ phải chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên. Tuy nhiên Mục Tử nhân lành và kẻ chăn chiên lại có nhiều điểm khác nhau như sau:

** Mục tử nhân lành: là chủ đoàn chiên và chiên thuộc về người ấy, nên ông yêu thương chúng và sẵn sàng thí mạng chống lại với sói dữ để bảo vệ đoàn chiên; Ông lại cũng biết rõ từng con chiên một như về tính khí và các khó khăn con chiên phải chịu đựng, các nhu cầu của chiên cần được đáp ứng. Do đó đoàn chiên luôn yêu mến và vâng nghe lời ông. Ngoài ra Mục Tử nhân lành còn phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với đoàn chiên như: băng bó chữa lành các con chiên bị đau ốm hay thương tích, đi tìm các con chiên thất lạc và tìm được thì vác trên vai mà đưa về đoàn, để sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.

** Kẻ chăn thuê chỉ là người làm công và chiên không thuộc về hắn, nên hắn không yêu thương chiên mà chỉ lo tìm tư lợi ích kỷ như chỉ lo vắt sữa và xén lông chiên đem bán lấy tiền, không quan tâm chăm sóc cho đoàn chiên, không chịu băng bó chữa bệnh cho chiên đau yếu, không đi tìm các con chiên lạc. Nhất là khi thấy sói rừng kéo đến tấn công đoàn chiên, kẻ chăn thuê cảm thấy nguy hiểm cho bản thân mình thì sẵn sàng bỏ rơi đoàn chiên mà chạy thoát thân một mình, mặc cho sói rừng cắn xé các con chiên và làm cho đoàn chiên tan tác…

2) “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14)

– Câu chuyện: “Vì tôi là linh mục”:

+ Cách đây ít lâu, Nguyễn Đức Quang đã sáng tác một bài hát mang tựa đề: “Vì tôi là Linh Mục” để tặng một người bạn thân là linh mục “cấp tiến” đã phá giới hồi tục. Nội dung bài hát về một linh mục vì không mặc áo dòng nên đã bị sa chước cám dỗ vào cuộc tình. Để rồi cả đời bị lương tâm cáo trách và đánh mất lý tưởng của cuộc đời mình.

+ Linh mục là người phàm, không phải là thần thánh: Linh mục cũng là một con người yếu đuối và bất toàn như bao người khác: “Nhân vô thập toàn”, Tuy nhiên Linh Mục đã được thánh hiến cho Chúa, nghĩa là thuộc trọn về Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và trở thành khí cụ Chúa dùng mà thánh hóa thế gian. Linh Mục là người được Chúa mời gọi và đã đáp lại tiếng Chúa bang sự hy sinh tình cảm gia đình, thôi bỏ nghề nghiệp mà đi theo làm môn đệ Chúa. Được Người đào tạo và huấn luyện trong môi trường chủng viện. Sau đó, được thụ phong Linh Mục và được sai đi để chu toàn ba sứ vụ đặc biệt là: Sứ vụ tiên tri để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, sứ vụ Tư Tế để cử hành các phép Bí Tích nhất là Thánh Thể mà thánh hóa người ta, và sứ vụ Vương Đế để chăn dắt đoàn chiên được Chúa trao phó.

+ Những khó khăn của Linh mục thời đại mới: Trong bài “Linh mục, người là ai?”, văn hào Giuăng Aria (Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục năng tiếp xúc với các người giàu có. Họ rủa Linh mục là ‘Đồ tư bản chết liệt!”, Nếu Linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ cho người nghèo hèn ít học, bệnh tật, cô đơn… thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ Tả Khuynh bần tiện!”. Làm Linh mục thời đại này thật không đơn giản chút nào!

+ “ Một người luôn luôn sai lầm” (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với Linh mục chủ chăn như sau:

* Giảng ngắn dưới 10 phút: “Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giãng!”. Giảng quá 20 phút: “Ông ta là người ưa nói dai và nói dài!”

* Nếu giảng hùng hồn: “Ông ta la lối om sòm thật bất kính đối với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”. Nếu giảng với giọng bình thường: “Ông ta có tài dỗ ngủ cho người mang bệnh khó ngủ!”.

* Nếu năng đến thăm các gia đình trong xứ: “Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!”. Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.

* Nếu Linh mục còn trẻ: “Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ giáo xứ!”. Nếu đã cao niên: “Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm xin về hưu đi là vừa!”.

– Quyết tâm: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”: Câu ca dao thật đúng khi áp dụng cho Linh mục. Vậy bạn quyết tâm sẽ làm gì để trở nên con chiên ngoan trong đoàn chiên Chúa, do các Mục Tử là các Linh Mục chăm sóc?

(Đáp: Cầu nguyện, cảm thông, cộng tác, giúp đỡ, trở nên cánh tay nối dài…)

 

 

 

 

 

68. Mục tử nhân lành – Lm Đan Vinh

 

LỜI CHÚA“Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

CÂU CHUYỆN: MẸ CHẾT THAY CON

Trên một tờ báo y học ở Ac-hen-ti-na, bác sĩ Giăng Coóc-tê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Ăng-gien (Angel). Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp thấy nơi trẻ em. Sau khi giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành phải báo tin buồn cho bà mẹ của bé sự bất lực của ông trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết bé Ang-gien đã chết! Bà Ma-ri-a mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin dữ ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quỳ cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe bà cầu xin để bà được chết thay cho con. Ông cùng mọi người im lặng ra ngoài để bà một mình với đứa con đã chết.

Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy bé Ăng-gien bây giờ đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ như không có bệnh tật gì. Em đang ngồi trên giường, còn mẹ em thì nằm gục bên cạnh giường và sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóc-tê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Ăng-gien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Ma-ri-a thì lại mắc chứng bệnh bao tử của em mà trước đó bà chưa hề mắc phải. Thân nhân xúm lại xung quanh bà Ma-ri-a để động viên an ủi bà và hứa sẽ nhận bé Ăng-gien làm con và sẽ chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt sau này. Vài giờ sau bà Ma-ri-a đã ra đi trong bình an. Bà được mọi người kính phục vì tình mẫu tử cao quý bà dành cho con. Bác sĩ Coóc-tê kết luận: “Tôi không thể giải thích tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Ăng-gien đã chết. Có thể đã có một tài năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!”.

3. NỘI DUNG TIN MỪNG: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tự ví mình như vị Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử được biểu lộ qua 3 hành động sau: Một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đoàn chiên, nhất là những con chiên bị đau ốm, thương tích hay lạc đàn. Ba là sẵn sàng thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.

{C}{C}3.    {C}{C}SUY NIỆM: NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA LINH MỤC THỜI ĐẠI MỚI:

Linh mục là mục tử dẫn dắt dân Chúa về phần linh hồn.

– “Linh Mục, Người Là Ai?”: Văn hào Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là “đồ tư bản chết tiệt!”. Nếu linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ cho người nghèo ít học, bệnh tật, cô đơn… thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ tả khuynh bần tiện!”.

Làm Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào!

Một người luôn luôn sai lầm” (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với các Linh mục chủ chăn như sau:

* Giảng ngắn dưới 10 phút: “Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giảng!”.

* Giảng quá 20 phút: “Ông ta là người ưa nói dai và nói dài!”

* Nếu giảng hùng hồn: Ông ta la lối om sòm thật bất kính với Chúa đang ngự trong nhà chầu!

* Nếu giảng với giọng bình thường: “Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bệnh khó ngủ!”

* Nếu năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: “Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!”.

* Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.

* Nếu linh mục còn trẻ: “Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ!”.

* Nếu đã cao niên: “Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!”

Thật đúng như người đời thường nói: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”. Làm Linh mục thật không dễ chút nào!.

CẦU NGUYỆN

– Lạy Chúa GiêsuThật hạnh phúc biết bao khi con biết rằng con đang được Chúa nâng niu bảo vệ. Chúa là Mục Tử tốt lành hằng yêu thương con. Chúa đã hy sinh chịu chết để đền tội thay cho con và không ngừng bảo vệ con khỏi bị ma quỉ tấn công. Xa-tan muốn cướp con khỏi bàn tay Chúa và biến con trở thành tay sai của chúng. Có những cám dỗ ngọt ngào, có những thách thức khổ đau. Xatan muốn con lạc xa tình thương của Chúa. Nhưng con tin rằng Chúa luôn nâng đỡ phù giúp con. Vì Chúa đã hy sinh mạng sống chịu chết đền tội thay cho con. nhiều lúc con đã từ chối tình thương của Chúa để phạm tội. Có lần con đã chán nản không muốn theo Chúa nữa. Con đã chọn lối sống tự do buông thả để cuối cùng phải lãnh lấy bao đau khổ bất hạnh. Xin cho con can đảm từ bỏ tội lỗi và bước theo con đường hẹp và đầy chông gai như Chúa khi xưa. Xin cho con luôn tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn yêu người như Chúa đã dạy. Xin cho con luôn tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu, cậy trông phó thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Nhờ đó, con hy vọng sau này sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.- Amen.

 

 

 

 

 

69. Tôi là mục tử nhân lành – Lm. FX Vũ Phan Long

 

1.- Ngữ cảnh

Bài Diễn từ về Cửa chuồng chiên và người Mục tử (Ga 10,1-21) vừa chấm dứt các Diễn từ dịp Lễ Lều vừa đưa vào Diễn từ dịp Lễ Cung hiến Đền Thờ.

Bản văn có thể được phân bố tổng quát như sau:

1) Các dụ ngôn (10,1-5);

2) Phản ứng của người Do Thái (10,6);

3) Các giải thích:

a) Cửa (10,7-10),

b) Người mục tử (10,11-18);

4) Phản ứng của người Do Thái (10,19-21).

Hôm nay, chúng ta đọc phần giải thích Người mục tử (10,11-18).

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Người mục tử đích thật (10,11-13);

2) Người mục tử ưu việt (10,14-18).

3.- Vài điểm chú giải

– nhân lành (11): Hy-ngữ có hai từ để nói là “tốt”: (1) agathos mô tả đức tính luân lý của một cá nhân được coi là tốt; (2) kalos, cũng có thể dịch là “đẹp”, thêm vào yếu tố “tốt” một nét nói lên sự thu hút và đồng cảm. “Từ “nhân lành” hay “tốt” ở đây là tính từ kalos.

– hy sinh mạng sống (11): Dịch sát là “đặt/hạ mạng sống xuống” (cc. 11.15.17). Đây là công thức của Ga (13,37; 15,13; 1 Ga 3,16). Theo ngữ cảnh, công thức này tương đương với các công thức của Tin Mừng Nhất Lãm, “hiến mạng sống” (x. Mt 20,28; Mc 10,45).

– chien của tôi (14): Đức Giêsu có thể nói các con chiên là của Người vì Chúa Cha đã ban họ cho Người (x. 6,37.44.65; 17,6-7).

– một đoàn chiên và một mục tử (16): Chúng ta ghi nhận một chọn lựa thú vị của cha R.E. Brown trong bản dịch Anh ngữ: có thể dịch “một đoàn chiên” là “a flock of sheep”, nhưng cha Brown dịch là “one sheep herd” đi với “one shepherd” để giữ cho tương ứng với poimnê (sheep herd, flock) và poimên (shepherd).

– Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy (18): Chúng ta ghi nhận cách viết của tác giả nhằm nhấn mạnh: từ “quyền” được dùng hai lần và đặt ở đầu câu, tạm dịch là “quyền tôi có / để hy sinh mạng sống, và quyền tôi có / để lấy lại mang sống”.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Trong Cựu Ước, hình ảnh người mục tử thường được áp dụng cho các vua. Nhưng hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Ngài tuyển chọn, tức Israel: Ngài hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng Dân Ngài. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Israel về các nhà lãnh đạo là một kinh nghiệm đáng buồn. Các ngôn sứ đã chỉ trích các vua bằng lời lẽ nặng nề, vì thay vì nuôi dưỡng con chiên, họ đã bóc lột và thậm chí giết chiên.

Thiên Chúa luôn ở về phía những người bị áp bức, Ngài hứa rằng chính Ngài sẽ chăm sóc con chiên, và Ngài sẽ gửi đến cho họ một mục tử chân chính, để điều khiển họ trong sự công chính và đưa lại bình an (x. Ed 34; Gr 23,1-6). Khi Đức Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14), thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (5 lần: cc. 11.15.17.18 [2 lần]). Giữa Người và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Đức Giêsu và đoàn chiên (c. 14) cũng như giữa Đức Giêsu cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).

Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt Qua và sự hy sinh chính bản thân Người.

* Người mục tử đích thật (11-13)

Đức Giêsu là “Mục tử nhân lành”, cũng có nghĩa là “Mục tử xinh đẹp”. “Nhân lành” không có nghĩa tình cảm, là “dịu dàng, êm ái”, nhưng là “chân chính, đích thực”. Từ ngữ này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành), nhưng còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách Mục Tử nhân lành của Người không phải là tài vuốt ve các con chiên, nhưng chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.

Người có một cảm thức về trách nhiệm: “các chiên thuộc về Người” (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói “nghề chăn chiên” là một “ơn gọi” chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chỉ vì chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là “người làm thuê”, “khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ơ đâu có cảm thức về sự “thuộc-về”, ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta vui sướng làm việc dù không được trả công.

Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng thậm chí hy sinh cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).

Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sư sống: “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Người làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng song mình cho đoàn chiên” (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho chúng ta. Điều này hoàn toàn ngược lại với người làm thuê, anh ta “không thiết gì đến chiên” (c. 13).

* Người mục tử ưu việt (14-18)

Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.

Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): “Như Chúa Cha biết tôi…” (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. “Tôi biết chiên của tôi…” (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu vơi chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, bừng cháy. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: “chiên của tôi biết tôi” (c. 14b). Tác giả nói đến “biết” thay vì tình yêu, bởi vì “tình yêu” hệ tại việc “biết” riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta – tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiep thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, “Giêsu” không được chỉ đơn giản là một cái tên; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như “những con chiên tốt, đẹp”, và phát triển mot tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.

Tương quan với Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.

Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu cua Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có “hiểu biết”, nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hợp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì “kết hợp”.

Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu-mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là để cho mọi dân tộc. “Đoàn chiên duy nhất” này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết qua khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai); và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những ngươi không tin.

Qua Đức Giêsu, là mục Tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị mục tử duy nhất. Tính chất cao quý của mỗi muc tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hợp nhất tại nơi người ấy hiện diện – một sự hợp nhất không tập trung quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.

Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hợp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về “mầu nhiệm Vượt Qua”. Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hơp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời “tôi hy sinh mạng sống” để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất; rồi mở đầu c. 18, lại có lời “tôi tự ý hy sinh mạng sống”. Đây là cấu trúc “đóng khung” để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được “sự hợp nhất vĩ đại” này. Bởi vì Người chết chắc chắn “không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).

Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha “đóng khung” các câu 17 và 18: “Chúa Cha yêu mến toi …” và “đó là mệnh lệnh của Cha mà tôi đã nhận được”, trong đó nói ba lần đến việc “hy sinh mạng sống”. Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là Vị mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi “hiến tặng [hy sinh]” và “đón nhận [lấy lại]”, trong sự “tự chủ” (tôi có “quyền”) và “trách nhiệm” (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: “tôi đã nhận được”).

Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”, rồi Người nói tiếp: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Nói cho cùng, “quyền” của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là “hiến mình”. Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu men). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng “sự sống dồi dào” cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.

+ Kết luận

Bản văn này, với giong văn đơn giản nhưng chắc nịch, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục Tử của Cựu Ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mọi ước mong.

Các môn đệ của Chúa Kitô phải chứng tỏ một lòng quảng đại như Thầy mình, và phải để cho mình được dẫn dắt bởi tình yêu mà thôi. Nếu chỉ quan tâm đến việc tuân giữ một luật lệ, hoặc làm tối thiểu những gì được quy định, họ không hiểu thế nào là tình yêu chân chính. Có tình yêu trung thực là phải sẵn sàng (tư do) hy sinh mạng sống cách vô vị lợi, như Chúa Kitô.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Nói tới “mục tử” là nói tới tương quan. Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên các sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v. Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh Thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác.

2. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Ngài với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng ngôn sứ Êdêkien (Ed, ch. 34).

3. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên. Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm. Người mục tử bên Paléttina hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh Thánh: Am 3,12; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục tử sống hoàn toàn cho con chiên, chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1 Sm 17,34-35).

4. Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Tv 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh Thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4; Ed 34,16).

5. “Tôi biết chiên của tôi…, như Chúa Cha biết tôi”. Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.

6. Người Mục Tử Nhân Lành là hình ảnh tử nói về sự chăm sóc yêu thương và có trách nhiệm; hướng dẫn, che chở, an ủi, nuôi dưỡng và bảo vệ. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho Hội Thánh nhiều mục tử mới tốt lành. Nguyện xin Thiên Chúa ban cho các mục tử (có chức thánh) ơn khôn ngoan và sự nhẫn nại khi các ngài phục vụ và hướng dẫn dân Chúa. Kế đến, chúng ta cầu nguyện cho những người dẫn dắt chúng ta nhờ những thừa tác vụ của các ngài trong giáo hội: các tu sĩ, các ủy ban bác ái và những giáo dân thiện nguyện. Chúng ta cũng cầu xin cho tất cả những mục tử đang ngồi trong hàng ghế nhà thờ: các ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác, vợ chồng, bạn bè và thầy cô giáo. Họ cũng mang trách nhiệm và gánh nặng trong cương vị lãnh đạo những người mà họ coi sóc. Hôm nay, cầu chúc họ được đầy tràn ơn hướng dẫn của Thiên Chúa. Nguyện xin tất cả chúng ta được vị Mục tử Nhân lành nuôi dưỡng trong Bí tích Thánh Thể này, luôn biết lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên những mục tử tốt lành và, như Đức Kitô, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đoàn chiên chúng ta đang chăm sóc.

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ