Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1371181

NHẬN RA TRÁCH NHIỆM VÀ CẦU XIN ƠN SÁM HỐI

Nhận ra trách nhiệm và cầu xin ơn sám hối

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

 

Anh chị em thân mến,

Hôm nay chúng ta tưởng niệm cuộc vinh quang của Chúa chúng ta năm xưa, khi Người tiến vào thành thánh Giêrusalem. Đồng thời chúng ta sống lại tâm tình của các trẻ em xưa tung hô vinh quang của Đức Chúa của mình: “Hoan hô Con Vua David, hoan hô trên các tầng trời. Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô trên các tầng trời”.

Mặc lấy tâm tình của các trẻ em Dothái chứ đừng mặc lấy tâm tình của người Dothái xưa. Vì chính họ cũng có mặt và tham gia vào cuộc rước trọng đại của Chúa, nhưng sau đó họ phản bội dữ dội. Sự phản bội lớn gấp nhiêu lần lời tung hô. Mặc lấy tâm tình của trẻ con, chúng ta hãy khiêm cung bái thờ Đức Chúa uy nghi, Chúa chúng ta. Còn xua đi hình ảnh người Dothái xưa để ta biết xua đi chính sự dữ còn ngự trị đâu đó trong tâm hồn mình.

Với hai hình ảnh: Một là sự đơn sơ của trẻ con, hai là sự bội phản một cách lạ lùng của người lớn, tôi mời anh chị em hãy tự vấn chính mình xem, ai phải chịu trách nhiệm về cái chết bi thương của Chúa, để rồi từ sự nhận ra trách nhiệm, ta sám hối thật lòng để thanh tẩy tâm hồn, để có cái nhìn mới mà nhận ra Chúa đang hiện diện trong đời ta, nơi môi trường ta sống.

1. Trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu thuộc về ai?

Dù cái chết của Chúa Giêsu là cái chết bị gây nên một cách quá độc ác, quá tàn nhẫn, nhưng người Kitô hữu không thể quy trách nhiệm cho người Dothái, vì chính Chúa Giêsu đã tha thứ cho họ (Lc 23,34). Thánh Phêrô cũng đã từng coi hành vi thủ tiêu này là do họ “không biết” (Cv 3,17).

Chính Hội Thánh cũng đã tuyên bố tại Công đồng Vatican II: “Không thể quy trách nhiệm một cách hàm hồ những tội ác đã phạm trong khi Đức Kitô bị khổ nạn cho hết mọi người Dothái thời đó, cũng như cho người Dothái thời nay” (Tuyên ngôn về liên lạc giữa Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Kitô giáo – số 4).

Bởi vậy, thay vì quy trách nhiệm cho dân tộc Dothái, đúng hơn chúng ta phải nói rằng: Mọi kẻ tội lỗi là thủ phạm gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì tội lỗi, mỗi Kitô hữu đã xúc phạm đến chính Chúa Kitô, nên Hội Thánh không ngần ngại quy cho chính các Kitô hữu trách nhiệm nặng nề nhất đối với những gì mà Chúa Giêsu phải chịu: “Chúng ta phải coi những kẻ sa ngã đi lại trong tội lỗi, là những người đã phạm lỗi tày trời ấy. Bởi lẽ, chính tội ác của chúng ta đã làm Đức Giêsu Kitô phải chịu khổ hình thập giá, thì chắc chắn rằng những ai chìm đắm trong gian tà cũng ‘tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa, và đã công khai sĩ nhục Người’ (Dt 6,6). Và phải nhìn nhận rằng, tội ác của chúng ta trong trường hợp này nặng hơn tội của người Dothái. Vì theo thánh Phaolô, ‘nếu họ đã được biết vua vinh hiển, họ đã chẳng đóng đinh Người vào thập giá’ (1Cr 2,8)… Không phải quỷ dữ đã đóng đinh Người trên thập giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Người vào thập giá; và còn đang đóng đinh Người nữa, khi bạn thích thú trong thói xấu và tội lỗi” (GLCG số 598).

2. Sám hối để thanh tẩy chính mình

Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mặt với giòng nước mát lạnh.

Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mặt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.

Lúc ấy các cụ già giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Chúa Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.

Cũng thế, ta rất cần một đôi mắt đức tin mới để nhận biết Thiên Chúa. Tự đánh thức tâm hồn mình bằng việc ăn năn, sám hội tội lỗi của bản thân, chính lá lúc chúng ta mang cặp mắt mới để nhận ra con người hèn hạ của chính mình.

Những người đồng hương của Chúa, vì mang con mắt cũ kỹ, con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, đã không nhận ra Chúa Giêsu. Họ không nhận ra Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là đồng hương với chính Con Thiên Chúa. Vì thiếu cặp mắt mới, cặp mắt của yêu thương, đón nhận, thiếu cặp mắt của đức tin, mà chỉ mang cặp mắt của lòng ghanh ghét, ích kỷ như thế, họ đã giết Chúa. Đóng đinh Chúa vào thánh giá, họ nghĩ rằng mình đã chiến thắng Chúa Giêsu, như chiến thắng một kẻ thù không đội trời chung với họ. Đấng Cứu Chuộc họ, lại bị chính họ giết chết, vì thế người Dothái trở thành kẻ bất hạnh vì mãi mãi vẫn tách biệt ơn cứu độ, và xa cách vô cùng với Đấng Cứu độ mình, Đấng mà lẽ ra, họ chính là những người đầu tiên được diễm phúc lãnh nhận.

Chúng ta hãy thật lòng nhìn nhận tội của mình để mặc lấy cặp mắt mới của đức tin mà trung thành thờ lạy Chúa. Ta xin Chúa hãy loại bỏ những gì là định kiến, là thiển cận, hẹp hòi nơi tâm hồn ta. Xin Người ban cho ta cặp mắt mới, không phải cặp mắt trên gương mặt của mỗi người, nhưng là cặp mắt của lòng tin, để nhờ ánh sáng đức tin soi chiếu, ta nhận ra Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời ta, hiện diện nơi anh em của ta.

Anh chị em thân mến,

Giờ đây, khi đã hiểu được trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa và tỏ lòng thành muốn ăn tội, anh chị em và tôi thành tâm dâng lời cầu nguyện, xin Chúa rộng lòng khoan thứ cho chúng ta:

Lạy Chúa, như thánh Phaolô trên đường về Đamas,

Xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chan của Chúa,

Để nhớ biết mình mù lòa, con được sáng mắt.

Xin cho con cặp mắt mới, để nhâïn ra ánh sáng của Chúa,

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,

Bởi đó là ánh sáng phá tan bóng tối trong con,

Và đòi buộc con phải hoán cải tâm hồn mình.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong đui mù,

Đừng ở lại trong đen tối của ánh mắt ích kỷ, ghen tương,

Nhưng xin cho con khiêm tốn,

Nhận ra sự tối của chính mình,

Mà mở lòng đón lấy những tia sáng của thánh ý Chúa,

Những tia sáng của những tấm lòng tốt quanh con,

Để con vươn lên tiến về phía Chúa.

Xin cho con tìm chân lý,

Để chân lý sẽ giải thoát nội tâm của con.

Vì nếu được giải thoát, con sẽ bình an trong Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

12. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.

Nhưng thanh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung ho, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.

Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suot 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuoi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.

Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuan thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.

Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chua làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:

“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).

Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng nang đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp u, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.

Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ

1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?

2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?

3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?

4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?

5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?

 

 

 

 

 

13. Nhiệt thành của thập giá.

(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)

 

Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.

Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.

Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.

Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.

Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.

Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.

Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.

Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).

“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.

 

 

 

 

 

14. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

 

THIÊN CHÚA MANG DIỆN MẠO CỦA MỘT THỦ LÃNH HIỀN HÒA

Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người). Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết mà Người sẽ phải chịu sau này.

“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37; 19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?” (Mt 27,17.22) Thế nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải: idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.

Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi) trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ gánh lấy tội lỗi của gian trần.

Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã. Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).

Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!

Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu – tu sĩ – linh mục của con, nhất là trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.

 

 

 

 

 

15. Vương quốc Tình yêu – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là “số tiền vấy máu hài nhi vô tội”. Người không ngần ngại gọi Dodd là “môn đệ của thần chết”.

Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.

Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: “Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui”.

****

Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: “Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau: “Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!” Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga 11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.

Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: “Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ” (Dcr 9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.

Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.

Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.

Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.

Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.

Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.

Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.

****

Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen.

 

 

 

 

 

16. Thông cảm với Chúa

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

 

DẪN NHẬP

Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.

Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: “Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao”? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không? Lời Chúa tiên báo: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không?

Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: “:Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Is 50,4-7)

Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây:

a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.

b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực.

c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.

+ Bài đọc 2: Pl 2,6-11.

Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.

+ Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66

Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên:

. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.

. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.

. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.

. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.

Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhận mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.

THỰC HÀNH LỜI CHÚACùng đau khổ với Chúa

1. Nói về đau khổ

Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).

Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.

Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừa đau đớn vừa đau khổ.

Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:

Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,

Trần có vui sao chẳng cười khì.

(Cao bá Quát)

Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:

. 85% đau khổ là do người làm khổ người.

. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…

. 10% là do ngẫu nhiên.

Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.

2. Ý nghĩa của đau khổ

Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.

a) Các chủ trương trước đau khổ

* Thiên Chúa giáo:

Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ…

Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.

* Phật giáo.

Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường…

Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: ”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: “Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể” (Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).

* Phái Khắc kỷ

Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.

Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:

– Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.

Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:

– Tôi đã bảo kia mà! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi!

* Theo quan niệm người đời

Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:

Trời đất sinh ta âu hữu ý

Khách tài tình nên trải vị gian truân,

Một mai gặp hội phong vân.

(Cao bá Quát)

hoặc:

Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử?

(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)

Kinh Thánh cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.

3. Mục đích của đau khổ

Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.

Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: “Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.

4. Thái độ của ta trước đau khổ

Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ? Đương đầu với nó hay trốn chạy? Chiến thắng hay đầu hàng? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: “Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.

(Phạm Công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).

a) Thái độ tiêu cực

Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.

b) Thái độ tích cực

Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.

Ta nghĩ thế nào về hạt cát? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích? Phải phân biệt:

. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.

. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.

Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.

Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:

“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.

“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.

(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)

 

 

 

 

 

17. Sự Thương Khó của Chúa

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được cả bốn thánh sử kể lại, mỗi người một ý hướng riêng, một chủ đích riêng. Chúng ta thường muốn phối hợp cả bốn thánh sử lại để có một bản duy nhất, đầy đủ mọi chi tiết. Làm như thế, chúng ta không hiểu được ý hướng và chủ đích của mỗi tác giả.

Hôm nay, chúng ta được mời gọi đi vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu với thánh Máccô.

Trình thuật của thánh Máccô ngắn gọn hơn các thánh sử khác. Máccô nhấn mạnh đến những nhục nhã và thống khổ của Chúa Giêsu hơn tất cả những trình thuật khác. Máccô không sợ phơi bày hình ảnh của một Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị chối từ và bị ruồng bỏ…

Chúng ta hãy đọc lại từ từ… Chúng ta sẽ thấy rằng Máccô có dụng ý làm nổi bật vai trò cứu thế của Chúa Giêsu.

Nơi Máccô, chúng ta thấy hình ảnh của một con người đau khổ đến tột độ, nhưng Ngài vẫn hiên ngang tuyên bố khi Caipha, Thầy Thượng Tế hỏi Ngài: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng đáng chúc tụng không?” Ngài tuyên bố: “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng, và ngự giá mây trời mà đến”.

Một lời tuyên bố long trọng giữa Hội Đồng Do Thái. Ngài biết rõ họ sẽ dùng chính lời của Ngài để buộc tội Ngài, nhưng Ngài vẫn hiên ngang, không rụt rè e ngại. Lời tuyên bố long trọng này, không ai chấp nhận và đã trở thành án tử hình cho Ngài, nhưng đó chính là vinh quang. Án tử hình đó thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Sau đó, Máccô chỉ nói ngắn gọn: “họ khạc nhổ vào Người, bịt mắt Người lại, vừa đánh đấm Người”.

Ngài đã trở thành nạn nhân của hận thù, của sự dã man của con người. Để cứu con người, Ngài đã trở thành nạn nhân của con người. Trong số đó có chúng ta không?

Trong đêm đó… Phêrô chối Thầy, các môn đệ đều bỏ Thầy…

Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn một mình…

“Linh hồn Thầy buồn đến chết được!”

Chúng ta có cảm thấy nghẹn ngào khi nghe tiếng nói đau thương này không?

“Buồn đến chết được!” Nỗi buồn như một làn sóng ào ạt trên tâm hồn Ngài, đến nỗi Ngài phải thốt lên một lời than thở não nuột như thế.

Chúng ta làm sao đo được chiều kích của một tâm hồn đang phải vật lộn với cả khối tội ác khổng lồ của thế gian?

Ba người đã nghe tiếng than đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Nhưng họ có hiểu không? Chúng ta có hiểu không?

Chắc họ cũng như chúng ta… Họ ngủ hết…

Chúng ta cũng ngủ hay vô tình. Vô can!

Ngài đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất và cầu nguyện…

Ngài chỉ còn một nơi nương tựa: Đó là Chúa Cha.

“Lạy Cha… xin cất chén này xa Con…” Ngài sợ chén Cha trao. Ngài sợ đến nỗi phải van xin, như bệnh nhân ung thư vừa được bác sĩ cho biết là không còn hy vọng.

Dưới ánh trăng lạnh của Tuần lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đối mặt với cơn thủy triều đau đớn… Trước mắt Ngài, hình ảnh cây thập giá đang hiện rõ… Phải đi tới cùng, không thể lùi bước: “Chính vì giờ này mà Con đến”. “Nhưng xin đừng làm theo ý con muốn, mà làm theo ý Cha muốn”.

Sự vâng phục can đảm không thể tưởng được! Vâng phục trong cơn sợ hãi lạnh người! Sự vâng phục tuyệt đối này đã đưa Ngài đi thật xa, đến sự bỏ mình, chấp nhận tất cả nhục hình và cái chết thống khổ.

Những khổ hình bên ngoài chỉ là dấu hiệu của một khổ hình đáng sợ hơn là cuộc khổ hình trong tâm hồn. Ngài gánh chịu tất cả khối tội ác của con người.

Đau khổ của Chúa Giêsu là một vực thẳm không ai dò thấu… Chúng ta cũng không thể hiểu với khả năng của con người. Chúng ta chỉ có thể hiểu được phần nào dưới ánh sáng của Thánh Thần Tình Yêu mà thôi. Xin Ngài dẫn đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm đau thương này để thấy rằng chúng ta được “yêu đến tận cùng”.

Các thánh như Anphongsô, thánh Gioan Thánh Giá… khuyến khích chúng ta năng suy gẫm cuộc tử nạn của Chúa để nhờ đó yêu mến Chúa hơn.

Philatô, một viên chức cao cấp của Rôma, sau khi tỏ ra hết sức ngay thẳng đã đầu hàng. Ông sợ cho chiếc ghế của ông và đứng trước áp lực của đám dân hò hét, ông đã nhượng bộ. Ông trao cho lính Rôma hành hình Chúa Giêsu, người mà ông cho là vô tội: “Ông ấy đã làm gì gian ác?” Đứng trước lợi lộc trần gian, chúng ta có lẽ cũng như Philatô thôi. Chúng ta cũng có thể bỏ quên lương tâm, bỏ quên công bằng, bác ái, bỏ quên cả phẩm chất thiêng liêng của chúng ta. Đừng vội lên án những con người yếu đuối, hãy nhìn vào con người thật của chúng ta. Hãy lên án chính mình trước.

Hành hình xong, bọn lính lại tiếp tục một trò chơi “lính tráng”, là tôn vinh Vua Do Thái. Họ biến Ngài thành một ông vua hề, để nhạo cười, lăng nhục Ngài. Vô tình, chắc hẳn là vô tình, bọn lính đã tôn vinh Chúa Giêsu với tước hiệu vua dân Do Thái. Dân Do Thái đã tố cáo Ngài là vua dân Do Thái. Philatô lặp đi lặp lại tước hiệu này hai lần. Bảng án ghi rõ: “Vua người Do Thái”. Khi Ngài đang chịu treo trên thập giá, các thượng tế, kinh sư cũng nhạo cười Ngài với tước hiệu vua đó: “Ông Kitô, Vua Israel”.

Vô tình hay hữu ý, họ đã tôn vinh Ngài là Vua. Thánh Maccô không vô tình khi viết lại điều này, vì đối với Maccô hay với chúng ta, Chúa Giêsu chịu chết với tước hiệu là vua trên hết các vua. Vương quyền của Ngài không phải như vương quyền nhỏ bé, mong manh của các vua trần thế. Vương quyền Ngài là vương quyền bất diệt, vương quyền của sự thật và sự sống. Ngài chấp nhận chết đau thương như thế vì Ngài phải chinh phục lại giang sơn của Ngài đã rơi vào tay “đầu mục thế gian”.

Hôm nay, chúng ta lên đồi Canvê với Ngài để nhìn Ngài chết.

Chúng ta nghĩ gì?

Cái chết nhục nhã của Ngài có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay?

Chúng ta ở đâu khi Ngài “buồn đến chết được”?

Chúng ta ở đâu khi Ngài bị đánh đòn, nhục mạ không thương xót? Khi Ngài bị bỏ rơi trên thập giá? Khi Ngài bị ngạo nghễ chà đạp?

Giờ đây, khi sống lại với Ngài những giờ phút đau thương tột đỉnh của Ngài, chúng ta có cảm thấy thương Ngài hơn không? Chúng ta có cảm thấy trách nhiệm của chúng ta không? Vì chúng ta mà Ngài đã trở nên “thân sâu bọ”, chịu đựng tất cả sự tàn ác dã man của con người.

Chúng ta vẫn ung dung chơi đùa vô tư, vẫn yêu mến tội lỗi của mình sao? Chúng ta hãy nhìn về “Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta”.

Hãy tạ ơn Ngài mà thôi; vì chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được sự sống, chính nhờ Ngài mà chúng ta tìm thấy hy vọng được hạnh phúc. Cuộc sống hôm nay của chúng ta sẽ tươi đẹp hơn và chúng ta sẽ không sợ hãi trước cuộc sống và gánh nặng của nó.

Cuộc sống của chúng ta hôm nay sẽ là Chúa Kitô, mà là Chúa Kitô chịu đóng đinh như thánh Phaolô đã nói. Nhờ vậy, chúng ta sẽ can đảm hơn, hy sinh hơn.

Hôm nay, chúng ta đã tung hô Chúa và đón tiếp Ngài nồng nhiệt như dân Do Thái xưa, và sẽ yêu mến Ngài chân thành hơn, sâu đậm hơn, vì Ngài chẳng những chết cho chúng ta mà còn trở nên của ăn ban sự sống đời đời cho chúng ta nữa.

Hãy tiếp tục sống với ngày những ngày sống trần gian đầy lao nhọc này và làm cho Ngài được yêu thương hơn.

 

 

 

 

 

18. Suy niệm của AM Trần Bình An

 

Đức Vua Tình Yêu

Buổi sáng một ngày nọ, Chúa Giêsu lên đường về Giê rusalem, có rất đông thiên thần tháp tùng ca ngợi tình thương của Chúa đối với nhân loại. Các thánh ký đã thuật lại cuộc đón tiếp tưng bừng, mà hết mọi người đều say sưa hoan hô Chúa: “Vạn tuế Đức Hoàng Đế, nhân danh Chúa đến với chúng ta! Hoan hô Thái Tử của Đavít.” Tuy bề ngoài chẳng có gì tỏ ra xứng với một cuộc tung hô khải hoàn như thế. Chúa đến, cưỡi trên một con lừa nhỏ. Chẳng có gì lộng lẫy. Nhưng chính Thánh ý Thiên Chúa đã muốn rằng, trong ngày hôm đó, tất cả các tâm hồn đều phải dâng cho Chúa Con một niềm tin kính huy hoàng.

Tại Bêtania, nơi Mẹ lưu ngụ, Mẹ nhìn thấy tất cả quang cảnh tưng bừng ấy, và nghe tiếng Thiên Chúa nói tỏ cho mọi người tham dự đều nghe hiểu được: “Cha đã tôn vinh Con rồi, Cha sẽ còn tôn vinh Con nữa.”

Thiên Chúa cũng muốn cuộc khải hoàn này có một tầm mức rộng rãi khác thường. Chúa sai Đức Tổng Thần Micae đem tin đó xuống u ngục. Tại đây, các thánh được xem thấy những gì diễn biến tại Giêrusalem, và các ngài hát lên nhiều ca vịnh, mừng Chúa Cứu Chuộc chiến thắng tội lỗi, sự chết và hỏa ngục. Ngoài ra, tất cả những người đã biết Chúa Giêsu bất cứ cách nào, không những ở Palestina, mà cả ở Ai Cập hay các nơi khác, đều được Thiên Chúa ban cho một ánh sáng, làm họ hân hoan và tăng thêm niềm tin và nhân đức của họ. Chúa cũng không để cho ngày vui đó phải nhuốm màu tăm tối cái chết: không một ai chết trong ngày đó. Chúa cũng không cho phép ma quỷ, thu được một lợi lộc nào trong suốt thời gian khải hoàn ấy: Chúng bị xô xuống vực sâu hỏa ngục hết thảy. (Văn Hải, Maria Agrêđa, Từ Tabôrê đến rước lá, Thần Đô Huyền Nhiệm)

Giây phút đăng quang tưng bừng, rộn ràng niềm vui quá ngắn ngùi, Bài Tin Mừng thứ nhất diễn tả một thoáng huy hoàng Đức Vua Tình Yêu lên ngôi, chỉ sôi nổi diễn ra vài giờ rồi chấm hết. Rồi bài Thương Khó tiếp theo sau, Đức Vua Tình Yêu lẻ loi, cô đơn, chịu khổ hình, đau đớn và chết nhục nhã trên cây thập tự, diễn tả sứ vụ đã hoàn thành, cũng là thời điểm Đức Vua Tình Yêu chiến thắng sự dữ, hận thù, tội lỗi và cái chết.

Đức Vua bị bỏ rơi

Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai, Đức Vua hoàn toàn cô đơn, lẻ loi trước cuộc khổ nạn khốc liệt. Hàng vạn người đã tưng bừng chào đón Đức Vua cưỡi lừa vào Thành Thánh, hàng ngàn người đã được ăn bánh no nê, hàng trăm người được chữa lành bệnh, tật nguyền, hàng chục người chết sống lại, nay đang ở đâu, khi Đức Vua khủng hoảng trước sự dữ?

Dân chúng bạc bẽo bày đàn chạy theo thói thực dụng đã đành, còn ba môn đệ thân tín thì lại thản nhiên chiều theo bản năng, vô tư ngù vùi, mặc cho Thầy Giêsu kịch liệt chống trả cám dỗ, đến nỗi máu và mồ hôi toát ra giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. Phải chăng vì xác thịt quá nặng nề, vì tình nghĩa dành cho Thầy còn quá hời hợt, nông cạn, xốc nổi, nên trò mới dửng dưng bỏ rơi Thầy lúc ngặt nghèo? Mặc lời mời gọi khẩn khoản của Đức Giêsu với ba mộn đệ như rơi vào hư vô, không một tiếng hồi âm. “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” Lần hai, rồi lần ba cũng hoài công, vô vọng.

Đức Giêsu càng thấm thía nỗi cô đơn sầu não hơn nữa, khi quân dữ xông đến bắt Người, các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy chạy trốn, hoặc sau đó, ba lần Phêrô công khai chối Thầy. Còn gì đau đớn hơn khi bị người thân cận yêu thương nhất phản bội? “Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Lc 22, 61) Cái nhìn độ lượng, nhân từ, xót xa, lẫn khiển trách, đã thức tỉnh Phêrô quay về.

Thân bằng quyến thuộc đều bỏ rơi Người trong cơn nguy khó. Chính vì Vâng phục, Đức Giêsu phải chịu đựng nỗi cô đơn, sự bỏ rơi lạnh lùng đến vô cảm của thế gian. Người chỉ còn duy nhất trông cậy, cầu nguyện, tha thiết khấn xin Thiên Chúa Cha: “Abba Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.”

Nỗi cô đơn dày vò lên đến đỉnh điểm, khi Đức Giêsu hấp hối trên thập giá đã thảng thốt: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”

Thánh Phaolô vô cùng ca ngợi và vinh danh nhân đức Vâng Lời của Đức Giêsu. Nhờ vậy, mà nhân loại mới được trở nên công chính và được cứu rỗi khỏi sự chết: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thanh người công chính.” (Rm 5, 19)

“Trinh khiết là chết cho nhục dục, vâng phục là chết cho ý riêng.” (Đường Hy Vọng, số 402)

Đức Vua chịu nhục hình

Không chỉ chịu đòn roi, khổ hình hành hạ thể xác, Đức Vua Tình Yêu còn chịu đựng những lời phỉ báng, khinh miệt, những lời vu oan cáo vạ tày trời! Nhưng đau đớn hơn cả là hành vi ác ý bẻ cong, cắt xén, chụp mũ, xuyên tạc Lời Hằng Sống: “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” (Mc 14,58) “Hãy nói tiên tri đi!”

Chịu nhiều cực hình tra tấn nhục nhã ê chề vẫn chưa hết, Đức Vua còn bị liệt vào hạng người còn hèn mạt, tồi tệ, đáng khinh hơn cả phạm nhân Barbara cướp của giết người. Đáng đóng đinh vào thập giá. Nhưng gương mặt mới hôm nào hân hoan rạng rỡ chào đón Đức Giêsu vào Thành Giêrusalem, nay bừng bừng sát khí, đồng thanh phản bội lập đi lập lại: “Đóng đinh nó vào thập giá!”

Gánh hết tội lỗi thế gian, Đức Giêsu cam chịu khổ hình, đền thay cho tội nhân mọi thời, mọi nơi. Thánh Phaolô khẳng định một sự thật kinh thiên động địa:“Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.” (Dt 9,26)

“Thương tích của Chúa Kitô dạy ta cái gì? Những thương tích đó dạy rằng: Đời là một cuộc chiến, ngày cánh chung, chúng ta cũng được sống lại như Ngài đã sống lại. Nếu đời ta không có thập giá, tất cũng không có mồ táng trống không. Nếu không có ngày Thứ Sáu thụ nạn, tất không có Chúa Nhật Phục Sinh. Không có vành gai, tất không có hào quang ánh sáng. Nếu ta không cùng khổ với Ngài, tất ta không được cùng Ngài sống lại.” (ĐHY Fulton Sheen, Trên Đỉnh Cao Thập Giá)

“Trong giờ tử nạn, Chúa đem theo những Tông đồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không?” (Đường Hy Vọng, số 699)

Đức Vua chịu đóng đinh

Cơn cuồng nộ của dân chúng vẫn còn chưa chịu chấm dứt, khi Đức Giêsu đã bị đóng đinh vào thập giá. Kẻ qua người lại tiếp tục ra rả chửi rủa, khinh miệt, nhục mạ phỉ nhổ, xỏ xiên, khích bác, dè bửu, mạt sát Đức Vua.

Sự dữ tưởng như chiến thắng. Ma quỷ hả hê, hí hửng, tưởng chừng tiêu diệt được đạo lý, sự thật và sự sống. Nhưng không phải vậy, Tình Yêu đã khải hoàn, Đức Vua Tình Yêu đã hoàn toàn chiến thắng thế gian, ma quỷ và xác thịt, khi Người toàn tâm toàn ý vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa Cha. Sẵn lòng làm hạt lúa chết đi, để trổ sinh hoa trái cứu độ cả nhân loại.

Hướng về Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, Thánh Phaolô khuyên nhủ hãy cởi bỏ gánh nặng trần thế, lo toan sự đời, ham hố vinh hoa, phú quý và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho tín hữu: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Dt 12,2)

“Đau khổ không những giúp con can đảm, nhẫn nại, nhưng còn có giá trị cứu chuộc rất lớn lao, nếu con hiệp với sự thương khó Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, số 706)

Lạy Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh, xin cảm hóa chúng con, biết ăn ăn, sám hối, canh tân, trở nên khiêm hạ, vâng phục Thánh Ý Chúa, dẫu có chịu cô đơn, hành hạ, nhục hình và thậm chí chịu tử nạn vì sáng danh Thiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, khấn xin Mẹ dẫn dắt chúng con đồng hành với Mẹ trong cuộc thương khó tới tận đỉnh đồi Canvê. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết bỏ mọi lưu luyến thế gian, từ bỏ cả bản thân, mà vác Thánh Giá theo Chúa cho trọn. Amen.

 

 

 

 

 

19. Từ những nghịch lý

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

 

Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu xem chừng tràn ngập những nghịch lý khó hiểu dưới con mắt thế gian. Không riêng gì với những người ngoài Ki tô giáo, mà có thể cả những tín hữu, con chiên của Chúa cũng cảm nhận như thế.

1. Nghịch lý từ quần chúng.

Sau khi tưng bừng hoan hỉ đón chào Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như vị minh quân đáng kính, tái hiện lại hình ảnh vua Salomon cưỡi con la cái của vua Đavit xuống Ghi khôn (1V 1,38), dân chúng Israel lại sớm hùa theo các thầy thượng tế, Biệt Phái, quay lưng trở cờ lên án, kết tội Chúa và thậm chí còn quá khích, đòi đóng đinh Người.

Một sự phản bội trắng trợn đầy kịch tính và đau xót vô cùng. Nhớ lại một thuở dân chúng đã từng mê say, háo hức đi theo Chúa, vì thấy Người đầy quyền năng, giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỷ, nuôi ăn… Nay Chúa bị bắt, bị tra khảo, đánh đập, bị lăng nhục, thì quần chúng quay ra phỉ nhổ, khinh miệt và tố cáo. Dĩ nhiên họ chịu tác động từ các thầy thượng tế, Biết Phái cùng đồng bọn thù hằn với Đấng Cửu Thế.

Từ nghịch lý này gợi lên tính phù vân của quyền lực và vinh quang nay còn mai mất, chứng tỏ lòng dạ con người dễ thay đổi, bất trung, dễ dàng phản bội, lấy oán báo ân.

Từ nghịch lý này, tưởng chừng như bóng tồi đã che khuất hoàn toàn ánh sáng. Sự ác đã thắng thế trên thế gian. Nhưng làm sao thế gian biết được rằng sự tột cùng của cái ác lại nảy sinh ra Tình Yêu vĩ đại. Đó là chính Chúa Giêsu đã tự nguyện nhập thế, gánh hết tội lỗi, cứu rỗi mọi người, “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).

2. Nghịch lý từ tình nghĩa thầy trò.

Người môn đệ được giao tay hòm chìa khóa, lại tráo trở, phản phúc, âm mưu, cùng đồng lõa với giới lãnh đạo tôn giáo đã thoái hóa, biến chất, để bán đứng Thầy mình, lấy 30 đồng bạc. Phải chăng Chúa đã lầm lẫn, không biết tuyển chọn kỹ càng các môn đệ, mới để Giuđa Iscariot cùng đồng hành suốt 3 năm?

Còn thêm một môn đệ nữa, cũng được Chúa Giêsu tin cậy, ưu ái, đã chối bỏ Chúa trước mặt đám gia nhân 3 lần trước khi gà gáy 2 lần. Mặc dù ông Phêrô đã được Chúa cảnh báo trước đó không lâu, cũng như ông đã từng thề thốt trung thành với Người. May thay ông còn kịp sám hối, ăn năn trở lại, vì còn tin cậy vào lòng Thương Xót của Chúa.

Từ nghịch lý này chứng minh lòng tham, lòng ham mê của cải vật chất, ham mê hưởng lạc, lòng bất trung, bất nghĩa, có thể xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ người nào, cho dù phải bán đi, hay gây đổ máu cả người thân, một khi xa lìa Chúa, đánh mất đi mối hiệp thông sâu xa và bền vững.

Từ nghịch lý này, cũng minh chứng cái bản năng sinh tồn còn mạnh mẽ hơn cả tình nghĩa thầy trò. Cái thói tham sống sợ chết có lẽ đã nằm trong gien di truyền của loài thọ tạo. Thế mà Chúa lại dạy: “Ai qúy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được.” (Ga 12,25) Người đã hé mở cho thế gian biết đâu là hơn thiệt.

3. Nghịch lý từ công lý thế gian

Từ dinh thầy cả Caipha, sang dinh Hêrôđê, đến dinh tổng trấn Philatô, chẳng có bản án chính thức nào có thể buộc tội Chúa Giêsu. Đến nỗi quan tổng trấn Philatô thấy Người quá oan ức, chẳng có tội tình gì, đã toan tha bổng, nhưng chính cánh quần chúng tự phát cứ một mực đồng thanh la lên, đòi đóng đinh Chúa Giêsu.

Ôi! công lý của thế gian là thế đó, nó uốn cong theo sức mạnh quyền lực và tài lực, nó chỉ răm rắp thỏa mãn cái dã tâm của nhà cầm quyền, hay tập thể lãnh đạo nào đó. Chính nghịch lý này khiến cho con người bao đời luôn luôn đói khát tìm kiếm sự thật và công lý. Điều chỉ có ở Đấng Thiên Sai mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã công khai công bố: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Chỉ đến với Người, con người mới nhận được Công lý thật.

Lạy Chúa Giê su, mầu nhiệm cuộc Khổ Nạn còn biết bao điều kỳ diệu, mà con chưa thể khám phá và hiểu thấu đáo. Xin cho con được hiệp thông phần nào, qua những khó nhọc, đau khổ hằng ngày, hầu con được ơn cứu rỗi.

Lạy Mẹ Maria từ bi nhân ái, xin chỉ dạy con ý nghĩa sự đau khổ, cho con sẵn lòng chấp nhận, hầu ăn năn sám hối tội lỗi, lánh xa dịp tội. Biết sống trung thành với Chúa luôn mãi. Amen.

 

 

 

 

 

20. Sự hy sinh của Chúa cho tội lỗi chúng ta

(Mc 11:1-10) (Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

 

Nhìn vào lịch sử Việt Nam chúng ta thấy: Lê Lai là vị anh hung đã chết cho Lê Lợi và được kể vào hàng “Tôi trung hưng quốc”. Hai bà Trưng thuộc hạng “yếu liễu đào tơ”, đã báo thù chồng và cứu được nước, được kể là “nữ tướng anh hùng”. Anh phải sống nhắc lại đôi vợ chồng bị giòng nước cuốn đi, bà vợ đã sẵn sang xuôi tay theo giòng nước cuốn, để cho chồng được sống vì đoàn con, được kể là “một mối tình trọn nghĩa”. Cuộc di cư năm 1975, nhiều người cha, người mẹ đã hy sinh lấy máu mình cho con bú để cứu sống con. Maximien Kolbe đã hy sinh cuộc đời cho bạn bè, để về nuôi vợ mọn con thơ.

Hình ảnh Chúa Kitô treo trên thập giá quá quen đối với chúng ta, đôi khi nhìn ngắm Người qua dấu Thánh Giá, qua tác phẩm điêu khắc, Chúa như con chuồn chuồn dẫy chết. Nhưng đó là một hiện tượng lịch sử đã diễn tiến và trôi theo thời gian vào dĩ vãng. Thực ra Chúa Giêsu trên thánh giá trong mùa này đang sống động trong tâm tư mỗi người: Một hy sinh vô cùng vượt mọi hy sinh chẳng những cứu quốc, cứu bạn, cứu con… mà còn cứu cả linh hồn mình, cứu cả đời mình.

Trong thời cựu ước, của lễ hy sinh đền tội là con chiên con bò sát tế. Trong thời Chúa Giêsu thì chính xác thịt Thiên Chúa lấy làm sinh lễ cúu sống muôn dân “Đấng xóa tội trần gian” (Jn.1:29). Đồi Golgotha là bàn thờ. Thánh Giá là gỗ củi hy sinh, xác hồn Chúa Giêsu là sinh lễ. Thiên Chúa đã trở nên con chiên thục tội treo trên Thánh Giá. Chúa bị đánh nát (như giã dò cho nhiễn), máu và nước tuôn đổ lai láng, Người hoi hóp như một con vật bị chọc huyết, Chúa chết cho ai tin vào ơn cứu chuộc của Ngài. Chúa đứng ra hứng chịu sự thịnh nộ của Chúa Cha, Chúa bị đánh nát như đứa con, Chúa chịu để ta được an toàn. Thánh Phêrô viết: “Anh em biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như vàng bạc mà anh chị em được khỏi tội, khỏi sự ăn ở không ra gì của tội nguyên tổ truyền lại mà do bảo huyết Chúa Kitô, máu con chiên Thiên Chúa vô tội” (I Pet. 1:18-19).

Rất mong anh chị em suy niệm sự hy sinh cao cả của Chúa cho chúng ta, vì chúng ta, để sống xứng đáng đáp đền ơn cứu sống của Chúa.

 

 

home Mục lục Lưu trữ