Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1366395

NHIỀU HƠN AI HẾT

NHIỀU HƠN AI HẾT (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Đức Giêsu nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư

“Kinh Sư” là những nhà chuyên môn và những người giải đáp chính thức Kinh Thánh. Sau một thời gian dài học tập vào khoảng 40 tuổi, họ được công nhận thi hành chức vụ của họ và trở nên những người cố vấn chính thức trong những quyết định tư pháp. Đức Giêsu và các tông đồ đã không được đào tạo như thế.

Ngay từ đầu, các “Kinh Sư” luôn tỏ ra chống đối Đức Giêsu. Chỉ trong Tin Mừng Maccô, chúng ta đã thấy nhiều cuộc xung đột (Mc 2,6; 3,22; 7,1; 11,18). Ở đây, Đức Giêsu nghiêm chỉnh cảnh giác chúng ta. Đây là lần cuối cùng Người nói trước công chúng, khoảng vài tuần lễ trước khi Người bước vào cuộc thương khó và bị kết án bởi Thượng Hội đồng mà các Kinh sư thường chủ trì xét xử.

Matthêu đã quy tụ lại thành một diễn từ của Đức Giêsu về đề tài này: “Khốn cho các Kinh sư” (Mt 23). Sự hiểu biết không nhất thiết mang lại cho ta đức hạnh… và than ôi, kể cả sự hiểu biết tôn giáo cũng thế.

Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.

Vẫn còn những Kitô hữu bực tức vì Giáo Hội đang cố gắng gột bỏ mọi vẻ huy hoàng. Tuy vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng sự cố gắng đó dù chưa hoàn tất, nhưng hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu. Giáo Hội trong mọi thời đại; có nguy cơ rơi vào cám dỗ khủng khiếp của uy thế, đặc quyền những “vẻ bề ngoài sang trọng” những tước vị và những chỗ ngồi danh dự. Lạy Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng làm quen với một Giáo Hội, biết gột bỏ những danh dự, chấp nhận nghèo khó. Với các linh mục, biết sống như mọi người, không dành đặc quyền đặc lợi nào cả.

Tính cách Pharisêu mà Đức Giêsu lên án, đó là việc sử dụng những “dấu hiệu bề ngoài” để làm cho người khác nể trọng mình và được hưởng những đặc quyền. Ngày nay, có một phong trào tân Pharisêu cũng giả dối như thế, cốt làm tăng giá trị của mình bằng cách làm ra vẻ “thông thạo thời sự”, “giữ đúng thời trang” bằng cách theo nhưng “quan điểm tiến bộ nhất”, dù là những quan điểm rỗng tuếch.

Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ

Điều mà Đức Giêsu quở trách kinh sư thời ấy, đó là thái độ “khoa trương”, lòng “tham lam”, nếp sống “giả hình” của họ. Có lẽ họ đã đòi hỏi những khoản thù lao rất cao đối với những người đến hỏi ý kiến họ, và điều này rất nghiêm trọng vì họ được coi như những người đạo đức, cầu nguyện lâu giờ. Kẻ nào muốn loan truyền những đòi hỏi của Lời Chúa, cũng phải tỏ ra rất khắt khe với chính mình. Khi các Kitô hữu, hay phẩm trật Giáo Hội phạm những bất công xã hội thì đó là điều đặc biệt nghiêm trọng. Thiên Chúa nghe thấy tiếng kêu của những người nghèo khổ bất hạnh, Người ban “công lý” cho kẻ bị áp bức, nâng đỡ góa phụ và cô nhi (Tv 1,45).

Kẻ nào muốn thuộc phe Chúa, thì nhờ cầu nguyện, phải đặc biệt trở nên liêm khiết và công bằng.

Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn

Cộng đoàn của Đức Kitô là Giáo Hội phải nghe lời cảnh cáo này: Người sẽ càng khắt khe hơn với chúng ta, khi chúng ta càng được nhận lãnh nhiều. Chúng ta không thể lừa dối Thiên Chúa! Người thấy tận đáy các sự việc và những sự giả dối của chúng ta sẽ bị lột trần trước mắt Người.

Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao

Maccô là một nhà quay phim tài tình. Chúng ta hãy thưởng thức sự chính xác của thiên phóng sự này. Đức Giêsu đã chọn một điểm quan sát tốt, ngồi trên các bậc thềm, đối diện với các hòm tiền. Người nhìn xem. Đám đông những người hành hương diễn qua trước mặt Người. Chúng ta hãy ghi nhận lòng nhân ái của Đức Giêsu: Người chú ý đến những đám đông, chú ý đến những gì xảy ra chung quanh Người. Chúng ta có biết chú ý không? Chúng ta có biết ngắm nhìn không?

Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.

Vào thời Đức Giêsu cũng như ngày nay các tầng lớp xã hội luôn có những mức lợi tức rất chênh lệch. Điền chủ, thương gia, luật gia, giới tư tế thường là giàu có và là sở hữu chủ tại Giê-ru-sa-lem những dinh thự với tất cả tiện nghi và xa hoa: Nhiều gian phòng, hồ tắm, sân vườn, cột nhà cẩm thạch… Trong khu ở riêng của các người quyền quý một khu đẹp và sang trọng! Còn những người nghèo thì chạy sống từng ngày và ở trong “khu vực thấp hèn” tại Giêrusalem.

Nếu lưu ý đến bản văn của Maccô, chúng ta sẽ thấy ông đã viết “một số” người giàu… nhiều người giàu, đã cống hiến ‘những số tiền lớn’ như vậy, họ cũng thiết thân làm nghĩa vụ đối với Đền Thánh.

Ở đây Maccô không chú thích gì cả, nhưng ông vẫn không thể không so sánh:

Cũng có một bà góa nghèo đến.

Bây giờ nhà quay phim cống hiến cho ta một cận cảnh:

Người đàn bà nghèo khó bước tới gương mặt khiêm tốn giữa các khuôn mặt khác. Không có một chỗ danh dự, không danh tiếng gì. Một người không quen biết. Đó là một người đàn bà, trong thế giới mà người đàn ông thống trị, một góa phụ trong thế giới mà chỉ có người đàn ông mới có quyền được luật pháp công nhận. Một người đàn bà nghèo, không lợi tức. Đức Giêsu đưa mắt nhìn bà.

Bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.

Thật là trái ngược với “số tiền lớn” của những kẻ khác!

Tôi muốn nhìn ngắm hai đồng tiền nhỏ này, hai đồng xu đút giấu kín trong lòng bàn tay bà.

Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.

Cách tính tiền thật là kỳ cục? Bà này đã cho “nhiều hơn” tất cả mọi người. Đức Giêsu đã nói thế. Người làm đảo lộn mọi hệ thống xã hội của chúng ta. Người coi thường hệ thống phân loại, những giai cấp xã hội của chúng ta, với những bậc thang phân biệt rõ ràng mà người ta phải leo lên để “thăng tiến”. Ở bậc thang xã hội “cao”, thì giàu có được người khác trọng nể; mặc y phục lộng lẫy, được người ta chào hỏi công cộng, có chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc, tất cả những điều này không làm Chúa Giêsu quan tâm đến. Còn chúng ta thì sao?

Phản ứng của chúng ta trước trang Tin Mừng này như thế nào? Hay nó vẫn làm chúng ta thản nhiên, không chút bận tâm?

Trong một xã hội dồi dào của cải mà chúng ta đang sống chúng ta có thái độ nào đối với một số nghề nghiệp dành cho người nghèo? Có những người nào mà tôi khinh khi vì chủng tộc, vì môi trường xã hội, nghề nghiệp hay sự nghèo khó của họ không?

Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản

Người ta không thể đánh lừa Chúa được. Người thấy tận đáy lòng chúng ta. Bà này đã cho “nhiều hơn”, vì bà đã cho “tất cả”. Muốn biết giá trị của một quà tặng, ta không nên chỉ nhìn vào đồ vật đó, mà còn, phải để ý đến người cho. Thiên Chúa đã nhìn như thế. Người nhìn thấy những gì còn lại trong két sắt hay trong trương mục ngân hàng.

Chúng ta cần suy niệm hai từ mà Đức Giêsu đã dùng. Đó là hai ý niệm đơn giản: ‘Sự túng nghèo’ là tình trạng của người không có đủ yếu tố cần thiết để sống; ‘Điều cần thiết’ là những gì tương xứng cho đời sống bình thường. ‘Của cải thừa’ là những gì chúng ta có nhiều hơn cái cần thiết.

Chắc chắn đó không phải là những giá trị toán học cố định. Vì ta có thể thắc mắc: “Sự cần thiết sẽ dừng lại ở mức nào?”. “Sự dư thừa” bắt đầu từ đâu? Nhưng thực tế khiến chúng ta phải nhìn nhận rằng có quá nhiều khác biệt giữa điều kiện sống của con người trong cùng một xứ sở nhất là giữa quốc gia này với quốc gia khác. Với những đồ vứt bỏ trong thùng rác ở New York, người ta cũng có thể cứu sống cho một thành phố với số dân tương đương thuộc thế giới thứ ba. Những phí phạm của chúng ta kêu lên tới Thiên Chúa, và trước mặt người nghèo. Vào thời đó, Đức Giêsu đã dám tố cáo một số người sống quá ‘dư thừa’, còn ngày nay Người sẽ phải nói sao đây?

Tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.

Đức Giêsu không nhìn sự việc như chúng ta. Chính Người cũng là một kẻ nghèo.

Người đã nhìn ngắm và thấy tâm hồn cho đi tất cả. Chúa để mắt trên người nghèo. Họ đang làm vui lòng Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã ca ngợi người đàn bà góa nghèo, cống hiến hai đồng tiền nhỏ. Lạy Chúa, Chúa nghĩ gì về lòng quảng đại của con? Tôi có “cho đi” không? Bao nhiêu? Như thế nào? Ngày nay ta có thể cho rằng người đàn bà này có lý do chính đáng để giữ lại số tiền đó và để cho kẻ khác “cống hiến” thôi! Nhưng Thánh Vinh Sơn đã nói: May thay cho những người nghèo, vì vẫn còn có những người nghèo ‘biết cho’.

Trước khi khởi sự bước vào cuộc thụ khổ, Đức Giêsu cho chúng ta biết bí mật cái chết của Người sắp đến gần: Người đàn bà này là “hình tượng” của Thiên Chúa, Đấng trao ban tất cả, tất cả những gì Người có để sống! “Thiên Chúa dù giàu có, đã trở nên khó nghèo để làm giàu cho chúng ta”. Thánh Phaolô đã dám nói như vậy (2 Cr 8,9). Tình yêu không biết tính toán. Chúa là tình yêu. Người đã không tính toán, Người đã cho đi tất cả. Nếu Giáo Hội nguyên thủy đã ghi lại đoạn này bề ngoài xem ra không quan trọng ngay trước cuộc thương khó, là vì Giáo Hội đã tự nhủ: Vâng, Đức Giêsu đã tự nhận ra chính Người nơi người đàn bà này, vì bà đã “cho đi tất cả”.

(*)  Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B

CHÚA GIÊSU VÀ CÁC KINH SƯ – Chú giải của Jacques Hervieux

Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị những người hướng dẫn tâm linh quá kiêu căng này. Họ là những người có uy tín trong dân Do Thái những thái độ của họ khiếm nhã. Chúa Giêsu lên án sự phô trương phù phiếm của giới “thượng lưu” này khi họ tìm sự ngưỡng mộ nơi dân chúng (38b-39). Chưa hết, “Họ giành giật tài sản của các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài” (40a). Như thế còn hệ tại hơn là thiếu khiêm tốn. Đó là thói đạo đức giả. Các vị lãnh đạo này không ngần ngại bóc lột những kẻ bần cùng cô thế. Những lời cầu nguyện lê thê của họ nhằm mục đích che đậy tội lỗi của họ, để phình lừa dân chúng. Ta thấy lời kết án của Chúa Giêsu có vẻ quá cứng rắn. Nhiều khi Chúa Giêsu cùng quan điểm với nhóm biệt phái và các thủ lãnh của họ là các kinh sư. Ta cũng đã có lần chứng kiến một số người trong họ thành tâm kiếm tìm Nước Thiên Chúa (12,28-34).

Nhưng nên nhớ rằng mãi 40 năm, Maccô mới viết những đoạn Tin Mừng này. Trong khoảng thời gian trôi qua đó, hình ảnh giới hữu trách Do Thái đã thay đổi. Khi thuật lời đả kích nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với ký lục, Maccô muốn cho độc giả của mình, là các Kitô hữu Rôma thấu đáo về não trạng lẫn hành vi của các thủ lãnh Israel sau khi họ đã bắt bớ Chúa Giêsu. Cuộc khẩu chiến giữa Chúa Giêsu và các kinh sư đã nổ ra ngay từ đầu cũng như sự thù nghịch ngày càng tăng giữa Giáo Hội Kitô giáo non trẻ và hội đường (Do Thái giáo) xảy ra trong những năm 80-90. Ở Luca (11,42-54), và nhất là ở Matthêu (23,13-32), sự phê phán gay gắt giới biệt phái và kinh sư diễn ra theo một tiến trình dễ chấp nhận và phù hợp hơn với lối viết Tin Mừng.

ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA (12,41-44)

Đây là hồi cuối thuật lại cảnh Chúa Giêsu ở Đền thờ. Một hồi thật cảm động. Maccô vừa mới phác họa hình ảnh tàn nhẫn của nhóm kinh sư (“Họ bóc lột của cải các bà góa”) (12,40a) xong, liền đưa ngay ra hình ảnh một bà góa rộng rãi đặc biệt. Hai hình ảnh tương phản hoàn toàn. Những từ “bà góa” nối kết hai đoạn văn thật tài tình.

Cảnh tượng diễn ra trong nơi thánh của Đền thờ, gần bên kho tàng. Đó không phải là nơi chứa tài sản đền thờ, mà là nơi cất chứa lễ vật các tín đồ dâng cúng (2V 12,10). Ở cuối phòng người ta đặt các hòm tiền. Những kẻ giàu có, chiếm phần lớn, bỏ vào đấy “các số tiền lớn” (c. 41b). Nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiến đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiền đến và bỏ vào đó 2 đồng xu” (x. 42). Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt củ nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tàn sản chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy Maccô mới nói: “Người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu (theo đơn vị tiền tệ Do Thái), một món tiền không nghĩa lý gì. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội này hầu qua cử chỉ khiêm tốn đó, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng (43-44). Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược này kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Còn gương nào đẹp hơn? Các bạn hữu Chúa Giêsu hẳn phải nhận ra, nơi góa phụ tuy cơ bần mà độ lượng hình ảnh của một “môn đệ” chân thực. Ta nên lưu ý đặc biệt đến sự thể trong Tin Mừng là Chúa Giêsu thường làm nổi bật đức tính của giới phụ nữ (Lc 10,38-42): Martha và Maria; Ga 4,1-42: người đàn bà Samari) cho các “ông” môn đệ thấy. Sau khi dạy dỗ các môn đệ về sự kiện đời thường này, Chúa Giêsu rời đền thờ (13,1) và Ngài không còn trả lời đó lần nào nữa.

 CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B

TẤM LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHÈO (*)-  Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII năm B mời gọi chúng ta suy gẫm về tấm lòng quảng đại của những người nghèo.

1V 17: 10-16

Bài Đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà cho vị ngôn sứ Ê-li-a tất cả phần còn lại của mình trong thời kỳ đói kém để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.

Dt 9: 24-28

Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái ca ngợi việc Đức Giê-su đã tận hiến một lần cho tất cả để vĩnh viễn tiêu diệt tội lỗi và thánh hóa những ai tin vào Ngài.

Mc 12: 38-44

Tin Mừng thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa nghèo khổ, bà cho tất cả những gì mình có. Xét về lượng, hai đồng xu dâng cúng của bà thật là khiêm tốn, nhưng về phẩm, của dâng nầy chất chứa trọn đức tin, đức cậy và đức mến của bà đối với Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (1V 17: 10-16)

Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, hai cuốn sách Các Vua chứa đựng một số lượng lớn những giai thoại ngoạn mục; tập truyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sa minh họa rõ nét nhất điều nầy. Được lưu truyền lâu dài trong dân gian trước khi được biên soạn, những chuyện tích nầy được thêu dệt thành những chuyện sử thi.

Cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rếp-ta minh chứng về tấm lòng quảng đại của những người nghèo và chuẩn bị cho câu chuyện Tin Mừng về tấm lòng quảng đại của một bà góa. Hơn nữa, hoàn cảnh, nơi chốn, các nhân vật đem lại cho câu chuyện một tầm mức tôn giáo.

1/.Hoàn cảnh của ngôn sứ Ê-li-a:

Ngôn sứ Ê-li-a sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, trong vương quốc miền Bắc, dưới triều đại vua A-kháp (874-853 tCn). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình trong một hoàn cảnh rất gian nan. Vua A-kháp cưới công chúa I-da-ven ngoại giáo. Bà hoàng hậu nầy rất sùng kính thần Ba-an nên tìm mọi cách loại bỏ việc phụng thờ Đức Chúa trong vương quốc Ít-ra-en. Trái lại, ngôn sứ Ê-li-a ra sức bảo vệ việc phụng thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

Ngôn sứ Ê-li-a báo trước vua A-kháp một cơn hạn hán sẽ giáng xuống toàn xứ sở vì tội thờ ngẫu tượng. Cơn hạn hán nầy sẽ kéo dài trong suốt ba năm. Ngôn sứ Ê-li-a rời miền Sa-ma-ri, nơi không dung thứ ông vì lòng oán hận của hoàng hậu I-da-ven đối với ông; ông đến tá túc ở phía bắc sông Gio-đan, bên con suối vẫn còn nước chảy. Nhưng khi con suối nầy cạn khô, ngôn sứ Ê-li-a ra đi tìm một nơi lánh nạn khác. Ông đi về miền duyên hải Phê-ni-xi ngoại giáo và đến làng Xa-rếp-ta, cách địa hạt Xi-đôn khoảng mười lăm cây số về phía đông và ở lại đó.

2/.Cuộc gặp gỡ của vị ngôn sứ với một bà góa xứ Xa-rếp-ta:

Một bà góa xứ Xa-rếp-ta nhận ra người khách lạ xin bà một chút nước và miếng bánh là một người Do thái, vì thế bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh”.

Được định vị vào trong bối cảnh sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-a, tình tiết này mang đến một lời chứng đáng chú ý khác về những người khiêm hạ mà các ngôn sứ Cựu Ước luôn luôn nói đến. Nhưng ngoài ra, tình tiết nầy nêu bật sự tương phản giữa thái độ của một bà góa nghèo ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà bày tỏ trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa khi phó thác vào lời hứa của vị ngôn sứ, với cách hành xử của một người phụ nữ ngoại giáo khác, hoàng hậu I-da-ven, bà nầy dùng quyền lực và sự giàu có của mình để lôi kéo dân Chúa sa vào tội bội giáo. Bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta sẽ được trích dẫn trong Tin Mừng như báo trước cuộc hoán cải của lương dân (Lc 4: 25-26).

Mặt khác, được định vị vào trong khung cảnh của cuộc khủng hoảng tôn giáo khắp vương quốc Ít-ra-en, cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rếp-ta cung cấp cho vị ngôn sứ một dịp chứng tỏ rằng chính Đức Chúa – chứ không phải thần Ba-an – là Đấng phân phát đích thật những của cải trần gian. Chính Ngài ban cho những ai tin tưởng phó thác vào Ngài, ngay cả vào lúc túng thiếu.

BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28)

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái tiếp tục chứng minh chức tư tế của Đức Ki-tô cao trọng hơn bội phần chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước. Tác giả định vị viễn cảnh trên hai bình diện: bình diện “trên trời”: Đức Ki-tô vinh quang là Đấng Trung Gian bên cạnh Chúa Cha, và bình diện “dưới thế”: chức vụ trung gian đòi hỏi Đức Ki-tô phải vượt qua cuộc Tử Nạn. Như trước đây, tác giả sử dụng những so sánh của mình, mặc nhiên hay minh nhiên: nghi lễ Đền Tội theo đó vị thượng tế Cựu Ước dâng hy lễ lên Thiên Chúa để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình và toàn thể cộng đoàn con cái Ít-ra-en vì đã trót phạm trong năm qua.

1/.Chức vụ cao trọng của Vị Thượng Tế Tân Ước:

Vào ngày đại lễ Đền Tội, để lời chuyển cầu của mình có thể thấu đến Thiên Chúa chừng nào có thể, vị thượng tế Cựu Ước vào tận nơi cực thánh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, “do bàn tay người phàm làm ra”; trong khi Đức Ki-tô “đã vào chính cõi trời”. Vị thượng tế Cựu Ước không thể đến tận nơi Thiên Chúa ngự, nhưng chỉ đến chỗ mà xưa kia đặt Hòm Bia Giao Ước, biểu tượng nơi ở cõi thế của Đức Chúa; trong khi Đức Ki-tô “đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.

2/.Phẩm chất cao trọng của Hy Lễ Tân Ước:

Vị thượng tế Cựu Ước dâng máu của tế vật chứ không phải máu của chính mình, trong khi Đức Ki-tô dâng máu của chính mình. Thế mà người ta có thể dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần. Vì thế, hiến lễ tự nguyện và tự hiến của Đức Giê-su có một hiệu quả vĩnh viễn. Những hy lễ được vị thượng tế Cựu Ước hằng năm dâng lên để xin ơn tha thứ tội lỗi, trong khi hy lễ của Đức Giê-su có giá trị cho mọi thời và mọi thế hệ.

3/.Một thế giới mới không bóng dáng tội lỗi:

Việc Đức Ki-tô nhập thể đã đặt Ngài vào trong mối liên đới với các tội nhân, nhằm tiêu diệt tội lỗi, như sấm ngôn về người tôi trung của Đức Chúa “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53: 12). Việc Đức Ki-tô xuất hiện vào Ngày Quang Lâm sẽ không còn bất kỳ liên hệ nào với tội lỗi. Đức Ki-tô sẽ phục hồi một thế giới không bóng dáng của sự chết và tội lỗi. Ngài sẽ cứu độ những ai trông cậy vào Ngài.

TIN MỪNG (Mc 12: 38-44)

Mới đây, những người Biệt Phái đã ca ngợi nhân cách của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Mc 12: 14). Tiếc thay họ đã sử dụng lời ngợi ca nầy để gày bẫy Đức Giê-su, nhưng lời ca ngợi này càng minh chứng nhân cách thường hằng của Ngài mà đoạn Tin Mừng hôm nay bày tỏ rõ nét nhất.

Khi đặt hai lời dạy của Chúa Giê-su bên cạnh nhau: tránh xa thói giả hình của các kinh sư (12: 38-40) và noi gương tấm lòng chân thành của một bà góa (12: 41-44), thánh Mác-cô muốn nêu bật sự tương phản giữa cách sống đạo của các kinh sư, tiêu biểu cho thành phần trí thức có quyền thế và địa vị, với thái độ khiêm hạ và quảng đại của một bà góa, đại diện cho thành phần nghèo hèn.

1/.Tránh xa thói giả hình của những kinh sư (12: 38-40):

Các kinh sư là những người học rộng biết nhiều về Kinh Thánh và về truyền thống các tiền nhân, vì thế họ là những nhà chú giải có thẩm quyền. Nhưng vì tự hào và tự phụ về kiến thức của mình, họ tự hình thành nên một giai cấp tách biệt quần chúng. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su thẳng thắn vạch mặt chỉ tên họ và phác họa chân dung của họ với vài nét tiêu biểu mang tính châm biếm: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cổ nhất trong đám tiệc”.

Nhưng lời tố cáo nghiêm khắc nhất mà Ngài gởi đến các kinh sư chính là: “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa”. Bản văn không nói cho chúng biết làm thế nào những kinh sư nuốt hết tài sản của các bà góa. Phải chăng họ đã khai thác sự nhẹ dạ cả tin của những người hiền lành chất phát mà thu góp tiền của cho riêng mình? Hay họ lợi dụng uy tín của những người giải thích lề luật có thẩm quyền mà giải thích lề luật theo chiều hướng có lợi cho mình? Hoặc với tư cách những nhà thông luật, họ biết rất rõ luật Mô-sê lên án nghiêm khắc những ai ức hiếp mẹ góa con côi và hứa cơn thịnh nộ của Đức Chúa (Xh 22: 21), nhưng lại nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng bất công của những kẻ có thế có quyền hà hiếp bóc lột những người thấp cổ bé miệng? Chúng ta không biết chính xác, nhưng quả thật, ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm khắc tố cáo thái độ nầy rồi: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10: 1-2).

Về đời sống tôn giáo, “họ còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ là một nhu cầu tâm linh tất yếu của bất cứ tín hữu đạo hạnh nào; nhưng điều đáng nói ở đây chính là “họ làm bộ” chứ không thực tâm, chỉ cốt phô trương nếp sống đạo hạnh của mình trước mặt người đời. Quả thật, họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách để ai cũng phải thấy rằng họ là những người đạo hạnh. Ngay từ bài diễn từ trên núi của Ngài, Đức Giê-su đã lên án nghiêm khắc thói đạo đức giả này rồi: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt 6: 5).

Đức Giê-su kết thúc những lời lên án thói giả hình của kinh sư như sau: “Cho nên, họ sẽ bị kết án nghiêm khác hơn” mà Ngài đã khai triển trong phần kết thúc dụ ngôn “Người đầy tớ trung thành đợi chủ trở về”: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều… Hể ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12: 47-48).

Lời kết án của Đức Giê-su xem ra quá cứng rắn, nếu không muốn nói vơ đủa cả nắm, bởi vì ngay trước đoạn Tin Mừng này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta một người kinh sư thành tâm thiện chí tìm kiếm Nước Thiên Chúa đến nổi Đức Giê-su đã khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12: 34). Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận tính lịch sử của đoạn Tin Mừng nầy, chính vì sự xung đột giữa Đức Giê-su và những giai cấp lãnh đạo Do thái đã dẫn đến cuộc Tử Nạn của Ngài. Nhưng đoạn Tin Mừng nầy khó thoát khỏi ảnh hưởng của những cuộc tranh cãi giữa Giáo Hội tiên khởi và Hội Đường Do thái khi Tin Mừng được biên soạn.

Tuy nhiên, khi đoạn Tin Mừng được công bố trong cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, nó mang tính thời sự và vẫn tiếp tục mang tính thời sự xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội tại thế. Việc Đức Giê-su lên án nghiêm khắc thói giả hình của các kinh sư là những lời nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài. Đến phiên mình, các môn đệ của Ngài sẽ là những người có nguy cơ đi lại lối mòn xưa cũ của những người kinh sư nầy, tự hào tự phụ vì đã được sống mật thiết với Thầy, đã nhận được thẩm quyền giảng dạy giáo huấn của Thầy, nên đòi hỏi được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong các cộng đoàn Ki-tô hữu. Các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh xa đừng để mình rơi vào những thói giả hình của các kinh sư nầy bằng cách noi gương cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa nghèo. Sứ vụ của họ phải là phục vụ một cách khiêm tốn và vô vị lợi… Đây là bài học mà các môn đệ của Đức Giê-su sẽ không bao giờ được quên.

2/.Noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44):

Xét về hình thức, thánh Mác-cô đã nối kết rất khéo hai lời dạy khác nhau của Đức Giê-su vào cùng một đơn vị. Lời dạy thứ nhất về các kinh sư đóng lại với việc lên án “nuốt hết tài sản của các bà góa”, thì cũng chính “một bà góa” mở ra lời dạy thứ hai. Xét về nội dung, việc liên kết hai lời dạy thành một đem lại một bài học nhớ đời. Các môn đệ phải tránh xa cách sống đạo giả hình của các kinh sư, những người đại diện hàng lãnh đạo của dân Chúa chọn; trái lại cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa, đại diện hạng người rốt hết, lại trở nên mẫu gương cho các môn đệ Ngài noi theo.

Khi cùng với các môn đệ đang ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng, Đức Giê-su quan sát thấy nhiều người giàu có đến dâng cúng những món tiền lớn, nhưng Ngài chỉ để ý đến một bà góa nghèo đến dâng cúng hai đồng xu. Theo Kinh Thánh, các bà góa được liệt vào số những người nghèo nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24: 17-22). Số tiền bà bỏ vào thùng dâng cúng chẳng đáng là bao so với những món tiền lớn của những người giàu có. Nhưng Chúa Giê-su không đánh giá của dâng cúng dựa trên số lượng mà trên chất lượng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải ghi khắc điều nầy: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo nầy đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút ra từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà nầy, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Của dâng cúng của bà góa nầy, xét về số lượng, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng xét về chất lượng, lại chất nặng đức tin, đức cậy và đức mến của bà, vì bà đã đặt mọi ngày sắp đến của mình vào ơn quan phòng của Chúa.

Dung mạo của bà góa nầy là dung mạo sau cùng xuất hiện trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Giáo huấn của Ngài đã bắt đầu với “Phúc cho những người nghèo khó” và kết thúc với lời ca ngợi một người nghèo khó biết cho tất cả những gì mình có để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa và để Thiên Chúa trở nên tất cả cho cuộc đời mình.

home Mục lục Lưu trữ