Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 64
Tổng truy cập: 1364786
NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
- Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn những lời cuối cùng như một di chúc để lại cho các môn đệ thân thương, Người muốn các môn đệ của mình xác tín một điều: muốn được thông phần vinh quang với Người, họ phải chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, của thập giá. Chính Người đã đi trên con đường ấy trước và mời gọi họ bước theo: “Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”( Lc 24, 46). Thập giá là nơi duy nhất cho chúng ta thấy tình yêu vĩnh cữu của Thiên Chúa. Qua thập giá, Chúa Giêsu mở ra một con đường hạnh phúc thật, hạnh phúc bất diệt cho chúng ta. Và Người muốn những ai theo Người cũng được hưởng niềm hạnh phúc ấy.
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 49). Các tông đồ phải là chứng nhân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Là nhân chứng, các tông đồ không thể ngồi yên một chỗ mà phải ra đi, phải thắng vượt tính nhút nhát, phải hy sinh và can đảm hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, phải tuyên xưng niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Các ông thi hành sứ mạng chứng nhân cho Đấng phục sinh là xây dựng thế giới yêu thương, công bằng xứng với trời mới đất mới mà Chúa Giêsu đã cứu chuộc. Các ông làm chứng về Người bằng một đời sống yêu thương phục vụ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá như Người đã làm.
Như thế, Chúa Giêsu muốn các ông là cánh tay nối dài sứ mạng cứu độ của Người trong thế giới. Về trời không phải là Người không còn hiện diện nhưng Người vẫn hiện diện qua các tông đồ, qua Giáo Hội. Và sứ điệp ngày xưa Người trao cho các tông đồ thì ngày nay vẫn đang được thực hiện qua mỗi người chúng ta. Về trời nhưng chương trình cứu độ của Người vẫn phải được tiếp tục nơi thế gian này, qua Hội thánh, và qua mỗi người chúng ta. Sứ mạng cứu độ này cần phải được thực hiện bằng lời nói và bằng những hành động cụ thể bên ngoài.
Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động giữa chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho mọi người sống chung quanh chúng ta và thế giới này nhận ra được sự hiện diện đó. Do đó, đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Người bằng đời sống Kitô hữu của mình. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng “cái có” của bản thân mình. Chúng ta phải có Người trong cuộc sống của mình, có kinh nghiệm và cảm nghiệm thực tế về Người trong đời sống mình, có đi lễ có đọc kinh, có rước lễ và nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể, có kinh nghiệm suy niệm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Hơn nữa, chúng ta phải có tình yêu Chúa trong cuộc sống được thể hiện qua những cử chỉ yêu thương, giúp đỡ, quan tâm đến tha nhân, chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, kinh nghiệm về bí tích hoà giải, kinh nghiệm cần lòng thương xót của Chúa,…Khi có Chúa trong lòng, khi chúng ta đã cảm nghiệm về Chúa, chúng ta dễ dàng đem Chúa đến cho thế giới, chia sẻ kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ thân mật và chân tình với Người cho thế giới, cho anh chị em chung quanh chúng ta. Đồng thời, chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho đời (Mt 5,13-16) nghĩa là cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một tấm gương phản chiếu được tình thương của Thiên Chúa đến với mọi người xung quanh. Mỗi người chúng ta phải là một dấu chỉ cho người khác. Chúng ta dù bé nhỏ nhưng sức mạnh đức tin của chúng ta là Chúa Thánh Thần sẽ bù lại cho tình trạnh mong manh của chúng ta. Được như thế, chúng ta đang làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.
Sống mầu nhiệm Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quang mình. Sống chứng nhân là xây dựng nước trời ngay trong cuộc sống này, trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám bước theo Chúa, can đảm sống đức tin, chấp nhận hy sinh, dám sống yêu thương để làm chứng cho Chúa giữa mọi người để mai sau chúng con cũng được vào Nước Trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.
Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi xem anh đọc gì? Anh đáp: Đọc Kinh Thánh. Nhà buôn cười cười nói: Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Người Phi Châu đáp: Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi.
Kinh Thánh là lời mạc khải của Thiên Chúa ban cho con người. Đọc Kinh Thánh giúp cho chúng ta nhận biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa chọn lựa, cưu mang và phát triển là để đón nhận Đấng Cứu Thế. Sự hình thành của Kinh Thánh Cựu Ước kéo dài cả mấy ngàn năm đón chờ. Tuy dù dân tộc Do-thái được chuẩn bị cách rất cẩn thận qua Kinh Thánh mạc khải, qua các dấu chỉ và qua các lời tiên tri loan báo, nhưng nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đấng mà cha ông bao năm mong chờ. Bởi lẽ các vị lãnh đạo tôn giáo như các Thượng tế, Thầy cả, Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái, Nhóm Sađucêô và các Đầu mục, Kỳ lão đã dẫn dân đi lạc vào ngõ khác. Chúa Giêsu đã đến hoàn tất mọi lời Kinh Thánh loan báo về Ngài. Chúa đến không phải để hủy phá lề luật, nhưng làm cho nên trọn. Chúa Giêsu là phiến đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường. Ngài chính là cột trụ trung tâm duy nhất của mọi niềm tin.
Cuộc lữ hành trần thế của dân Do-thái tiến bước dần đến ơn cứu độ. Suy tư và não trạng chung của nhiều người vẫn còn bám víu vào những truyền thống và tục lệ cha ông. Vì thế, họ không dễ dàng mở cửa đón nhận những làn gió mới. Đạo Do-thái với những sinh hoạt tôn giáo, những hệ thống thần học, những luật lệ và những thực hành sống đạo đã ăn rễ sâu trong niềm tin. Một hệ thống tôn giáo quá nặng về phần tổ chức, sống vị luật và chú tâm hình thức. Tâm hồn họ dần rời xa cốt lõi của niềm tin là đời sống nội tâm. Nhiều người chỉ còn tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng họ lại rời xa. Chúa Giêsu xuất hiện như cai gai trước mắt nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời. Chúa công khai giảng dạy tại trung tâm tôn giáo ở Giêrusalem. Chúa đã gặp gỡ mọi thành phần trong dân và đối diện với các nhóm lãnh đạo chuyên biệt. Chúa Giêsu tìm đưa dẫn họ về với căn cốt của đạo. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sống đạo nội tâm. Sống đạo trong yêu thương, bác ái và vâng phục.
Chúa Giêsu đến để rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa mời gọi mọi người sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Thời gian đã viên mãn. Chúa thực hiện một cuộc vượt qua mới trong tinh thần mới. Chiếc xe thời gian đã đến, ai không bước lên, sẽ bị tụt lại sau. Mặc dầu có nhiều sự chống đối và chối từ, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh hy sinh cứu độ. Chúa hiến thân chịu chết và đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã trở thành niềm hy vọng tuyệt đối cho nhiều người. Có rất nhiều người cùng đồng hành chia sẻ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Chúa không dấu diếm hay lừa dối những người tin theo Chúa, nhưng Chúa đã báo trước những sự khó khăn, sự bách hại, xua đuổi và chịu hy sinh đau khổ. Qua thánh giá khổ đau mới có thể bước vào vinh quang sự sống. Stêphanô là hoa qủa đầu mùa của niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh đã lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Người ta thù ghét cả những người tin vào Chúa Kitô sống lại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo là những người đầu tiên lên tiếng phủ nhận, phản đối và bách hại. Tác giả sách Tông Đồ công Vụ kể rằng trước khi bị ném đá cho chết, Stêphanô được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”(Tđcv 7, 56). Stêphanô đã tuyên xưng đức tin một cách can đảm, dầu phải đối diện với sự đau khổ và sự chết kề bên. Ông đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Stêphano hiểu ý nghĩa lời dạy: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước trời là của họ. Nhưng những người đồng hương không thể chấp nhận một giáo lý mới của một người đã bị kết án tử hình: Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô (Tđcv 7, 57-58).
Stêphanô thấm nhuần Tin Mừng của Chúa: Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ (Tđcv 7, 60). Chúng ta biết máu của các vị thánh tử đạo là hạt giống ươm mầm đức tin. Thật vậy, sau cái chết của Stêphanô, ông Saolô đã được ơn trở lại. Saolô cùng đồng cảnh, đồng thuyền với nhóm đồng hương nhân danh đạo giáo để kết án ném đá Stêphanô. Chúa Giêsu phục sinh đã mở đường đưa dẫn ông Saulô trở về làm nhân chứng cho Ngài. Ông Saulô đã đổi đời và đổi tên thành tông đồ Phaolô. Phaolô trở thành một nhân chứng nhiệt thành. Không sợ gian nan, đau khổ và bách hại, ông đã sống chết cho niềm tin. Cả cuộc đời còn lại Phaolô đã không ngừng rao giảng Chúa Kitô phục sinh cho nhiều người. Ngài cũng đã chịu tử vì đạo và lấy máu đào chứng minh cho niềm tin sắt son.
Chúa Giêsu là kiên thuẫn, là đá tảng và là nơi nương náu cho những tâm hồn tìm kiếm Chúa. Chúa mời gọi mọi người lắng nghe và thực hành lời Chúa, họ sẽ được chia phần vinh quang hạnh phúc: Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một (Ga 17, 22). Chúa Giêsu yêu mến những người Chúa đã chọn và tất cả những ai thuộc về Chúa. Ngài muốn ấp ủ chúng ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24).
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy sách tội xưa và cùng được tham dự vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là chỉ thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa trong một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Chúa cầu nguyện để mọi người nên một trong Chúa. Trở nên một trong ý nghĩa phổ quát. Không phải nên một với người này, người kia hay nhóm này, nhóm nọ. Chúng ta nên một với Chúa Kitô để cùng tôn thờ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cùng chia sẻ một niềm cậy trông và một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu ngày sau. Chúng ta tuyên xưng chỉ có một Chúa, một đức tin và một phép rửa. Chúng ta tin nhận Chúa Kitô: Là An-pha và Ômêga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22, 13).
Trong cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng có rất nhiều tổ chức các tôn giáo khác nhau. Tuy các tôn giáo có khác nhau về cơ cấu, tổ chức và thực hành sống đạo nhưng cùng quy hướng về sự tôn thờ một Thiên Chúa và hy vọng cuộc sống vĩnh cửu ngày sau. Chúa Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Con đường dẫn lối vào Nước Trời tuy hẹp nhưng Chúa Giêsu đã đi trước và mở lối đưa đường. Chúa Giêsu phán: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Chúa Kitô là trung tâm điểm qui tụ mọi niềm tin về một mối để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận hạt giống đức tin qua Bí tích Rửa Tội, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm sống niềm tin và hăng say làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: “Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô”. Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.
Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.
Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.
So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.
Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: “Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ”. Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: “Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.
Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.
Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.
Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.
Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.
Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.
Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam