Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1370990

NIỀM TÂM SỰ

Niềm tâm sự – JKN.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu có nói: “Cha Thầy dạy Thầy thế nào, Thầy cũng dạy anh em như vậy, nên anh em hãy dạy nhau như Thầy đã dạy anh em” không? Hay nói: “Cha Thầy làm gì cho Thầy, Thầy cũng làm điều ấy cho anh em, nên anh em hãy làm cho nhau như Thầy đã làm cho anh em”? Điều đó có nghĩa gì?

2. Xét về gương của Đức Giêsu: Ngài yêu thương con người đến mức độ nào? Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau ở mức độ nào?

3. Để yêu thương mọi người, ta có thể làm gì cụ thể và ích lợi cho họ nhất? Họ cần gì nhất?

Chia sẻ

1. Đức Giêsu bắt chước Chúa Cha, sau đó Ngài mời gọi ta bắt chước Ngài

Trong bài Tin Mừng, ta thấy có những lời của Đức Giêsu có hình thức ít nhiều tương tự như sau: “Chúa Cha làm cho Thầy, Thầy cũng làm như vậy cho anh em”, nên “anh em hãy làm như vậy cho nhau, giống như Thầy đã làm cho anh em”. Chẳng hạn:

– Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Sau đó Ngài mời gọi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”

– “Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”, Vậy “anh em (hãy) giữ các điều răn của Thầy và ở lại trong tình thương của Thầy”

– “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”, nghĩa là: Tất cả những gì Cha Thầy nói với Thầy, Thầy lại nói hết với anh em, nên tất cả những gì Thầy nói với anh em, anh em hãy nói hết với nhau. Vì nói cho nhau biết hết tức coi nhau như bạn hữu, nên lời trên có thể diễn tả cach khác: Cha Thầy đã coi Thầy như bạn hữu, Thầy cũng coi anh em như bạn hữu, vậy anh em hãy coi nhau như bạn hữu, giống như Thầy đã làm như vậy với anh em.

Như vậy, Chúa Cha nêu gương cho Đức Giêsu noi theo, Đức Giêsu lại nêu gương cho chúng ta noi theo. Đức Giêsu cũng đã nói rõ điều ấy: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15). Vì thế, bổn phận của chúng ta là tiếp tục nêu gương tốt cho nhau, và cho mọi người. Nhờ đó, chúng ta trở nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian” (x. Mt 5,13-16).

Trong nghi thức phong chức giáo sĩ, Đức giám mục đại diện Giáo Hội trao cho các tân chức bổn phận phúc âm hóa, gồm hai nhiệm vụ được tóm lại trong câu: “Facete et docete” (=Hãy làm và dạy). Không phải là không có dụng ý khi Giáo Hội đặt chữ làm trước chữ dạy. Giáo Hội không bảo: “Hãy dạy và làm”, mà bảo: “Hãy làm và dạy”. Giáo Hội có ý nói: hãy làm gương trước đã rồi hãy dạy bảo sau, vì làm gương thì cần thiết và quan trọng hơn dạy bảo rất nhiều. Nhưng dường như nhiều nhà phụ trách phúc âm hóa thời nay thường chú tâm đến việc dạy bảo hơn là làm gương, thậm chí coi rất nhẹ việc làm gương. Nhiều khi lời dạy và việc làm của người dạy trái ngược hẳn nhau. Vì thế, việc phúc âm hóa và việc giáo dục Kitô hữu không đi đến kết quả mong muốn vì chưa đi đúng tinh thần của Đức Giêsu và Giáo Hội. Cần nhận thức rõ ràng rằng gương sáng có tác dụng giáo hóa hữu hiệu gấp nhiều lần lời dạy: “Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn”. Các nhà phúc âm hóa và giáo dục Kitô hữu nên tránh vết xe đổ của nhưng người Pharisiêu xưa là “nói mà không làm” (Mt 23,3), hay “nói một đằng, làm một nẻo”.

2. Gương yêu thương và hy sinh của Đức Giêsu

Điểm nhấn của bài Tin Mừng hôm nay là gương yêu thương và hy sinh của Đức Giêsu, và lời Ngài yêu cầu chúng ta hãy bắt chước Ngài mà yêu thương nhau: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Gương của Ngài trong việc yêu thương chúng ta là: Ngài yêu bằng những hành động cụ thể, nghĩa là hy sinh thật sự cho người mình yêu. Khi yêu ai, người ta có thể hy sinh cho người ấy thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc, cơ hội, tình cảm khác, v.v… Nhưng hy sinh cao độ nhất là hy sinh chính mạng sống mình: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Đức Giêsu đã thực hiện chính sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,6.8; x. Ep 5,2; 1Ga 3,16). Không ai thật sự yêu thương mà lại không sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu. Ai nói mình yêu thương mà lại không muốn hy sinh, kẻ ấy nói dối, hay tình yêu của kẻ ấy chỉ là thứ môi miệng.

Như vậy, một trong những lý do quan trọng khiến chúng ta phải yêu thương nhau, đó là chính Thiên Chúa và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).

3. Yêu thương nhau bằng cách làm gương sáng cho nhau: gương tốt nhất là gương yêu thương nhau

Người yêu thương đích thực thì sẵn sàng hy sinh bất kỳ điều gì mà người mình yêu cần đến. Điều mà người mình yêu cần đến có thể rất khác nhau, tùy theo mỗi người và theo từng trường hợp cá biệt. Để hy sinh, để thể hiện tình yêu một cách thích hợp, chúng ta cần phải tìm hiểu xem người mình yêu cần những gì, và cần gì nhất. Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người không trừ ai. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem con người thời nay, nhất là những người chung quanh ta, cần gì nhất.

Trong vô số những nhu cầu tinh thần cũng như vật chất, điều mà con người cần nhất là được cứu rỗi; nói cụ thể và chi tiết hơn là tin vào Thiên Chúa, đồng thời biết sống xứng đáng với phẩm giá của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa để nhờ đó được hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, người yêu thương tha nhân cách sáng suốt là người biết quan tâm tới sự cứu rỗi của họ, nghĩa là chẳng những giới thiệu cho họ biết Thiên Chúa, tin Đức Giêsu, ý thức phẩm giá cao quí của mình, mà còn giúp họ sống cho xứng với phẩm giá cao quí ấy.

Để sống xứng với phẩm giá cao quí ấy, không gì tốt cho con người bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Ngài đã chia sẻ hay thông phần cho họ: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Mà điều cốt yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8.16). Vì thế, sống yêu thương – yêu Thiên Chúa và tha nhân – chính là thực hiện bản chất cao quí nhất của con người, là sống xứng với phẩm giá của con người là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều mà con người cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Chính vì thế, Đức Giêsu chỉ truyền cho con người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17; x. Ga 13,34-35; 15,12; 1Ga 3,23; 2Ga 1,5). Vào ngày chung thẩm, Thiên Chúa chỉ căn cứ vào một điều duy nhất để phán xét chúng ta, đó là tình yêu của chúng ta đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46).

Vì thế, tìm cách làm cho những người chung quanh ta yêu thương nhau, hy sinh cho nhau, chính là làm cho họ được cứu rỗi. Và không cách nào hữu hiệu để giúp họ yêu thương nhau cho bằng chính ta làm gương sáng cho họ về điều ấy. Nghĩa là ta không chỉ dạy họ yêu thương nhau và yêu thương mọi người, mà chính chúng ta phải thật sự gương mẫu trong việc yêu thương mọi người và yêu thương chính họ (những người ta dạy dỗ). Phải sống làm sao để có thể nói được tương tự như Đức Giêsu, chẳng hạn: “Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương tôi, nên tôi cũng yêu thương anh chị em như vậy… và anh chị em cũng hãy yêu thương nhau giống như tôi đã yêu thương anh chị em”. Tình yêu của ta đối với mọi người phải là tấm gương để mọi người nhìn vào đấy mà yêu thương nhau.

Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức Giêsu đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi người và bùng cháy lên: “Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ay đã bùng lên!” (Lc 12,49). Lửa ấy có bùng lên hay không, điều ấy tùy thuộc vào mỗi người chúng ta có lửa ấy trong tâm hồn mình hay không, và có biết truyền lửa ấy đến tâm hồn những người chung quanh ta hay không!

Cầu nguyện

Lạy Cha, Cha và Đức Giêsu đã yêu thương con vô bờ bến, xin cho con cũng biết yêu thương mọi người chung quanh con bằng những hy sinh cụ thể về thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc, cơ hội… Xin cho mọi người chung quanh con cảm nghiệm được tình yêu chân thật của con dành cho họ, để chính họ cũng bắt chước con mà yêu thương nhau.

 

 

 

 

 

59. Yêu như Chúa.

 

“Con chim trước khi chết thì cất tiếng hót bi thương; con người trước khi chết thì lời nói rất chân thật”. Điều này chúng ta có thể lấy Chúa Giêsu làm bằng chứng. Trong bữa tiệc ly, trước khi ra đi chịu chết, Chúa đã nói với các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Một trong những chỉ thị ấy coi như bao hàm mọi chỉ thị khác là “anh em hãy yêu thương nhau” trong bài Tin Mừng hôm nay.

Luật cũ trong Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”. Nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu bản thân tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Đó là mức yêu thương cao độ lắm rồi, nhưng vẫn còn giới hạn và chưa loại trừ được hết những động lực vị kỷ. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và Ngài đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Đó là Ngài dạy: hãy yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Chúng ta không chỉ lấy chính mình làm tiêu chuẩn: yêu người như mình, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn và kiểu mẫu; yêu người như Chúa yêu. Chúng ta phải yêu như Ngài đã yêu.

Chúa đã yêu như thế nào? Cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã yêu thương tất cả mọi người và mỗi người một cách thiết thực và yêu thương cho đến cùng. Ngài không để ai về tay không mỗi khi họ đến với Ngài: người mù được sáng, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, người mẹ mất con được lại con, người chị mất em được lại em, thậm chí đám cưới đang lúng túng vì thiếu rượu cũng được Ngài cho rượu tràn trề. Ngài quan tâm cả tới nỗi mệt nhọc của môn đệ và đưa họ đi nghỉ dưỡng sức. Ngài quan tâm tới những yếu đuối của họ để sửa dạy và nâng đỡ. Tình yêu của Ngài thiết thực như một người mẹ hiền săn sóc con cái.

Có những người xem ra không xứng đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến họ. Những cô gái điếm cũng có giá trị đối với Ngài. Với những người sống ngoài lề xã hội, những người mà không một ai thèm để ý tới, thì Ngài đã nhìn nhận họ và chuyện trò với họ. Tất cả mọi người trước mắt Ngài đều rat quan trọng. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, cả trong những lúc gặp hiểm nguy. Và cuối cùng, Ngài đã hy sinh đến chết, vì Ngài không muốn và không thể cắt đứt sự yêu thương, đúng như Ngài đã nói: “Tình yêu cao quý nhất la chết cho người mình yêu”.

Tình yêu của Chúa cao đẹp quá, cao quí quá và Chúa bảo chúng ta hãy yêu như Ngài. Thật khó quá, nhưng Chúa truyền chúng ta phải thực hiện bao nhiêu có thể. Xin hãy nhớ câu chuyện cùng lời khuyên sau đây và cố gắng thực hiện: trong một lớp học kia,một thầy giáo bất ngờ ra bài làm cho các học sinh như sau: “Từ nay đến cuối tuần, mỗi em hãy tìm quan sát một loại hoa tầm thường nở bên vệ đường hay ngoài đồng nội. Những bông hoa không được ai để ý và đặt tên cho đàng hoàng, nhưng chỉ được gọi bằng một tên chung là “hoa dại”. Không có giá trị gì cả”. Cả lớp học hăng say thực hiện điều thầy giáo muốn. Mỗi em cầm theo một cái kính lup để quan sát thật kỹ những bông hoa dại. Sau đó từng em đã mô tả những nét đẹp của những bông hoa dại mà các em đã quan sát; và cả lớp đều công nhận: những bông hoa dại bị khinh thường đều có những vẻ đẹp riêng tuyet vời không ngờ được.

Cuối cùng, thầy giáo lên tiếng kết luận: “Các em đã có kinh nghiệm rồi đó. Nếu chúng ta chú ý quan sát, và dành thời giờ để quan sát đi quan sát lại, thì cả vật tầm thường nhất như bông hoa dại kia cũng sẽ xuất hiện vẻ đẹp trước mắt chúng ta. Ap dụng vào mối tương quan giữa người với người, các em hãy nhớ điều này: mỗi người là một kỳ công tuyệt đẹp của Đấng Tạo Hóa. Nét đẹp của mỗi người khác nhau mà chúng ta không thể quan sát cho hết được. Thế nhưng, mỗi người chúng ta không có thời giờ dành cho nhau để tìm hiểu nhau, chúng ta chỉ biết nhau một cách hời hợt bên ngoài. Chúng ta chỉ nhớ ghi nhận những tật xấu, những khuyết điểm, những lỗi lầm… mà quên đi hay không muốn nhìn đến cái hay cái đẹp nơi người chúng ta gặp. Chúng ta không thể có tất cả những gì, những ai chúng ta thích, nhưng hãy yêu thích những gì chúng ta có; hãy yêu mến những ai chúng ta gặp hằng ngày”.

Ước chi những lời nhận định của thầy giáo trên đây thức tỉnh mỗi người chúng ta về mối tương quan của mình đối với anh chị em chung quanh: chúng ta có dành đủ thời giờ để tìm hiểu và nhận ra những điều tốt nơi anh chị em chung quanh hay không? Có phải vì năng gặp mỗi ngày mà chúng ta có thái độ coi thường, không biết tôn trọng không? Có phải vì khó khăn này nọ mà chúng ta không để ý tới hay thờ ơ đối với anh chị em sống quanh chúng ta không? Có phải vì một điều gì đó mà chúng ta né tránh và phủ nhận điều cao đẹp của họ không?

 

 

 

 

 

60. Tình yêu

 

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm vieng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”.

Vị tu sĩ đáp “có chứ”.

Người thanh niên hỏi “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?’.

Vị tu sĩ đáp “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta”.

Người thanh niên hỏi “nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp “Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy”.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi “Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”.

Vị tu sĩ đáp “Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn”.

Người thanh niên chỉ phản ánh lại những lời nói của thánh Gioan “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. (Bài đọc 2).

Tình yêu là điều kiện đầu tiên, để thực sự hiểu biết về cuộc sống, và đặc biệt là hiểu biết về Thiên Chúa. Như cha Zosima nói trong cuốn sách Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky “Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mỗi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiem có trong tất cả mọi sự”. Van Gogh đã nói một câu tương tự: Cách thức tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương nhiều thứ. Hãy yêu thương bạn bè, vợ con…, và bạn sẽ được đi trên đường lối đúng đắn trong việc nhận biết Thiên Chúa”.

Tình yêu là người giáo viên tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng tình yêu không đạt được sự hòa hợp riêng của nó. Người ta phải trả giá đắt cho tình yêu. Tình yêu thường đòi hỏi nhiều năm tháng kiên trì, qua những công việc lặt vặt, trước khi người ta có thể đạt được khả năng biết yêu thương.

Có một khoảng cách lớn, giữa việc nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người. Không biết yêu mến, có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta biết yêu mến, thì khoảng cách này được lắp đầy. Biết yêu mến, có nghĩa là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa; ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có tình yêu. Sự nhận biết không phải la chứng tỏ hoặc giải nghĩa.

Ghen ghét là một điều tồi tệ. Ghét bất cứ thứ gì cũng đều là xấu xa cả. Thật là điều tốt đẹp, khi yêu mến tất cả mọi sự, ngay cả một bụi hoa hồng. “Đối với tôi, tôi hài lòng được trở thanh một người làm vườn, một người biết yêu quí những cây cỏ của mình” (Van Gogh).

Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Tuy nhiên, để được như vậy, trái tim phải ngay thẳng. Nếu chỉ có được một trái tim ngay thẳng, thì chúng ta có thể hiến tặng nhiều hơn nữa. Nhưng than ôi! Nhiều khi trái tim con người lại thờ ơ lạnh lẻo, đôi khi còn trống rỗng, tan vỡ nữa. Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này. Tất cả điều đó nói lên rằng chúng ta có một trái tim bằng máu thịt, chứ không phải là bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương của trái tim, để co khả năng tạo ra được những hoa quả của tình yêu.

Khi chúng ta biết yêu thương, thì hình ảnh của Thiên Chúa đạt mức độ tươi đẹp nhất và rạng ngời nhất nơi chúng ta.

 

 

 

 

 

61. Suy niệm của Giuse Hoàng Hải Đăng, OP

 

Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em

Cộng đoàn thân mến!

Yêu và được yêu là hai nhu cầu sâu thẳm nơi con người. Chính vì thế, yêu là từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng cũng là từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Bởi chưng, con người hiểu những từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ xác thịt. có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu là thuộc cảm tính. Và để hiểu rõ bản chất của tình yêu, một tình yêu đích thực, chúng ta hãy ngụp lặn sâu trong dòng sông huyền diệu của Tin Mừng theo thánh Gioan ngõ hầu nhận ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó chính là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Đây chính là những lời tâm huyết của Đức Kitô đã nói với các môn đệ trước giờ tử nạn.

Tình yêu của Thiên Chúa đã được thể hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo trong Đức Kitô. Đó là tình yêu hoàn toàn nhưng không. Tình yêu ấy cao cả đến nỗi Thiên Chúa đã trao ban Con Một của Người (Ga 3,16). Thiên Chúa không phải chỉ trao ban một món quà hay một cái gì ngoài mình nhưng là trao đi một điều gì đó thân thiết và quý báu nhất của mình. Và điều quý báu đó chính là Đức Giêsu Kitô, người Con Một của Người. Khi trao ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho ta chính bản thân Người. Người chấp nhận Con Một của Người phải chết trên thập giá để chúng ta được sống. Một tình yêu không hề biết giữ lại cho mình điều gì dù có quý giá đến đâu.

Bên cạnh đó, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là tình yêu của sự chia sẻ, của sự quên mình và mong muốn hanh phúc cho người mình yêu “ để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Tình yêu này lan toả đến hết mọi người không phân biệt tốt xấu cũng như không loại trừ ai dù lành hay dữ.

Và đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa chính là sự từ bỏ. Người đã tôn trọng quyền tự do của chúng ta, mặc dù Người không muốn chúng ta phải chịu cảnh trầm luân đời đời. Nhờ đó, chúng ta có đầy đủ tự do để có thể tin hoặc không tin, có thể chấp nhận hay từ chối quà tặng của Thiên Chúa, và có thể mở ra hay khép lại trước sự sống đã được Thiên Chúa trao ban.

Tình yêu Thiên Chúa là như thế đó. Một tình yêu hoàn toàn như không. Và hơn thế nữa, Người còn chỉ dạy cách thức để chúng ta yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Cách thức đó là “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Người.” (Ga 15,10)

Và khi đã ở trong tình yêu của Người, trái tim của chúng ta sẽ hoà chung nhịp đập với nhịp đập của trái tim Người. Nhờ đó, những tâm tư, hành động của chúng ta sẽ rập khuôn theo những tâm tư, hành động của Người và ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người hơn. Khi ấy, tình yêu của chúng ta được nên trọn vẹn. Một tình yêu có đôi tay để ân cần giúp đỡ người khác, có đôi chân để vội vã đến với người nghèo, kẻ cần sự giúp đỡ; có đôi mắt để thấy nỗi đau khổ và những mong muốn, khát vọng của kẻ khác; có đôi tai để nghe nỗi thống khổ của đồng loại. (Thánh Âutinh)

Và khi đã yêu thương như thế, chúng ta sẽ sống với trái tim cởi mở, không còn giới hạn, không còn loại trừ nhau và đón nhận những bất toàn, khác biệt nơi anh em mình với sự tôn trọng. Một khi chúng ta đón nhận những cái khác biệt của nhau tưc là đã có cái nhìn tôn trọng và thông cảm đối với con người, đã đi sâu vào tận cõi lòng của con người, để hoà chung một tấm lòng, cùng rung động theo niềm vui, nỗi buồn của nhau. Nhờ đó, ta sẵn sàng cho đi mà không chơ đợi sự đáp trả của người khác, nhưng chỉ biết rằng bất cứ hành động yêu thương nào cũng dẫn đến niềm vui cho người đón nhận cũng như cho người trao ban. Khi ấy, chúng ta cảm thấy an vui và hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin gieo vào tâm hồn chúng con lòng quảng đại để chúng con luôn tưởng nghĩ đến tha nhân, biết quan tâm đến những người anh em và biết san sẻ tình thương cho mọi người, để sau này chúng con sẽ gặt được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa. Vì lạy Chúa, chính Người là tình yêu, là kho tàng quý giá nhất đời con.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con dấn thân hy sinh, phục vụ cho tha nhân, xin Chúa cũng dạy chúng con biết dùng những lời nói yêu thương, cử chỉ trìu mến mà an ủi nâng đỡ và khích lệ họ. Vì có như thế, mới chứng tỏ chúng con thực sự yêu họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

62. Tình yêu

 

Trong một ngôi làng tại dãy núi Alp ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không hề có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dành một tình cảm đặc biệt cho ngôi nha thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân? Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện như sau:

Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở lên hiếm hoi.

Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình phải nuôi cả một gia đình”. Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.

Đồng thời, người anh cũng có cùng một tư tưởng đó, và tự nhủ “Thật không công bình khi sản phẩm bằng nhau. Mình có cả một gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.

Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời “Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện của Ta”.

Nếu không có tình yêu, thì mục đích các cuộc sống là gì? William Blake đã nói một câu như sau: “Chúng ta được đặt để vào trong trái đất này một không gian nhỏ bé, để chúng ta có thể học hỏi được việc mang lại những tia sáng của tình yêu”.

Nhưng chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó. Một lò sưởi không thể tỏa ra sức nóng, trừ phi nó đã được đón nhận sức nóng từ trước đó. Điều này cũng đúng cả với Đức Giêsu. Người nói với các môn đệ của Người “Như Cha Ta đã yêu mến Ta, nên Ta cũng yêu mến anh em”. Tình yêu mà Người chia sẻ một cách quá quảng đại cho các môn đệ của Người, và cho mọi người nói chung, chính là tình yêu mà Người đã đón nhận từ Chúa Cha, Đức Maria, Thánh Giuse và cả những người khác nữa.

Không phải là một dấu hiệu yếu đuối, khi thừa nhận rằng người ta cần đến tình yêu. Chúng ta nên nhìn nhận và biết ơn vì tình yêu mà chúng ta đã được đón nhận. Chúng ta không cần phải tìm kiếm tình yêu đó, bởi vì có liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Người yêu thương chúng ta, không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng chỉ vì Người là Đấng nhân lành. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình yêu của Thiên Chúa. Tất cả điều mà chúng ta phải làm là đón nhận tình yêu này, và rồi cố gắng chia sẽ tình yêu đó cho những người khác.

Được yêu thương nghĩa là có hạnh phúc. Tình yêu làm cho cuộc sống trổ sinh hoa quả. Khước từ tình yêu nghĩa là bắt đầu chết. Khi yêu là bắt đầu sống. Ít người nào có cơ hội bày tỏ tình yêu của mình với người khác bằng cách chết đi cho họ. Nhưng tất cả mọi người đều có cơ hội sống cho người khác.

Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy cho chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.

Có một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin khoan để con chết đi, bởi vì con chưa yêu đủ”. Đây là một lời cầu nguyện mà chúng ta nên đọc cho bản thân mình.

 

 

 

 

 

 

63. Tình yêu.

(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

 

Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo Đức và hỏi:

– Ngài có tin Thiên Chúa không?

– Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.

– Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?

– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.

– Nhưng làm sao mà cảm nhận được như thế?

– Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.

Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp:

– Xin ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?

– Bằng cách thực hiện những việc yeu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa va sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.

Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: “Anh em thân mến, chúng ta hãy thương yêu nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.

Thực vậy, tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.

Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.

Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì vực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý: Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.

Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương. Tuy nhiên, để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu.

 

 

 

 

 

64. Yêu thương.

(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)

 

Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề “Túp lều bác Tôm” kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ong chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được các giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm dọa sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.

Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Trong câu này, có ba chữ then chốt, là: yêu thương, nhau, và như.

. Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.

. Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai? Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, ngươi này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau này theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bè bạn thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nưa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?

. Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là ban hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã yêu thương.

Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:

. Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.

. Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yeu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó.

Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Theo lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.

 

 

home Mục lục Lưu trữ