Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 76
Tổng truy cập: 1373121
NIỀM TIN
NIỀM TIN
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:
- Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
Vị mục sư cười và trả lời:
- Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.
Viên sĩ quan hét lên:
- Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.
Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:
- Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:
- Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.
Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng”.
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử Đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: “Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó”?
59. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ các Thánh tử đạo Việt Nam (được gọi là lễ Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo) ấn định trong niên lịch phụng vụ vào ngày 24 tháng 11 mỗi năm, và Hội Đồng Giám mục quyết định dời lễ kính vào ngày Chúa Nhật liền trước hoặc liền sau ngày 24 tháng 11, để giáo dân có dịp tham dự dễ dàng.
Thực ra việc kính Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo bao gồm việc kính tất cả 117 vị tử đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 Linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người tây Ban Nha (6 Giám mục và 5 Linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 Giám mục và 8 Linh mục).
Thánh Anrê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai vị Thánh tử đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh tử đạo sau cùng là giáo dân Phêrô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các bạn tử đạo với Thánh Anrê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh tử đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).
Tất cả các vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời.v.v. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường.
Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nhge hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.
Sau ba tháng tù tại Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông.
Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
Bà Thánh Inê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là:
“Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.
Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa.
Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:
“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.
Năm ông Đaminh Nhi, ông Đaminh Mạo, ông Đaminh Nguyên, ông Anrê Tường, ông Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng cá ông Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao;
“Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”
Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.”
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê Trọng đã đến đón convà theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con.”
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn:
“Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà nhưa lấy kỷ vật đó là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con bà, cho bà.
Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:
“Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”
Rồi bà đem về an táng trong nhà.
60. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
Mt 10,17-22
Làm chứng cho đức tin
Đoạn Tin Mừng Mt 10,17-22 mà chúng ta vừa nghe rất phù hợp với hoàn cảnh của các thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài đều đã trải qua kinh nghiệm bị bắt, bị nộp, bị hạch hỏi trước quan quyền và vua chúa, bị tra tấn, đánh đòn, bị ghét bỏ và cuối cùng là bị giết. Tất cả những đau đớn đó, các ngài đều chịu vì Đức Giêsu Kitô (c.18), vì Danh của Ngài (c.22).
Thử thách quan trọng nhất mà các ngài phải trải qua, đó là bước hay không bước qua thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quí vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân…
Đã có người bước qua, và đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Âu tinh Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đa minh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: "Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển." Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: "Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được." Thánh Tê ô phanô Ven nói: "Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!"
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ, điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.
Không bước qua thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là hai cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thày chí thánh, Đấng đã chịu chết trên thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin, mà còn là chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu bằng một tình yêu lớn nhất: "Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Cuối cùng các vị tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đằng sau cái chết tạm thời. Họ thấy thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt. Trước khi đưa đầu cho lý hình, thánh Micae Hồ Đình Hy, một vị quan to của triều đình, đã thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó ông đứng lên thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc, y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện… Chính cách chết của các vị tử đạo nói với chúng ta nhiều điều. Nó vén mở cho chúng ta thấy đời sống thiêng liêng sâu xa của các ngài, đời sống tin - cậy - mến ở mức độ trổi vượt.
Có những thời điểm quan trọng trong đời vị tử đạo: lúc quyết định không bước qua thánh giá, lúc nghe bản án tử của mình hay lúc gươm kề cổ. Trong những lúc ấy chúng ta thường thấy các ngài can đảm, vững vàng, kiên quyết. Nhưng chúng ta có khi không thấy hết được những cuộc chiến nội tâm, những giằng co đau đớn diễn ra trước đó trong ngục thất. Chính Đức Giêsu cũng đã nếm trải kinh nghiệm này trong Vườn Dầu, khi Ngài đứng trước cái chết gần kề. Thời gian từ khi bị bắt đến khi bị tra hỏi, và bắt bước qua thánh giá, là thời gian lòng tin - cậy - mến chín mùi và trưởng thành. Những đau đớn do tra tấn, những lời mời mọc khéo léo, những đêm tối của đức tin, những khao khát muốn kéo dài cuộc sống: tất cả đều góp phần thanh luyện con người vị tử đạo. Đời sống cầu nguyện trong ngục thất, việc xưng tội rước lễ, lời cầu nguyện và sự nâng đỡ tinh thần của những người bên ngoài, đã giúp cho các vị chứng nhân dần dần dứt khoát trong lựa chọn của mình. Họ trở nên bình tâm, chẳng còn muốn điều gì ngoài Chúa, chẳng còn sợ những gì đe doạ mình. Ơn Chúa thấm vào con người vị tử đạo đến độ họ được mang một sức mạnh kỳ diệu từ trên. Nhờ ơn Chúa, một tạo vật nhỏ bé, yếu đuối, đã làm được điều phi thường này, đó là đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.
Làm chứng cho tình yêu
Khi nói đến các thánh tử đạo, chúng ta thường nghĩ đến những người chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Đó là trường hợp của 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam. Nhưng Hội thánh Công Giáo cũng coi thánh Gioan Tẩy Giả và thánh nữ Gôretti là các vị tử đạo, dù hai vị này chết vì dám nói lên một sự thật hay vì muốn bảo vệ nhân đức trinh khiết. Như thế khái niệm về tử đạo cần được hiểu rộng rãi hơn nữa. Vị tử đạo là người chết vì Đạo, chết vì muốn sống theo con Đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Mác-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê là một thí dụ mới mẻ. Khi phong chân phước cho cha Kôn-bê vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi ngài là vị tử đạo, chỉ coi ngài là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (confessor). Nhưng khi phong thánh cho ngài vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi ngài là vị tử đạo (martyr). Chúng ta ai cũng biết cha Kôn-bê đã bị quân Đức bắt giam trong trại tập trung, và ở đây ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình. Trong bài giảng lễ phong thánh cho cha Kôn-bê, Đức Thánh Cha đã nói như sau: "Cái chết được ngài hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm trọn những lời của Đức Kitô sao? Cái chết ấy lại không làm cho cha Kôn-bê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?"
Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa (Lc 24,48). Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kôn-bê, của mẹ Têrêsa ở Calcutta, của cộng đoàn Taizé bên Pháp, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phục vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn vào cơn lốc hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô cầu?
Làm chứng cho Chúa bao giờ cũng là lội ngược dòng với thế gian. Nếu không gắn bó với Chúa, chúng ta không có can đảm làm chứng cho Ngài. Các thánh tử đạo tổ tiên chúng ta đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến cùng. Chúng ta có bước qua thánh giá không?
Một số câu hỏi gợi ý
1. Nếu các Kitô hữu sống đúng theo Lời Chúa dạy, thì xã hội sẽ trở nên tốt hơn nhiều. Bạn thấy đất nước Việt Nam chờ đợi gì nơi người Kitô hữu Việt Nam? Chúng ta có thể đóng góp gì để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn?
2. Theo ý bạn, sống yêu thương, tha thứ, phục vụ, có phải là cách làm chứng hiệu quả cho Đức Kitô trên quê hương Việt Nam không?
61. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2
(Mt 25,14-30)
Suy niệm.
Trong cộng đồng rộng lớn của Giáo Hội, tôi xin chào thăm đặc biệt anh em Việt kiều quí mến đến đây từ mọi phương trời từ Châu Mỹ và Châu Á, từ Úc Châu và tất cả các nước Âu Châu. Tôi biết anh em đến đây vì muốn tôn kính các vị Tử Đạo của anh em, nhưng cũng muốn tái tạo chung quanh các vị Tử Đạo tình huynh đệ, tình thân hữu, tình yêu thương vốn đầy tràn trong tâm hồn anh em, bởi vì tất cả anh em đều có cùng một tổ quốc quê hương. Khi gợi lại những kỷ niệm của anh em, tức là anh em hướng về quê hương với lòng yêu và lòng thương nhớ, với một ước muốn sống giây phút hiệp thông đầy hy vọng giữa cuộc sống ở hải ngoại này. Khi cùng với anh em tuyên xưng Chúa Kitô chịu đóng đinh, tất cả chúng tôi hôm nay đều muốn cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đặc biệt mà các thánh Tử Đạo này là những người con đông đúc của Việt Nam, hay là những vị thừa sai đã có những truyền thống Đức tin vào Chúa Kitô một cách sâu xa. Truyền thống của anh em nhắc nhở chúng tôi trong lịch sử Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam từ lúc khởi đầu còn bao la và phức tạp hơn nữa. Từ năm 1533, tức là từ khi cuộc rao giảng Tin mừng Kitô bắt đầu từ Đông Nam á, Giáo Hội Việt Nam trong ba thế kỷ đầu đã phải chịu những cuộc bách hại nặng nề nối tiếp nhau, với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội Tây phương đã phải chịu trong ba thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu Tử Đạo và đã có rất nhiều người chết trên rừng núi, trong những vùng rừng thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới. Làm sao có thể gợi hết các vị Tử Đạo ra đây được, và cho dù chỉ được giới hạn vào những vị Tử Đạo được tôn phong hiển thánh hôm nay, chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại nơi một vài con số trong những vị Tử Đạo của họ. Thực vậy, có tất cả 117 vị thánh Tử Đạo, gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong số này có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con. Chỉ cần nhắc lại đây một, hai khuôn mặt như cha Vicente Dòng Đaminh chịu tử đạo năm 1773, đó là vị đầu tiên trong 96 vị Tử Đạo Việt Nam. Rồi có một linh mục khác là cha Anrê Dũng Lạc, cha mẹ của ngài vốn là những người ngoại đạo và nghèo túng. Từ thuở nhỏ ngài được ký thác cho một thầy giảng và sau trở thành linh mục vào năm 1823, rồi làm cha sở và làm nhà truyền giáo ở nhiều nơi khác nhau tại Việt Nam. Hơn một lần ngài đã được cứu thoát khỏi tù ngục nhờ giáo dân quảng đại nộp tiền chuộc. Ngài nhiệt tình ao ước được chịu phúc Tử Đạo, ngài thường nói những người chết vì Đức tin thì được lên trời, thế mà ta cứ tiếp tục trốn tránh, chi phí tiền bạc để tránh thoát những kẻ bách hại, ta hãy để mình bị bắt và chịu chết thì hơn. Nhờ lòng nhiệt thành và ơn Chúa nâng đỡ như thế ngài đã chịu tử đạo, bị chém đầu tại Hà Nội ngày 21.12.1839. Như vậy hôm nay chúng ta có trước mắt các thánh Tử Đạo Việt Nam là những người theo Chúa Thánh Vịnh đa noi ve cac ngai như sau: "Những ai gieo trong nước mat se gat trong hoan ca, ho đi va khoc nức nở gieo hat giong nhưng trở ve ca hat, tay mang bo lua trĩu hat”: Dưới anh sang cua những lời huyền nhiệm này, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của chứng tá lịch sử của các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam đã thực hiện với nước mắt. Họ đã gieo vãi hạt giống Tin mừng và ơn thánh, từ đó đã nảy sinh dồi dào hồng ân Đức tin "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và không nát đi thì không sinh hoa trái, trái lại nếu nó chết đi thì sẽ mang lại nhiều hoa trái (Jn 12,24-25). Trong thực tế khi gieo trong nước mắt, các vị Tử Đạo Việt Nam đã khởi sự công cuộc đối thoại sâu xa và có tính cách giải phóng đối với dân tộc và văn hoá quốc gia Việt Nam, họ rao giảng trước mặt mọi người tính cách chân thực và phổ quát niềm tin vào Thiên Chúa. Và hơn nữa, các vị đề ra các giá trị và các bổn phận đặc biệt thích hợp với nền văn hóa tôn giáo của tất cả miền Viễn Đông. Dưới sự hướng dẫn của cuốn giáo lý đầu tiên, các vị Tử Đạo đã làm chứng rằng "Cần phải thờ lạy Thiên Chúa, Chúa Tể duy nhất, một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tác tạo nên đất trời”. Đứng trước sự cưỡng bách của nhà cầm quyền trong việc hành đạo, họ đã xác quyết quyền tự do tín ngưỡng và đã can đảm mạnh mẽ khẳng định trong đạo Kitô là điều duy nhất mà họ không thể từ bỏ được, vì họ không thể bất tuân lệnh vị Chúa Tể Tối Cao là Thiên Chúa. Ngoài ra các vị đã tỏ ý muốn trung thành với các nhà cầm quyền của đất nước, không vi phạm những gì là chính đáng và ngay thẳng, các vị cũng đã dạy phải tôn kính tổ tiên, các tập tục của quê hương mình dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục sinh. Với các vị Tử Đạo của mình và nhờ những chứng tá của các vị, Giáo Hội Việt Nam tuyên tín ý chí và quyết tâm không loại bỏ truyền thống văn hóa và các luật thể chế của đất nước. Trái lại, Giáo Hội đã tuyên bố và chứng tỏ rằng mình muốn nhập thể vào truyền thống, văn hoá đó bằng cách trung thành góp phần vào việc xây dựng tổ quốc một cách đích thực.
62. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Mt 10, 17-22)
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính thánh Anrê Trần Dũng Lạc và các bạn Tử Đạo, hay nói chung là mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài cũng là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, giờ đây cùng nhau chúng ta nghe lời Chúa qua Phúc âm (x. Mt 10, 17-22). Khi kêu gọi mọi người "Hãy Vui Lên", các giám mục đã mời gọi từng giới, từng thành phần trong dân Chúa. Hôm nay chúng ta nghe các ngài ngỏ lời với các cụ cao tuổi và mời gọi các cụ bước vào Năm Thánh như những chứng nhân cho tình. yêu Chúa "Các cụ vui vì lại được sống thêm một Năm Thánh nữa, Năm Thánh 2000” Chúng ta đã có dịp nói với nhau về niềm vui của chúng ta, niềm vui đích thực, niềm vui mà các thánh Tử Đạo đã hân hoan vui mừng khi được đi ra pháp trường. Các giám mục của chúng ta cũng muốn qua các cụ lão ông, lão bà kêu gọi chúng ta vui niềm vui chứng tá ấy. Ở Việt Nam có hội phụ lão, ở bên Mỹ có hội người già trong các cộng đồng Việt Nam, mục đích để giúp các cụ có dịp gặp gỡ nhau, cùng nhau trao đổi và giúp nhau trong cảnh già nua tìm được niềm vui trong những ngày cuối của đời mình, dĩ nhiên là niềm vui thánh thiện nâng cao quí cụ ngày càng được gần hơn đến với Chúa. Chúng ta cũng phải coi chừng vì nhiều khi việc ngồi lại với nhau chẳng những không tạo điều kiện để nâng cao, nhưng lại ghì kéo xuống làm cho chúng ta rơi vào những phù phiếm không lợi ích chi cho mình, đồng thời trở thành gương xấu cho con cho cháu và là gánh nặng cho xã hội. Chẳng hạn ở Việt Nam ngày ngày người ta vẫn thấy ba, bốn cụ già chân nam đá chân chiêu, lai rai hết ly này đến ly khác, gia đình con cháu buồn, người ngoài lắc đầu, tuổi già và niềm vui ấy trở thành gánh nặng cho mọi người. Rồi tại một hội người già trong một Tiểu Bang nọ, các cụ cũng than phiền là có nhiều chuyện không trong sáng giữa các cụ với nhau nên có nhiều cụ ở nhà. Một chương trình truyền hình nọ mời một cụ lão phỏng vấn: xin cụ cho biết cảm tưởng của cụ, niềm vui của cụ vẫn có mỗi ngày trong cuộc sống, kế đó họ xin cụ bí quyết để sống vui. Cụ trả lời rằng: "chẳng có bí quyết gì hết”, nếu có bí quyết gì đi chăng nữa nó cũng dễ như trở bàn tay, như uống nước lã vậy thôi. Đó là khi tôi thức dậy mỗi buổi sáng, tôi chỉ có hai điều để lựa chọn, một là sống an vui hạnh phúc, hai là sống lầm than khổ sở, dĩ nhiên là tôi đã chọn điều thứ nhất. Lạy Cha, chúng con lại có một ngày sống mới, đó là ngày sống mà mọi người trong gia đình như ông bà, cha mẹ và con cháu, tất cả đểu được mời gọi sống niềm vui của Tin mừng, niềm vui ấy nhiều khi chúng con phải sống như các thánh Tử Đạo cha ông chúng con đã từng sống trước đây Xin cho chúng con can đảm và trung thành sống trọn niềm vui ấy. Chúng con cảm tạ Cha cho tuổi già của ông bà, cha mẹ và chúng con cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu nhân danh các thánh Tử Đạo. Amen.
63. Tử Đạo Việt Nam
Cuối thế kỷ 16 đạo Công giáo được rao truyền tại Việt Nam. Tới thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 thì đã có nhiều người Việt Nam được lãnh nhận triều thiên Tử Đạo. Các Ngài là những người đã vì Chúa mà cam chịu mọi cực hình kể cả sự chết. Trong số những vị Tử Đạo này đã có 117 vị được Giáo Hội dần dần phong lên hàng chân phước rồi sau được phong lên hàng hiển thánh. Về việc phong chân phước cho các ngài thì Đức Lêo XIII phong 64 vị, Đức Piô X phong 28 vị, Đức Pio XII phong 25 vị. Tất cả các vị này: gồm 8 Giám mục, 50 Linh mục, 15 Tu sĩ và 44 giáo dân đã được chính Đức đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên hành hiển thánh trong một buổi lễ rất long trọng được tổ chức tại Công trường Thánh Phêrô tại Roma cách đây đúng 10 năm tức là ngày 19-6-1987.
Đi vào chi tiết hơn một chút thì ta thấy trong số 117 vị có 37 Linh mục Việt Nam, 13 Linh mục ngoại quốc dòng và triều. Đáng nhớ hơn cả là cha Vinh sơn Liêm, Cha Phê-rô Nguyễn văn Lựu, Cha Gioan Đoàn trinh Hoan, Cha Philipphê Phan văn Minh nhất là Cha Andrê Trần an Dũng Lạc và Cha Phaolô Lê bảo Tịnh. Có thể nói các ngài là tinh hoa của hàng Giáo sĩ Việt Nam.
Ngay từ nhỏ cha Phaolô Lê bảo Tịnh đã có một đời sống rất đạo đức. Hồi mới được vào nhà trường để được đào luyện thành Linh mục Có lần Thầy đã trốn vào rừng để sống cuộc đời ẩn tu. Sau đó vì vâng lời Thầy đã bỏ chốn ẩn tu về học trở lại. Đang khi theo học khoa Thần học thì thầy bị bắt, bị giam cầm tra tấn gông cùm suốt 7 năm rồi cuối cùng bị đi dầy. Sau một thời gian Thầy được phóng thích. Thầy đã được chịu chức Linh mục sau đó, rồi vì nhu cầu của Chủng Việc Cha Lê bảo Tịnh đã được Bề trên đặt Ngài làm Giám Đốc. Cuộc đời của Ngài rất gương mẫu. Nhưng chỉ được một thời gian thì Ngài bị bắt trở lại, bị tra tấn hạnh hạ thật dã man rồi cuối cùng Ngài bị trảm quyết.
Còn Cha André Trần an Dũng Lạc thì bị bắt đi bắt lại tới 3 lần. Ngài được giáo dân rất thương mến cho nên mỗi lần bị bắt ngài lại được giáo dân chuộc ra. Sau ba lần thì Ngài không để cho chuộc nữa. Ngài vâng theo thánh ý Chúa…can đảm chịu chết để làm gương cho các tín hữu. Có một chi tiết khá đặc biệt là Ngài rất được cảm tình của đám binh lính và lý hình. Trước khi hành hình họ đã thành tâm xin lỗi ngài vì lệnh mà họ phải làm như vậy.
Về phía các Thầy giảng thì chúng ta thấy các ngài cũng không kém anh hùng. Các Ngài cũng rất sẵn sàng chịu mọi cực hình để được làm chúng cho Chúa. Trong số này phải nhắc đến Thầy Phêrô Đoàn cap Văn. Thần Văn đã già. Già nhưng họ cũng không nương tay. Thầy bị gông cùm, bị đánh đòn và bị bỏ đói cho đến chết. Bên cạnh đó có Tôma Trần văm Thiện. Thầy Thiện là mộ chủng sinh dự bị. Thầy quyết một lòng theo Chúa cho đến cùng. Đến khi bị điệu ra pháp trường quan toà còn dùng đủ mọi cách để cám dỗ thầy quá khóa kể cả việc hứa thưởng những bổng lộc lớn lao cho Thầy. Thế nhưng chẳng có gì có thể làm thầy lìa bỏ Chúa. Thầy đã chọn vinh quang nước trời hơn mọi thứ lợi lộc ở trần gian.
Sau cùng là 44 giáo dân Nam nữ ở mọi lứa tuổi thuộc đủ mọi thành phần giai cấp xã hội. Chúng ta hãy nhắc đến một số những tên tuổi đặc biệt. Trần văn Trung là một viên cai đội. Giuse Lê đăng Thị là một chưởng vệ. Giuse Nguyễn huy Mỹ là một lý trưởng. Chính người vợ của Ngài đã khuyến khích Ngài chịu chết để làm gương cho mọi người. Andrê Trần văn Trông là một binh sĩ trẻ. Ngài được chính Mẹ của mình đưa đến pháp trường và sau khi ngài chịu hành hình chính bà đã ôm hôn thắm thiết xác con mình. Việc làm của bà chẳng khác gì việc làm của Mẹ Maria khi Mẹ ôm xác Chúa Giêsu sau khi xác xủa Chúa được đưa từ trên cây Thánh giá xuống. Cũng phải nhắc ở đây một người đàn bà rất đặc biệt đó là bà Inê Lê thị Thành. Người ta vẫn thường gọi là bà Đê. Bà là người có công che giấu các Linh mục tại nhà mình. Khi bị bắt bà đã nhất định không bước qua cây Thập giá dù đã bị tra tấn rất dã man. Cuối cùng bà đã chết ở trong ngục.
Ngoài ra chúng ta cũng thể không nhắc đến một chi tiết này đó là trong số những vị Tử Đạo được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô tuyên phong lên hàng hiển thánh kỳ này có 8 Giám mục ngoại quốc. Trong sắc phong 117 vị tử đạo Đức Thánh Cha đã xử dụng một cụm từ rất chính xác. Ngài nói các vị tử đạo TẠI Việt Nam. Cụm từ đó làm cho các Giám mục ngoại quốc tham dự lễ tấn phong hôm đó rất cảm động. Trong số 8 vị đó thì có 3 vị nổi tiếng hơn cả. Đó là Đức cha Thể, Đức cha Y, Đức cha Xuyên. Đây là những vị mục tử nhân lành đã theo thật sát gót chân Thầy chí thánh hy sinh mạng sống của mình vì đoàn chiên. Đức cha Thể thì chết rũ tù. Đức cha Y thì cũng bị giam trong tù trước khi bị trảm quyết.. Đức cha Xuyên thì bị hình phạt rất man rợ đó là Ngài bị lăng trì….thịt xương bị xẻo bị cắt ra từng mảnh cho tới chết.
Chúng ta cũng nên nhắc lại đây một vụ sát hại thảm khốc xẩy ra ở gần chúng ta. Tôi muốn nói đến vụ thảm sát tại Bà rịa vào ngày 7-1-1862.
Vào năm 1861 số tín hữ tại Bà rịa có vào khaỏng hơn 2000 người. Cuộc sống được yên ổn cho đến tháng 8 năm 1861 nghĩa là cho tới khi quan tuấn vũ Biên Hòa ra chỉ thị cho quan phủ Bà rịa lập danh sách những người có đạo. Sau khi lập danh sách, nhưng người có đạo đếu bị khắc tự ở hai bên má: Một bên thì bị khắc hai tiếng "Biên Hòa", bên kia thì bị khắc hai tiếng "Tả đạo".
Tháng 9 năm đó người ta thấy bốn ngục giam được thiết lập. Đây là ngục dành riêng để giam giữ những người có đạo.
Ngục Dinh (Phước lễ) được lập ngay tại Bà rịa để giam 300 đàn ông.
Ngục Thơm ở Long Kiên gần đó để giam 135 người vừa đàn bà vừa trẻ em.
Ngục Thành ở Long điền cũng để giam vừa đàn bà vừa trẻ em. Số người ở đây là 140 người tất cả.
Ngục cuối cùng là ngục Đất đỏ (Phước thọ). Ở đây người ta giam 125 người cũng vừa đàn bà vừa trẻ em.
Như vậy chỉ tính ở Vùng Bà rịa cũng đã có đến gần 700 người bĩ bắt và bị giam. Cuộc sống bị giam cầm rật khổ. Mùa khô thì còn đỡ, đến mùa mưa thỉ cuộc sống lao tù thật rất khổ. Các tín hữu bị canh giữ nghiêm ngặt, nhiều nơi phải ăn uống và xử lý mọi việc có liên đến đời sống hằng ngày trong cùng một chỗ, rất là mất vệ sinh nhưng không còn cách nào khác. Đối với ba ngục giam giữ đàn bà và trẻ con thì tương đối được dễ hơn một chút.Chính vì thế mà Cha Trí mới có thế giả dạng làm người lái buôn nước mắm để vào tiếp tế cũng như ban các phép Bí tích cho bổn đạo.
Một việc rất không may là cuối tháng 12 năm 1861 thì Biên Hòa thất thủ. Quân nhà Nguyễn phải chạy về hướng Bà rịa. Tại đây họ cũng chỉ cấm cự được đến tháng ngày 7 tnáng 1 năm 1862. Trước khi rút đi họ ra lệnh phóng hỏa thiêu rụi tất cả các trại giam với tất cả những người bị giam ở trong đó. Họ canh giữ một cách rất cẩn thận. Ai đào thoát mà họ bắt được thì sẽ bị chém ngay lập tức. Dịp này trại Dinh bị thiệt hại nhiều nhất. Trong số 135 người bị giam tại đó thì đã có tới 106 người bị chết. Ba trại kia vì là đàn bà con trẻ cho nên những lính canh đỡ khắc nghiệt hơn. Một vài người lính còn nhân đạo hơn. Họ phá cửa cho những người bị giam trong đó được thoát thân. Chỉ trừ có trại Thơm ở Long Kiên là bị hại nhiều hơn cả. Lý do là tên cai ngục ở đó quá tham lam. Ông ta chặn những người ở đó để cướp của.
Tổng kết lại trong thảm họa này số những người giam ở bốn trại bị chết là 288 người. Trong số này có đủ mọi lứa tuổi:
Bà cụ Maria Nở ở Long điền 75 tuổi
Ông Giuse Vệ ở Phước lể cũng 75 tuổi.
Em Micae Giao, Phê-rô Ban, Carôlô Nhỏ ở Long Kiên và Long Điền mới chỉ có 10 tuổi.
Em Madalena Lợi ở Long Kiên và Maria Mới ở Đất đỏ mới chỉ được một tuổi.
Đặc biệt là hai cháu sơ sinh Antôn Trước và Antôn Sau. Đây là hai anh em sinh đôi trong trại Đất đỏ. Các cháu chẳng khác gì các tánh anh hài thời Chúa Giêsu vừa mới Giáng sinh.
Ngày hôm sau tức là ngày 8-1-1862 những nơi bị phóng hỏa chỉ còn là một đống tro tàn với những thi thê các vị tử đạo còn nằm ngổn ngang tại đó.
Cha Hòa và Cha Trí âm thầm lo mai táng cho các ngài. Hai cha đào 3 cái huyệt lớn bên ngục Dinh và an táng các đấng tử đạo trong ba cái huyệt này. Riêng các đấng bị chết ở ba ngục kia thì không có tài liệu nào nói rõ.
Ngày nay tại Bà rịa nơi an táng các ngài người ta vẫn còn thấy một tấm bia trên đó có khắc những dòng chữ này:
Ba trăm bổn đạo xác nằm đây
Những trông sống lại hưởng phúc đầy.
Vì Chúa tù, lao, dư ba tháng,
Cam lòng chịu cháy, chết chỗ này.
Lập mộ cùng táng chung một huyệt.
Giáo nhơn coi đó, nhớ hằng ngày.
Chúng ta là con cháu của các Ngài. Chúng ta hãy noi gương các Ngài.Noi gương yêu Chúa và yêu người. Noi gương can đảm không lùi bước trước những thử thách gian nan. Noi gương hy sinh không màng danh lợi, quyết một lòng trung tín với Chúa cho đến cùng. Lời Chúa nói ngày xưa vẫn còn như mãi nhắc nhở cho mọi người chúng ta:"Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được ơn cứu độ".
64. Tử Đạo Việt Nam
Hôm nay chúng ta vui mừng và cảm dộng mừng lễ các thánh anh hùng Tử Đạo Việt Nam. Việc mừng lễ hôm nay phải làm bộc phát lên trong lòng chúng ta niềm tự hào chan chứa. Chúng ta tự hào vì trong những trang sử của Giáo Hội Việt Nam chúng ta có những trong sử đầy chất anh hùng. Đây là những biến cố có tầm vóc không phải chỉ với chúng ta mà còn cả với Giáo Hội toàn cầu. Chính Đức Thánh Cha Lêô XIII trong sắc phong 64 vị tử đạo Việt Nam lên hàng chân phước ngày 27.5.1900 đã nói:"Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa trong những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội "
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh cũng phát biểu tương tự như thế. Ngài nói: " Từ năm 1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một vai giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới.
I. Sự kiện.
Hôm nay trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, chúng ta vẫn còn thấy hiển lộ ra nhiều dấu tích đau thương nhưng rất hùng tráng này. Một trong các dấu tích sáng ngời nhất đó là Thánh địa Lavang mà mọi người chúng ta đều biết, nơi đây chúng ta mới kỷ niệm 200 năm ngày Mẹ hiện ra với con cái của Mẹ vào một trong những giờ phút đau thương nhất của những người con cái Mẹ trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này. Giờ đây tôi xin dành một ít phút để đi sâu vào một vài khiá cạnh làm nên những trang sử anh hùng đáng tự hào này.
1. Trước hết là thời gian và con số:
+ Thời gian không xa chúng ta lắm. Nó bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888 có nghĩa là chỉ cách chúng ta hơn một thế kỷ và kéo dài gần 3 thế kỷ. 3 thế kỷ ba thế hệ của cuộc sống làm người.
+ Con số người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại này không nhỏ: Lịch sử cho chúng ta thấy những người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại rất lớn.
* Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp.
* 130.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988 cách đây 12 năm.
2. Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được
- Còn một chút nhân đạo như bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói.
- Nhẹ nhàng như bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng vv.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết - tức là bị chặt đầu- bị xử giảo - tức là bị thắt cổ -, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì - phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Xin được dịch ra ở đây một đoạn được viết trong cuốn La Cochin-chine Religieuse về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao.
Ngày 30-11-1835 họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử Ngài.
Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.
Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.
Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ.
Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết.
Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa.
Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất - một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi láy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30-11-1835
Cha chết rồi bọn lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích"
3. Bây giờ tôi xin nói thêm một chút về 117 thánh tử đạo đã được Giáo Hội phong lên hàng hiển thánh. Quá trình này đã được chuẩn bị khá lâu.
* Ngày 27-5-1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị lên hàng chân phước. Đây là lần đầu tiên.
* Ngày 20-5-1906 Đức Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị.
* Ngày 02-5-1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X phong thêm 20 vị nữa.
* Ngày 29-4-1951 Đức Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.
Trong 117 vị được phong chân phước có
8 Giám mục (Giám mục thuộc dòng Đaminh và 2 Giám mục thuọc Hội thừa sai Paris)
50 Linh mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8 thuọc Hội thừa sai Paris
và 5 thuộc dòng Đaminh)
15 thầy giảng
và 44 giáo dân thuộc đủ mọi thành phần xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v..v.
4. Xét theo loại hình phạt thì
* 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất
* 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ.
* 8 vị chết rũ tù
* 6 bị thiêu sinh
* 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh
* 1 bị tử thương và
* 1 bị bá đao
5. Xét về thời gian thì
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm
* 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh.
* 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng
* 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị
* 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức
Kính thưa anh chị em tôi vừa lược lại một số những sự kiện Lịch sử còn in thật đậm trong Lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
II. Bài học.
Bàn về cái chết của Gandhi một con người mà người dân Ấn độ lúc nào cũng kính trọng và coi ông như một vị thánh nhà văn hào Tagore đã viết: "Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn phải nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
1. Bài học thứ 1 có vẻ hơi tiêu cực một chút.
Anh chị em ai có dịp đi thăm cố đô Huế, vào thăm các lăng tẩm đặc biệt là Lăng Minh Mạng Và Tự Đức và nếu chúng ta hỏi những người coi sóc các lăng tẩm về vị trí của những ngôi mộ các vua được chôn ở trong đó thì người ta sẽ cho chúng ta biết sự thật này: Không ai biết họ được chôn tại vị trí nào. Theo truyền thuyết kể lại vì sợ người ta trả thù do lối sống quá tàn ác của mình cho nên những người thân với Minh Mạng và Tự Đức đã phải dùng tới việc "phi tang" bằng cách cho giết hết những người tham dự vào cuộc mai táng hai ông Vua này.
Trong bài diễn văn nổi tiếng đọc tại Hà nội ngày 17/11/2000 ông Bill Clinton, tổng thống Mỹ có nói một câu làm cho mọi người phải suy nghĩ: “Chúng ta không có thể sửa lại được quá khứ”.
Không biết khi con sống Minh Mạng và Tự Đức có thấy được cái sự nhục nhã mà họ để lại sau khi họ qua đời hay không. Những ông Vua mà khi chết còn sợ người ta quật mồ lên để trả thù! Vậy thì sống mà để làm gì?
Chúng ta hãy cố sống thế nào để hiện tại chúng ta đang sống không trở thành một quá khứ tủi nhục cho tương lai mà ngược lại phải trở nên bài học đáng tự hào cho hậu thế như các thánh tử đạo cha ông của chúng ta.
2. Bài học thứ 2: Giá trị của niềm tin.
Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức được giá trị của nó. Phải ở trong những hoàn cảnh Đức tin bị đe dọa con người mới thấy được Đức tin có một gía trị to lớn như thế nào.
Phaolô Mợi bị bắt bị đem ra xử.
Quan nói với Anh: "Anh đạp lên ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
Phaolô Mợi không trả lời.
Quan nói tiếp: " Vậy thì một nén vàng.”
+ Dạ bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
+ Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khoá thì quan lớn phải cho tôi đủ vàng bạc để tôi mua được một Linh hồn khác! Vâng làm sao mà có đủ vàng bạc để mua được một linh hồn!
3. Bài học về lòng trung thành.
Trong một bài diễn văn Hitler đã tuyên bố một câu làm nức lòng các chiến sĩ của ông. Ông nói: "Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ"
Nietszche: "Lao công của các bạn là chiến đấu. Hoà bình của các bạn là chiến thắng"
Victor Hugo: "Đồi Calvaire ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó"
Chính Chúa Giêsu cũng đã có lần tuyên bố: "Nước Trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy"
Còn Nguyên văn Lựu thì nói: "Đạo đã nhập vào xương vào tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được "
Sẽ không có vinh quang cho nhưng ai không chịu chiến đấu.
Sẽ chẳng có chiến thắng cho những ai không dám ra chiến trường.
Sẽ không có phần thưởng cho những ai không chịu hy sinh vì chính nghĩa Nước trời.
Tôi xin được kết thúc bằng một lời tuyên xưng trung thành của thánh Phaolô: " tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.
65. Đừng sợ - Lm. Nguyễn Minh Hùng
Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Nếu có ai giết được linh hồn thì Đấng đó phải là Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Người chỉ cứu rỗi chứ không bao giờ hành hạ con người. Chỉ có con người mới tàn sát nhau thôi. Mà con người dẫu có hành hạ nhau dã man cách mấy, vẫn chỉ là hành hạ nhau trên thân xác. Lời Chúa dạy Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn, trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy vọng của ta vào Chúa Giêsu: Người là Thiên Chúa mà con người còn không tha, thì huống hồ là con người với nhau.
Người Do thái nghĩ rằng, khi giết Chúa Giêsu, họ đã khử trừ được một thứ tôn giáo mới. Và do cái chết thê thảm đó, sẽ làm cho các môn đệ thoái chí, buộc lòng phải giải táng. Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có thể giết được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì họ chỉ có thể giết được thân xác Giêu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người Giêsu ấy, làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng cái thân xác mà họ treo trên cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn: trên dưới 50 tiếng đồng hồ. Bởi vì loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại, đạo Chúa Kitô vẫn không ngừng phát triễn.
Các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy. Một lòng trung kiên kính thờ Thiên Chúa. Sợ Thiên Chúa chứ không sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng khái tuyên xưng đức tin của mình, sẵn sàng dâng hiến mạng sống của mình. Mỗi người chỉ có một thân xác, một hơi thở, một mạng sống, mất đi là không còn có mặt trong cuộc đời nữa. Các thánh tử đạo biết rõ điều đó, nhưng vì đức tin: tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, các thánh không sợ chết, quyết tâm dâng hiến mạng sống để tôn thờ Chúa đến cùng.
Còn vua quan, cũng giống những nhười Do thái trước kia: tưởng giết Chúa Giêsu là xong chuyện. Vua quan tưởng rằng bách hại và giết chết người có đạo là xóa được một tôn giáo mới, nhưng họ cũng lầm y như những người Do thái vậy: chỉ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn người có đạo. chỉ giết được người có đạo chứ không thể giết chính Thiên Chúa của người có đạo. Các vua, các quan càng ra sức bách hại và cấm đạo triệt để bao nhiêu, thì trong hoàn cảnh trốn tránh hết sức khó khăn, đức tin của người tín hữu càng mạnh mẽ, càng kiên vững bấy nhiêu. Gần 3 thế kỷ bắt đạo, có lúc gay gắt, có lúc nới lỏng, thì 3 thế kỷ hãi hùng mà chính nggười Việt Nam sát hại nhau đó, đã giết chết khoản 150 ngàn người Việt Nam Công Giáo. Điều đó chứng tỏ trong khó khăn, đức tin không lùi bước mà sẵn sàng đương đầu với khó khăn đó. Con số 118 vị tử đạo được tuyên phong trên bàn thờ chỉ là một phần nhỏ, chỉ là con số tượng trưng. Ba thế kỷ bắt đạo, đạo Công Giáo không mất mà vẫn tồn tại, và đang phát triển. Cho nên Lời Chúa: Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn đúng vô cùng.
Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo hôm nay, bạn và tôi tự hào vì mình là con cháu các thánh, các thánh là tổ tiên của mình. Tự hào là con cháu các thánh, bạn cũng như tôi càng phải sống đức tin trung kiên như lời Chúa dạy: Anh em đừng sợ. Cái đừng sợ của chúng ta hôm nay đó là ý thức đức tin từ những việc làm hết sức nhỏ nhặt hằng ngày. Ví dụ làm dấu Thánh Giá trang nghiêm. Tôi thử hỏi một điều để mọi người suy nghĩ: mỗi khi vào tiệm ăn, mình có dám tuyên xưng đức tin bằng dấu thánh giá trước khi bưng một tô phỡ hay cầm một dĩa cơm không? Từ những việc xem ra rất nhỏ nhặt ấy lại là hành động tuyên xưng đức tin rất quí giá! Tại sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ bé như thế lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ người ta thấy, người ta biết mình có đạo, sợ người ta cười Những cái sợ không đáng sợ lại là thực tế của người Công Giáo hôm nay. Ngày xưa tuyên xưng đức tin như thế, các thánh đã trả bằng giá máu, nhưng các ngài vẫn kiên tâm, không sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ngày nay có ai giết ta đâu tại sao ta lại không giữ nổi những điều căn bản nhất mà cha ông đã làm? Tôi xin gởi lại câu hỏi này để đánh động lương tâm chúng ta.
66. Can đảm nói không với tội lỗi – Lm. Trần Ngà
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
67. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Chúng ta có thể coi đạo Công Giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16, còn trước đó thì rất mơ hồ. Một vài tác giả cho rằng: các môn đệ của Thánh Tôma từ Ấn Độ theo các tàu buôn đã đến truyền giáo cho người Việt Nam.
Theo Đại Việt Sử Ký thì Sĩ Nhiếp là người thờ kính Chúa Trời, có xây một đền tại dinh của ông. Trong đền này có hình Gia tô thập tự. Ông chết năm 226, thọ 90 tuổi. Tuy nhiên đó mới chỉ là ức đoán mà thôi. Việc truyền giáo chỉ thực sự khởi sắc vào thời hậu Lê thuộc thế kỷ 16, khi các cha dòng Tên theo các tàu đã đến và giảng đạo tại Việt Nam.
Thời hậu Lê, tuy cấm đạo nhưng chưa khắc nghiệt lắm vì hoàn cảnh loạn lạc. Sau đó Tây Sơn đánh đổ nhà hậu Lê, đã ban cho tự do tôn giáo, nhưng không được bao lâu, nhà Tây Sơn cũng ra lệnh cấm đạo. Từ thời hậu Lê cho tới nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian 162 năm, đã có 11 lần cấm đạo, những chưa gắt gao cho lắm.
Nhờ giám mục Bá Đa Lộc giúp đỡ, Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng nhà Tây Sơn, lên làm vua và khởi đầu cho triều đại nhà Nguyễn. Vì thế, vua Gia Long không cấm đạo mà còn bênh vực và nâng đỡ. Có người nói rằng khi gần chết nhà vua đã trở lại, nhưng không có bằng chứng chắc chắn nào cả.
Sang thời Minh Mạng, lúc đầu nhà vua không cấm đạo, nhưng chung quanh nhà vua, toàn những vị quan thù ghét đạo, luôn tìm cách vu khống cho người có đạo, thành thử nhà vua đã ngả theo và ra sắc chỉ cấm đạo trong cả nước.
Thời Thiệu Trị cũng vậy, lúc đầu nhà vua cũng không cấm đạo, nhưng kể từ ngày tàu Pháp tấn công cửa Hàn Tứ tại Đà Nẵng, nhà vua tức giận và đã cấm đạo một cách gắt gao. Nhà vua treo thưởng cho ai bắt được một linh mục Pháp là 30 nén bạc. Công việc chua đi đến đâu, thì nhà vua lâm bệnh và qua đời.
Thời Tự Đức, khi mới lên ngôi, nhà vua tỏ ra rất khoan hồng, mở cửa ngục tù cho giáo dân ra về, hy vọng những ngày đen tối sẽ chấm dứt. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, hoàng hậu và các quan không đồng ý. Vì sợ có chia rẽ, nên nhà vua lại ban hành lện cấm đạo một cách gắt gao, không kém gì các bạo vương Rôma ngày xưa.
Trải qua hơn ba thế kỷ, hằng trăm ngàn người đã phải lìa xa quê hương, sống lén lút nơi rừng thiêng nước độc, để trốn tránh sự truy lùng như những giáo dân vùng La Vang Quảng Trị. Còn những người bị bắt, thì đã phải chịu những cực hình dã man, không kém gì các thánh tử đạo của Giáo Hội trong thời buổi sơ khai. Vậy đâu là những lý do khiến cho vua quan ra lệnh cấm đạo.
Lý do thứ nhất đó là vì óc thủ cựu và hẹp hòi. Họ luôn cho rằng chỉ mình mới tốt và đúng, còn người khác thì xấu và sai. Hơn nữa do ảnh hưởng của Nho giáo, phàm những gì thánh hiền đã nói hay đã viết, đều là khuôn vàng thước ngọc cần phải tuân theo.
Lý do thứ hai đó là vì thái độ giận cá chém thớt. Thuở ban đầu các vua Minh Mạng, thiệu Trị và Tự Đức đều không cấm đạo, nhưng sau đó, vì không ngăn chặn được sự tấn công của người Pháp, nên vua quan quay ra thù ghét những người mà họ cho rằng đã theo đạo của Tây và khép vào tội phản động, nối giáo cho giặc.
Lý do thứ ba, đó là vì cho rằng những người theo đạo không còn tôn trọng truyền thống cha ông để lại, chẳng hạn trong việc thờ cúng ông bà tổ tiên, hiếu kính đối với cha mẹ…Đây cũng chỉ vì óc thiển cận, không tìm hiểu cho thấu đáo, nên đã gây ra những ngộ nhận, những hiểu lầm đáng tiếc.
Tuy nhiên lý do căn bản nhất vẫn là sự đối kháng giữa tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian. Đối kháng như lửa và nước, như ánh sáng và boqng tối. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: Người ta đã bắt bớ Thầy, thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con…Nhưng ai xưng tụng Thầy trước mặt người đời thì Thầy cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự ở trên trời.
Sự bắt bớ, hay nói đúng hơn, sự đối kháng này không phải chỉ xảy ra bên ngoài trên bình diện xã hội, như chúng ta đã thấy, mà còn xảy ra bên trong, trên bình diện nội tâm. Thực vậy, chúng ta luôn cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, để rồi như thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Bởi đó, hãy trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên trong bằng cách thự hiên điều thiện điều tốt, nhờ đó chúng ta sẽ trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên ngoài. Vì ai bền đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu thoát.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam