Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1376269
NIỀM TIN XÁC TÍN
Niềm tin xác tín - Br. Quốc Toản, CRM
Chúng ta sống trên đời này là để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân hầu được phúc hưởng nhan Thiên Chúa Hằng Sống đời sau. Để được thế mỗi người phải chiếu giãi đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Còn gương lành nào chiếu giãi đức tin cho bằng gương của bảy anh em lần lượt chịu tử đạo trước sự chứng kiến của người mẹ can đảm trong Bài Đọc thứ nhất hôm nay? (x. 2Mac 7:1-2; 9-14). Đây qủa là một tấm gương đáng được ghi nhớ muôn đời trong lịch sử nhân loại!
Bảy anh em đã chiếu sáng sự thánh thiện và lòng kiên trì qua sự chấp nhận những tra tấn dã man dưới tay phường vô nhân đạo. Sở dĩ họ chịu đựng được những tra tấn cũng một phần do sự khuyên bảo và khích lệ của người mẹ tràn đầy lòng tin. Đặc biệt hơn nữa là vì họ có một niềm tin xác tín rằng Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của công bằng và yêu thương, Đấng mà họ sẵn sàng hy sinh mạng sống đời này, đã dành cho họ một cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng.
Trải qua hơn hai ngàn năm, hằng triệu Kitô hữu đã hy sinh mạng sống cách anh hùng vì đức tin. Trong số đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Ngày nay cũng có hằng triệu người đang chịu đau khổ và tử đạo liên lỉ vì cùng một đức tin. Tuy nhiên, họ may mắn hơn bảy anh em người Do-thái xưa vì họ có gương lành của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chịu đựng một cuộc tử đạo đau đớn dã man hơn mọi người. Vì thế, một cách nào đó, gương lành của người mẹ và bảy anh em Do-thái đáng được ngưỡng mộ hơn. Nhưng, điều quan trọng là cũng chính một Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ những ơn cần thiết để chịu đựng mọi cơn thử thách, ngày nay vẫn tiếp tục ban cho mọi Kitô hữu những ơn cần thiết để chịu đựng mọi thử thách hầu được hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời với Thiên Chúa Hằng Sống.
Những gương anh dũng của các tiền nhân đều đáng cho chúng ta phải thật sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, là những Kitô hữu, ngưỡng mộ không chưa đủ! Ta cần phải bắt chước và thực hành những gương anh hùng đó trong cuộc sống thường ngày. Theo tự nhiên, ai trong chúng ta khi nghĩ đến những thử thách tra tấn cũng phải giùng mình kinh hãi. Chắc chắn các đấng đi trước cũng vậy. Nhưng, khi cơn thử thách đến thì Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chịu đựng như Chúa đã ban cho các đấng tiền nhân.
Những tấm gương chứng nhân đức tin sáng ngời của các bậc đi trước là một thách đố mà chúng ta có thể áp dụng cho cuộc sống ngày nay. Chúng ta không cần phải hỏi, "Tôi có sẵn sàng chấp nhận những cực hình và cái chết vì đức tin hay không?" Điều chúng ta nên làm là xét xem mình có sẵn sàng và thật sự sống đức tin trong cuộc sống hằng ngày chưa. Nghĩa là chúng ta đã sống tinh thần chịu đựng, hy sinh và can đảm đúng với địa vị của mình hay chưa? Thí dụ: vợ chồng có nhịn nhục, can đảm hy sinh chịu đựng lẫn nhau hay không? Bố mẹ có quan tâm đến con cái và săn sóc, dậy dỗ chúng nên người hay chỉ lo làm ăn đến độ bỏ bê chúng? Con cái có biết vâng lời bố mẹ và chăm chỉ học hành cho giỏi hay chỉ biết đi chơi và phá nghịch xóm làng...v.v.?
Cuộc sống là một chuỗi ngày chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Vì thế, để sống đúng địa vị của chính mình không phải là một chuyện dễ làm đối với bất cứ một ai. Với nhiều người đây chính là một cuộc tử đạo liên lỉ. Nhưng, hãy nghĩ đến hoặc nhìn lại những tấm gương xác tín đã tăng cường sức lực cho người mẹ và bảy anh em Do-thái xưa. Mọi Kitô hữu phải luôn tạo cho mình có một niềm tin xác tín vào Thiên Chúa Hằng Sống như thế.
Nếu chúng ta trung thành với Chúa thì Ngài sẽ thưởng chúng ta. Nếu chúng ta trung thành với giới răn của Chúa thì Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Và nếu Chúa có muốn chúng ta hy sinh mạng sống để làm chứng nhân cho Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc trường sinh trên quê trời. Được thế thì chúng ta đã hoàn tất được mục đích cuộc sống đời này; đó là chiếm được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau với Thiên Chúa Hằng Sống.
32. Suy niệm của Lm. Huy Châu - CRM
Họ là con cái Thiên Chúa giống như các thiên thần
Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm hôm nay có cùng một nội dung: sự sống lại đời sau. Vấn đề sự sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay được nêu lên do nhóm Xađuxê. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu qua về nhóm này: Hai nhóm vị vọng trong dân Do Thái thời Chúa Giêsu mà Phúc Âm thường nhắc đến là Pharisiêu và Xađuxê. Hai nhóm này có nhiều khác biệt. Điển hình là nhóm Pharisiêu chủ trương lo việc tôn giáo, không nhúng tay vào chính trị. Họ tin có sự sống đời sau và có thiên thần. Ngược lại Xađuxê là một nhóm nhỏ nhưng có chỗ đứng trong guồng máy cai trị của người Rôma. Phái Xađuxê không tin có thiên thần và không tin có sự sống đời sau.
Nhìn lại bối cảnh Phúc Âm, có lẽ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự sống đời sau, nhóm Xađuxê cảm thấy "khó chịu" nên muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu và đặt Ngài vào chỗ bí. Câu hỏi họ đặt ra về việc một người đàn bà lần lượt lấy 7 anh em theo luật Maisen có ghi trong sách Đệ Nhị Luật, đoạn 25, câu 5. Họ hỏi nếu người đàn bà đó lấy cả 7 anh em, thì sau khi sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ của ai? Câu hỏi này khi mới nghe thì có vẻ hóc búa và có lẽ nhóm Xađuxê hí hửng vì bắt bí được Chúa Giêsu. Nhưng câu trả lời của Chúa trước hết khiến cho họ bẽ mặt và làm cho câu hỏi đó thật chỉ là câu hỏi có vẻ "trẻ con". Thứ nữa, câu trả lời của Chúa hé mở cho chúng ta thấy "tình trạng" con người được sống lại trên thiên đàng thế nào: trên thiên đàng người ta không sống trong tình trạng vợ chồng nhưng sống như các thiên thần (Lc 20:34-36). Thực sự chúng ta không biết các thiên thần "sống" như thế nào trên thiên đàng nhưng một số điều căn bản chúng ta biết về các thiên thần là các ngài không có thể xác, không lệ thuộc vào vật chất, và các ngài được hưởng kiến nhan Chúa nên được tràn ngập hạnh phúc.
Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy một tình trạng tâm lý tự nhiên là khi người ta được an toàn dư dật trong cuộc sống vật chất và danh vọng thì người ta coi nhẹ hay ít màng tới đời sống tinh thần. Họ thoả mãn với cuộc sống hiện tại, nên việc họ không tin vào đời sống sau này cũng là một điều dễ hiểu. Một điều lạ là ngày nay số người tin có sự sống sau khi chết (life after death) hay linh hồn bất tử tại Hoa Kỳ gia tăng. Nhưng nhiều người chỉ tin một cách mơ hồ nào đó chứ không tin theo lối tin truyền thống của niềm tin Kitô Giáo. Là những Kitô Hữu đích thực, chúng ta cần xác tín một chân lý là đời sống trên thế gian này không phải là đích tối hậu, nhưng là thiên đàng mai sau. Dầu thế, thiên đàng bắt đầu ngay từ đời này. Do đó đời sống hiện tại của chúng ta sẽ quyết định đời sống mai sau.
Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, con người là chiếc cầu nối liền thế giới thần linh (spiritual) và vật chất (material) vì trong con người có cả hai yếu tố: linh hồn và thể xác. Qua con người, thế giới vật chất được nâng lên biên giới của thế giới thần linh (xem God and the World, tr. 89). Như thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng có thể bắt đầu "sống như thiên thần", và nếu chúng ta muốn bắt đầu cuộc sống như thiên thần trên đời này, chúng ta cũng cần phải đặt lại thứ tự giá trị cuộc sống: giá trị tinh thần trên vật chất; đòi hỏi của Phúc Âm và Giáo Hội trên đòi hỏi của nhu cầu tự nhiên; hướng tất cả về đời sống mai sau. Có lẽ chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu dạy: "Được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn mai sau thì được ích gì" (Mt 16:26). Lời Chúa hôm nay, một lần nữa kêu gọi chúng ta lựa chọn: Đời này hay đời sau.
33. Suy niệm của Lm. Nguyễn Công Minh, OFM
KHI SỐNG LẠI, NGƯỜI TA KHÔNG CÒN DỰNG VỢ GẢ CHỒNG NỮA.
Cách đây ít lâu, trong giờ giáo lý về đề tài “Tứ chung, những sự cuối cùng,” dành cho các anh chị sắp theo Đạo… Tôi giật mình khi có một chị giơ tay phát biểu: “Em không tin.” Chả là hôm đó đang nói về đề tài: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”… nên phát biểu “Em không tin” tức là “Em không tin có sự sống lại”.
Không phải chỉ có cô học viên đó mà cả tỉ người hiện nay cũng chẳng tin. Mà không chỉ thời nay, thời đại khoa học kỹ thuật, mà thời xưa, thời Đức Giêsu, cũng đã có không ít người chẳng tin, trong đó có phái Sađốc mà hôm nay Luca ghi lại cho chúng ta hay. Tin xác loài người ngày sau sống lại là một niềm tin khó nuốt nhất của Kitô giáo, của Đạo chúng ta.
Bởi vì nếu tin xác loài người sẽ sống lại, thì cả nghìn câu hỏi sẽ đặt ra mà không giải đáp: Sống lại tất cả chỗ đâu mà ở? Lấy gì mà sống? Lấy xác nào mà sống lại: xác ông già nếu mình chết lúc già, xác trẻ thơ nếu mình chết khi còn măng sữa, xác xồn xồn nếu mình tắt thở tuổi trung niên, hay là xác nào? Hoặc xác không còn một tí gì nữa: hoả thiêu rồi, trở thành bụi mùn theo thiên niên kỷ, hoặc vung vãi tứ tung không thu được thì lấy xác nào mà sống lại? Và khi sống lại rồi như vậy chuyện vợ chồng xưa sẽ ra làm sao? Đúng là cả trăm câu hỏi. Chỉ xin dừng lại ở câu hỏi cuối phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay: khi sống lại chuyện cưới vợ gả chồng sẽ thế nào – nếu như người Sađốc đặt vấn nạn cho Chúa: một bà kia lần lượt lấy 7 anh em ruột. Khi sống lại, bà là vợ của ai, vợ anh cả hay vợ của em út?
Cũng phải cám ơn phái Sadoc vì nhờ một hạch hỏi có vẻ không tưởng của họ: 7 anh em ruột phải lấy một vợ, mà ta có được câu trả lời là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu về sự sống lại sẽ thế nào.
Một vài lần Đức Giêsu có nói về sống lại: Ta là sự Sống lại. Nhưng sống lại sẽ thế nào, thì đây là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu trả lời cho bè Sadoc: khi sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa.
Câu trả lời đầy đủ của Chúa Giêsu là: Con cái đời này mới cưới vợ lấy chồng, chứ những ai xét là xứng đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ lấy chồng nữa, vì họ giống như các thiên thần. Họ là con cái của sự sống lại.
Từ câu trả lời của Chúa, ta thử đặt thành 2 vế:
1. Tại sao khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa? Chúa Giêsu đưa ra 2 lý do:
a) Vì họ không chết nữa. Tai sao không chết lại liên quan tới chuyện hôn nhân? Vì hôn nhân là nhằm sinh con đẻ cái, một hành động kéo dài cuộc sống của mình. Khi mình chết đi thì sự sống của mình sẽ nằm nơi con cái. Nói cách khác, sinh con đẻ cái, cha truyền con nối là muốn mình được sống mãi trong con cái. Bố họ Nguyễn con họ Nguyễn cháu nội họ Nguyễn chắt nội họ Nguyễn, Bố là Ken-nơ-đy, con là Kennedy, cháu cũng Kennedy…. Có con cái thì chết mà vẫn sống.
Vậy khi sống lại, không còn chết nữa thì chẳng cần gì phải kéo dài sự sống nơi con cái, do đó chẳng có chuyện hôn nhân nữa. Nhưng lý lẽ này ít thuyết phục được ai, nên Chúa Giêsu đưa thêm một lý lẽ nữa, đó là:
b) Khi sống lại người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, vì người ta sống như các thiên thần. Chúng ta giải thích thêm: Chúa nói: khi sống lại, người ta sống tựa như các thiên thần.
Chữ “như” ở đây không phải là giống hệt đâu. Bởi vì thiên thần là loài thiêng liêng – và chỉ thiêng liêng mà thôi. Còn con người là thiêng liêng và cả xác thể nữa, dù cho xác đó là xác phục sinh. Con người sống lại vẫn khác thiên thần. Vì thế chữ NHƯ mà Chúa Giêsu nói nhằm đến công việc: như các thiên thần, nghĩa là chẳng còn mải lo chuyện gì khác ngoài việc phụng sự tán dương yêu mến Chúa. Do đó cũng chẳng còn lo chi đến chuyện cưới gả chồng con vợ cái. Để hoá giải những thắc mắc mà trong phần đầu chúng ta đề ra: nào là chỗ đâu mà ở, lấy gì mà sống, hồn nhập xác nào đây, xác Mỹ hay xác Việt, xác già hay trẻ, xác gãy chân cụt tay hay xác lành lặn tươi tốt hay đã tiêu tán ra ma, lấy gì mà nhập lại, thì chữ “như” các thiên thần trong câu trả lời của Chúa giúp ta thảnh thơi.
“Như” có nghĩa là tựa tựa, hao hao. Thiên thần là loài thiêng liêng, sáng láng. Ta sống lại cũng hao hao sáng láng như vậy. Đến đây ta nghe các nhà khoa học – mà là khoa học cao cấp: khoa học nguyên tử lên tiếng về xác sống lại: Họ nói: chuyện xác sống lại không phải là chuyện khó tin vì vật chất và ánh sang có họ gần với nhau.
Khi đạt đến một điều kiện nào đó thì vật chất biến thành ánh sáng (đây là khởi điểm của bom nguyên tử và ánh sáng kết tinh lại là vật chất).
Vậy tại sao chúng ta lại ngạc nhiên, lại khó tin khi theo chương trình của Tạo Hoá: thân xác vật chất của chúng ta sẽ biến thành ánh sáng. Nếu uranium, plutonium huỷ đi, phải vỡ nguyên tử nó ra thì mới biến thành sức nóng năng lượng ánh sáng chói loà được, thì thân xác của chúng ta cũng phải chết đi, huỷ ra, tan ra, mới trở thành thân xác sáng láng vinh quang được. Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã lấy hình ảnh hạt lúa để so sánh với sự sống lại. Hạt lúa có chết đi có huỷ tan mới nảy sinh cây lúa.
Vậy chẳng có gì khó tin khi đến một ngày nào đó thân xác tan rã của chúng ta biến thành thân xác sáng láng tựa như thiên thần.
Ta đã bước vào tín điều khó nuốt nhất: xác loài người sống lại. Nếu xác sống lại cũng giống như xác bây giờ, cũng ăn cũng ngủ cũng lập gia đình… thì quả khó tin; nhưng nếu là xác sáng láng thì lại được, khả tín, có thể tin.
2. Vế thứ hai là vế ngược lại. Từ câu trả lời của Chúa ta mở ra một góc cạnh khác. Nếu khi sống lại trên thiên quốc, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, thì khi đang sống tại trần gian, những người không lấy vợ lấy chồng, họ là ai? Thưa họ là những người sống trước, những người tiên báo cuộc sống phục sinh mai sau. Đó chính là các tu sĩ với lời khấn khiết tịnh, các linh mục với lời hứa độc thân. Cuộc sống của họ minh chứng và tiên báo cho sự sống lại mai sau. Nhưng ngoài họ ra, tất cả những ai đang sống độc thân, tự nguyện hay do cảnh ngộ, những người không lấy ai, hay chẳng ai lấy, những người ở vậy nuôi con và những người không đi bước nữa, họ cũng cách này cách khác sống trước mầu nhiệm phục sinh. Tất cả đều có thể là dấu chỉ cho sự phục sinh mai sau. Vì khi thân xác sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa. Amen.
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM
34. Mất hết cả đời người!
Chiều hôm ấy, một nhà bác học đứng trên bãi biển thấy nước phẳng lặng, trời trong veo, ông liền gọi một ngư phủ lấy thuyền chèo đưa ông ra khơi. Hai người cùng trò chuyện: Nhà bác học hỏi người chèo thuyền có biết đọc không? Người chèo thuyền trả lời: “Không”.
Nhà bác học nói: “Vậy thì anh mất hết nửa đời người rồi, uổng quá! Vì biết đọc sách, người ta sẽ tiếp thu được biết bao điều hay, học thêm được bao nhiêu điều mới lạ”.
Rồi ông bắt đầu kể cho người ngư phủ: nào là lòng sâu của biển cả, nào là tuổi đời cũng như độ bơi của bao nhiêu loài cá. Người ngư phủ thích thú lắng tai nghe. Nhưng kìa, trên vòm trời xanh thấy điểm nhiều mây đen từ đâu bay đến, rồi từng cơn gió mạnh quấy động mặt nước, biển nổi sóng. Gió càng thổi mạnh, mây càng hạ thấp. Người ngư phủ đâm ra lo sợ và báo cho nhà bác học hay một cơn giông tố sắp xảy đến. Nói chưa dứt thì một làn sóng mạnh đã lật úp chiếc thuyền nan của hai người. Người ngư phủ lớn tiếng hỏi nhà bác học:
- “Thưa ông, ông có biết bơi không?” – “Tôi không biết bơi”, nhà bác học trả lời.
- “Thưa ông, thế thì ông mất hết cả đời người rồi!”
Người ngư phủ lại hỏi thêm:
- “Thưa ông, ông có tin đời sau không?”
Nhà bác học vừa lặn hụp chóng chọi dưới làn sóng vừa trả lời:
- “Đời sau là cái gì. Im đi! Để ta chết!”
Nhưng người ngư phủ lại nói thêm: “Thưa ông, thế thì ông chẳng những mất cả đời nầy mà còn mất cả đời sau nữa. Thật vô phúc cho ông!” Một cơn sóng lớn đã cuốn hút nhà bác học vào lòng sâu biển cả.
Thưa anh chị em,
Đời như ví như cuộc vượt biển trùng khơi: có khi phẳng lặng, có khi đầy sóng gió. Trong cuộc đời ấy, có người tin rằng: sau cuộc đời dương thế còn có cuộc đời mai sau. Nhà bác học trong câu chuyện trên đây cũng như những người theo pháo Sađốc trong Tin Mừng hôm nay đại diện cho hạng người không tin có cuộc sống đời sau. Còn người ngư phủ đại diện cho hạng người tin có cuộc sống bên kia cái chết, trong đó có chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Đó là tột đỉnh của niềmhy vọng mà Chúa Kitô đem lại cho chúng ta. Vì nếu không có sự sống lại và cuộc sống đời sau thì tất cả đời người đều vô nghĩa.
Hầu hết các tôn giáo đều nghĩ rằng: chết chưa phải là hết. Con người sau khi chết sẽ được đưa sang một thế giới khác, hoặc được dẫn đến một nơi khác để tiếp tục sống. Nhưng đời sau, đối với họ, là đêm tối, buồn thảm và không có gì hấp dẫn cả. Lý do là vì đó là thế giới của sự chết, của âm phủ.
Các tôn giáo khác có thể tin có sự sống đời sau, nhưng không có tôn giáo nào nói đến sự phục sinh của người chết như kitô giáo. Ngay cả Do Thái giáo, niềm tin vào sự phục sinh của người chết cũng không dứt khoát rõ ràng. Bài đọc I hôm nay trích sách Maccabêô đã nói lên niềm tin nầy: Anh em Maccabêô đã thưa với nhà vua đang định giết hại họ: “Vua chỉ cất mạng sống chúng tôi ở đời nầy, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi là những kẻ đã chết vì lề luật của Ngài, được sống lại trong cuộc sống đời đời ”. Vào thời Chúa Giêsu, người Biệt phái cũng tin như vậy. Nhưng những người thuộc phái Sađốc lại không tin có sự sống lại. Chẳng những không tin mà họ còn chế nhạo những ai tin thân xác con người ngày sau sẽ sống lại. Vì vậy, hôm nay họ kéo đến chất vấn Chúa Giêsu để “chọc quê” Ngài. Vì nếu có sự sống lại của kẻ chết thì sau này một người đàn bàn đã lần lượt lấy bảy anh em làm chồng theo luật pháp, sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu đã giải đáp bằng cách cho họ biết rằng cuộc sống sau phục sinh không phải là một sự tái diễn của cuộc sống trên trần gian. Thân xác phục sinh sẽ là một thân xác được biến đổi, không còn đau ốm bệnh tật, không còn già cả và chết chóc nữa. Những người phục sinh sẽ giống như các thiên thần, không còn cần phải cưới vợ lấy chồng để có con cái nối dõi tông đường nữa.
Chúa Giêsu còn dựa vào Ngũ Thư để chứng minh rằng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống. Nếu Thiên Chúa đã là Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop thì các Tổ phục là những người đang sống với Chúa, đang có sự sống lại. Ở đây, Chúa Giêsu đã không tả rõ sự sống lại như thế nào. Điều ngài muốn khẳng định ở đây, đó là “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống”. Và trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu qua những lời giảng dạy và nhất là qua thái độ của Ngài, Chúa Giêsu đã muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, Đấng làm cho sống. Và ngay cả những người tội lỗi, Ngài cũng không muốn họ phải hư mất, trái lại, muốn họ hối cải để được sống và sốn một cách dồi dào. Những phép lạ chữa bênh hay làm cho kẻ chết sống lại của Chúa Giêsu là những dấu chỉ về một Thiên Chúa yêu chuộng sự sống. Và khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết trên thập giá, đó cũng là để toàn thắng cái chết, và để trả lại cho loài người sự sống đời đời. Chỉ có căn cứ vào những gì chúng ta biết về Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta mới thấy rõ về cuộc sống của chúng ta sau khi chết. Chúng ta sẽ được sống lại với Ngài.
Chính vì Chúa Kitô đã sống lại mà chúng ta xác tín vào sự phục sinh của những người đã chết. “Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop là Thiên Chúa của kẻ sống”. Những người mà chúng ta gọi là đã chết là những người đang sống và sẽ sống đời đời với Thiên Chúa hằng sống. Chối bỏ sự sống lại của những người đã chết là chối bỏ Thiên Chúa hằng sống và chân thật.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Một lời đầy an ủi cho tất cả chúng ta. Đừng thất vọng trước cái chết của một người Kitô hữu, của những người thân yêu chúng ta. Sự chia ly chỉ có trong một thời gian và tất cả sẽ gặp lại nhau. Lúc đó, chúng ta sẽ thấy một tình trạng mới của những người con Chúa là được giống như các thiên thần và nhất là nên giống Chúa Kitô trong vinh quang phục sinh.
Còn sống trên trần gian, chúng ta hãy tín thác vào Thiên Chúa hằng sống. Ngài luôn yêu thương chúng ta và muốn cho tất cả chúng ta, ngày sau sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng một đời sống tốt đẹp hơn, tin tưởng và hy vọng vào Đấng sẽ phục sinh chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc đời đời.
“Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Amen.
35. Can đảm - McCarthy
Có hai loại can đảm. Loại thứ nhất ồn ào, giận dữ và quyết đoán và liên kết với những nơi như bãi chiến trường. Loại thứ hai im lặng, trong sáng và không quyết đoán. Tuy nhiên, nó hoàn toàn không khuất phục và không để nghiêng ngả theo những lời mua chuộc nào cũng như những lời đe dọa khủng khiếp nhất.
Chúng ta thấy một gương sáng của loại can đảm thứ hai trong câu chuyện người mẹ và bảy người con trai. Nhưng có những ví dụ gần với thời đại của chúng ta. Biến cố sau đây đã xảy ra trong một khu Do thái ở Đông Âu trong thế chiến thứ hai.
Nhà cầm quyền Đức chỉ định một người có tên là Ephraim vào chức vụ chủ tịch Hội đồng Do thái. Một ngày kia, họ yêu cầu Ephraim ra đi và suy nghĩ về điều ấy. Cuối cùng, ông trở lại và trình một danh sách cho nhà cầm quyền Đức. Khi họ xem xét danh sách, thay vì thấy ba mươi tên người, họ thấy một tên người nhưng viết làm ba mươi lần. Đó chính là cái tên Ephraim.
Ephraim biết rằng khi làm điều đó, ông đã ký án tử hình cho mình. Tuy nhiên ông đã từ chối phản bội bất kỳ anh chị em nào của mình, trước sự can đảm như thế người ta cảm thấy nghèo nàn.
Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng sợ hãi và can đảm loại trừ nhau. Nhưng không phải thế. Lòng can đảm không phải là luôn luôn không sợ hãi. Nó sợ hãi và vượt qua sợ hãi, hoặc tiến hành bất chấp sợ hãi. Nelson Mandella nói: “Tôi học được ý nghĩa của lòng can đảm từ các bạn của tôi trong chiến đấu. Nhiều lần, tôi đã thấy những người đàn ông và đàn bà chứng tỏ một sức mạnh và sự hồi phục thách thức trí tưởng tượng. Tôi đã hiểu rằng lòng can đảm không phải là sự vắng mặt nỗi sợ hãi mà là chiến thắng nó. Người can đảm không phải là người không cảm thấy sợ hãi, nhưng là người thắng nỗi sợ hãi ấy”.
Xác tín mình đang làm điều phải sẽ cho chúng ta một sức mạnh to lớn. Chúng ta hành động vì điều thiện hảo sâu xa nhất ở trong chúng ta – vì hình ảnh của Thiên Chúa trong lòng chúng ta.
Như thế, lòng can đảm là một nhân đức quan trọng bởi vì không có nó, bạn không thể kiên trì thực hành một nhân đức nào khác. Tuy nhiên, thế giới không cần có quá nhiều điều này trong đời sống mỗi ngày của nhiều người khi chúng ta nghĩ đến những nỗi đau khổ mà họ chịu đựng và những nhọc nhằn mà họ gánh vác. Lòng can đảm không to tát như khi leo núi cho bằng khi chấp nhận thất bại mà không mất tinh thần.
Mỗi Chúa nhật, chúng ta kết thúc kinh tin kính với những lời: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Tin vào đời sau là một trong những niềm tin quan trọng nhất của Kitô chúng ta. Không có đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian này là một cuộc hành trình không dẫn đến một nơi nào cả. Với đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian là một cuộc hành trình đến miền đất hứa của đời sống vĩnh cửu.
Hy vọng là một phần quan trọng của đời sống. Nếu cơ thể cần có lương thực, thì tinh thần cần có hy vọng. Chúng ta dành phần lớn cuộc đời mình để chờ mong, hy vọng và khát khao một điều này hoặc điều khác. Nhưng chúng ta biết rằng thế gian này không bao giờ có thể làm đầy những hy vọng và khát khao sâu thẳm nhất của chúng ta. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được điều ấy.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chết mà để sống đời đời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Viễn cảnh rực rỡ của sự sống vĩnh cửu phải làm cho chúng ta có thể sống vui vẻ mầu nhiệm thân phận mỏng giòn của con người vì nó nằm lơ lửng giữa đất và trời, giữa thời gian và vĩnh cửu, giữa hư vô và vô tận.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam