Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1373534

NIỀM VUI NẢY SINH TỪ SỰ XẺ CHIA

Niềm vui nẩy sinh từ sự xẻ chia

(Suy niệm của Lm Antôn Hà Văn Minh)

Tin Mừng Mt 20, 1-16: Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.)...

***

SUY NIỆM

Anh chị em thân mến,

Mấy ngày qua ở Việt Nam chúng ta người ta đang bàn tán nhiều về hình thức đầu tư BOT, và gần đây nhất là Hội phụ huynh học sinh như là nhóm lợi ích, và đang gây ra bao bất bình trong xã hội. Nhóm lợi ích đã tạo ra một thế lực để chi phối chính quyền, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. Lợi ích nhóm chỉ nhắm quyền lợi của mình, họ không quan tâm đến thiện ích của người khác, và cũng chẳng màng chi đến nhu cầu của tha nhân. Họ sống ích kỷ và lòng ngập đầy sự tham lam. Nhóm lợi ích đó không chỉ xuất hiện trong thời đại hôm nay, nhưng nó đã hiện diện lâu đời, đó là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói tới: lợi ich nhóm trong cộng đoàn Giáo Hội, điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đó là “tệ nạn xấu nhất đập vào Giáo Hội ngày nay”.

Được ông chủ mướn vào làm vườn nho, họ nghĩ rằng họ có đặc quyền được hưởng lương bổng theo ý họ, chứ không theo điều đã thoả thuận. Việc thoả thuận ban đầu chỉ là điều kiện để họ hình thành nhóm, và khi đã bước được vào vườn nho họ muốn thao túng, vì thế họ không chấp nhận việc ông chủ trả lương cho người đến sau bằng họ, và điều đó cũng có nghĩa, họ chỉ nghĩ đến lợi ích của họ và không muốn chia sẻ lợi ích cho ai. Họ đã giết chết khả năng tương giao với tha nhân, tâm hồn trở nên khô cứng để có thể nhận ra rằng, cuộc đời chỉ tràn đầy ý nghĩa khi cuộc sống biết xẻ chia, biết quan tâm đến người khác. Một lối sống ích kỷ như thể chỉ có thể đem đến cho họ sự cô đơn cùng cực. Bởi cuộc đời chỉ có niềm vui khi cuộc đời biết kiến tạo mối tương giao với tha nhân.

Quả thật, Giáo Hội cũng đang nhức nhối bởi những thái độ ích kỷ, thiếu cởi mở và xẻ chia của những người con của Giáo hội, những người con luôn tự hào về công trạng đóng góp của mình trong việc xây dựng Giáo hội, họ đang bóp nghẹt sức sống của Tin Mừng, một sức sống đến từ lòng bao dung độ lượng của Thiên Chúa. Trong chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Philippines vào trung tuần tháng 1-2015, một em bé đã hỏi Đức Thánh cha: Tại sao Chúa lại để xảy ra sự dữ như thế, và tại sao ít  có ngừơi giúp chúng ta? Một câu hỏi đắng lòng, tại sao lại có quá nhiều người chịu khổ đau vì bất công trong một thế giới bước vào kỷ nguyên với nhiều thuận lợi và tiện ích cho con người? Thưa, bởi vì chủ nghĩa hưởng thụ, thực dụng đang khuynh đảo và làm xói mòn những giá trị nhân văn trong mối tương quan giữa người với người. Người ta chỉ còn quan tâm đến quyền lợi cá nhân và dần hình thành một lối sống vô cảm trước người khác. Sự vô cảm đó đang làm cho cuộc sống xã hội mất đi mối thâm giao và trái tim con ngừoi đang dần hoá đá. Nhà văn Helen Adams Keller đã nhận xét: “Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, đó là sự vô cảm của con người”.

Vì lợi ích của một nhóm, của một cá nhân, chúng ta đang đánh mất dần mối tương giao để nối vòng tay lớn. Khi chủ trương toàn cầu hoá người ta có tham vọng đưa con người lại gần với nhau, chia sẻ thiện ích cho nhau, thì điều ngược lại đã xảy ra thay vì mang đến cho nhau những cái hay tốt, thế giới lại ngập tràn một lối sống vô cảm  và  làm cho thế giới này đang khép dần các con đường dẫn tới sự gặp gỡ để xẻ chia, để yêu thương, và điều tệ hại nhất là con đường dẫn tới để gặp gỡ Thiên Chúa cũng bị bịt kín . Đó chính là nguyên nhân để sự dữ hoành hành khắp thế giới, và cuộc sống con người bất an.

Vâng, chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới có thể kiến tạo được sự bình an, bởi Ngài là Đấng giàu lòng từ bi và nhân ái, Ngài đã không để một ai đứng thất nghiệp ngoài đường. Ngài thấu hiểu nỗi lòng của những con người đang đới diện với nhiều âu lo. Kìa là người cha đang lo kiếm cơm gạo nuôi sống gia đình, kìa là ngừoi mẹ đang bươn chải để lo cho con có được cuộc sống ấm no, kìa những người khốn khổ đang lo âu cho cuộc sống… Tất cả đều được Chúa quan tâm, mỗi ngừoi đều được Chúa đói xử như nhau, kẻ làm từ giờ thứ ba tới giờ thứ 11, Người không tính sổ chúng đã làm bao nhiêu giờ, Ngài chỉ tính toán làm sao cho chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc. Thiên Chúa là thế đó, và vì thế chỉ có nơi Ngài chúng ta mới có thể tìm thấy được bình an. Một sự bình an được nẩy sinh từ tình yêu hướng tha, không quy ngã , một tình yêu biết chia sẻ, chứ không thu quén cho riêng mình. Và như thế sự bình an luôn được đâm chổi nẩy lộc trong mối tương giao đầy ắp tình người, từ con tim đến con tim.

Có câu chuyện kể rằng, ở một ngôi làng nọ có tục lệ khi một người trong làng tổ chức lễ cưới và người được mời khi đi dự tiệc cưới không cần mang gì hết ngoài một xị rượu, Tại cửa tiệc cưới người ta đặt sẵn một cái chum để khách dự tiệc cưới đổ rượu mà họ mang tới vào đó. Và khi tiệc cưới bắt đầu chum rượu được bưng vào, và khách dự tiệc sẽ uống rượu mà họ đã mang tới và đã được đổ chung vào với nhau. Thật tuyệt vời về sự chung chia niềm vui tiệc cưới. Nhưng thật kỳ lạ, khi mọi người cùng nếm rượu thì chẳng thấy mùi rượu đâu cả, mà chỉ toàn là nước lạnh. Điều gì đã xảy ra, thưa bởi vì khách được mời đều nghĩ rằng cả chum rượu thì một xị nước lã của mình thì ăn thua gì. Và thay vì mang rượu, họ đều mang nước lã, và kết quả là tiệc cưới không còn có niềm vui, không có nụ cười và chỉ còn là những tiếng hờn trách giận dỗi.Thật buồn, phải không anh chị em. Đó là hậu quả của thói ích kỷ, thiếu sự hiệp thông xẻ chia.

Lạy Chúa, chúng con khao khát có được cuộc sống bình an, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm sự bình an đó trong sự quan tâm đến tha nhân, biết sống quảng đại và bao dung, để không tị hiềm ganh tương. Vâng, lạy Chúa xin cho chúng con biết hành động như Chúa để chúng con biết kiếm tìm niềm vui trong sự xẻ chia. Amen.

 

22. Đấng nhân lành

"Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa" (Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.

Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm "tiền trao cháo múc", "bánh ít đi bánh qui mới lại", công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.

Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)

Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài: thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.

Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?

Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.

 

23. Sự công bằng trong Nước Thiên Chúa

(Suy niệm của Barbara E. Reid OP – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20,13)

Thoạt nghe qua, chúng ta dễ có cảm tưởng rằng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có vẻ không được hợp tình hợp lý cho lắm. Những người thợ làm việc lâu giờ hơn, vất vả hơn, vẫn không được trả lương cao hơn. Tại sao ông chủ vườn nho lại trả lương đồng đều cho tất cả các thợ, khi họ bắt đầu làm việc vào những thời khắc khác nhau. Theo lẽ thường tình, điều này xem ra có vẻ như ông chủ chơi không đẹp, không “fair play” chút nào.

Vấn nạn này chắc chắn sẽ được khơi lên, nếu chúng ta ở vào vị thế của những người thợ đã cực nhọc nắng nôi suốt cả ngày mà cũng chỉ nhận được một đồng giống như những người khác. Xét theo lô gíc thông thường, ông chủ đã sử xự một cách bất công.

Trong đám tang của ông ngoại tôi, lần đầu tiên, tôi được nghe giải thích ý nghĩa của dụ ngôn. Vị linh mục nói về người đã chết, một tân tòng mới gia nhập đạo Công giáo trên giường bệnh trước khi ông nhắm mắt xuôi tay, giống hệt như người thợ được mướn làm vườn nho lúc xế chiều. Vị linh mục đó cũng vay mượn một hình ảnh khác rất giản đơn để so chiếu. Ví dụ như nhiều người đi xe lửa đã đặt vé từ trước khá lâu, và họ đã có chỗ. Một số khác lại mua vé vào phút chót, cuối cùng cũng có chỗ dành cho họ, và họ cũng đến được nơi giống những người đã đặt vé rất lâu từ trước. Ông của tôi cũng vây, ông cũng đã đạt đến quê trời vào những giây phút muộn màng trong cuộc đời mình. Điều này khiến chúng tôi là những lớp trẻ hàng con cháu cảm thấy rất an lòng.

Thiết nghĩ, điểm nhấn của dụ ngôn, là Đức Giêsu muốn những người được gọi mướn đầu tiên, phải biết quảng diễn lòng thương cảm đối với những thợ khác được gọi mướn trễ hơn. Nhưng làm cách nào để có thể khơi dậy lòng yêu thương này, vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và khó chịu đối với chính cá nhân tôi.

Một phụ nữ cùng học Kinh Thánh với tôi trong nhiều năm, đã giúp tôi hiểu dụ ngôn dưới một góc cạnh khác. Chị ta là một phụ nữ đơn độc, một mình nuôi 3 đứa con nhỏ sau khi ông chồng bỏ rơi chị. Chị ta ít học, lại không có kinh nghiệm quán xuyến gia đình và ít khả năng giao tiếp. Ngày này sang ngày khác, tại văn phòng xin việc làm, chị ta vẫn kiên nhẫn xếp hàng đợi chờ, mặc dù hy vọng của chị rất mong manh.

Khi đọc dụ ngôn hôm nay, chị ta mới khám phá ra một điều, là những người thợ đứng đó suốt cả ngày để chờ được thuê mướn, không phải là những con người biếng lười. Họ sẵn lòng đi làm nếu có người đến thuê họ. Nhưng họ phải chịu đứng không và vẫn chờ, vẫn đợi, có lẽ vì họ già yếu, không đủ sức khỏe, lại ít khả năng, và không thể đảm nhận những công việc nặng nhọc như những người khỏe mạnh khác. Những người thợ đứng đội nắng cả ngày không tìm được việc làm, giống như trường hợp của chị ta, một con người đã trải nghiệm sự nghiệt ngã khi cứ phải lặng lẽ đứng xếp hàng rồng rắn tại văn phòng xin việc làm, hết ngày này sang ngày khác, đầy kiên nhẫn.

Khi suy tư phần cuối của dụ ngôn, chị ta nghiệm ra rằng nếu ông chủ vườn có trả công cho người thợ đợi chờ suốt cả ngày, đồng đều như những người khác, điều đó cũng rất hợp lý. Như trường hợp của chị, làm sao chị có tiền để nuôi 3 đứa con? Những người thợ đã làm suốt cả ngày từ sáng đến chiều, họ cũng hài lòng vì họ đã được trả lương sòng phẳng để họ có đủ tiền trang trải chi phí, nuôi sống gia đình. Sự công bằng trong trật tự Nước Trời, chị ta suy luận, chính là ở chỗ tất cả mọi người vào giây phút cuối cùng trong ngày, đều có tiền để sống, không cần xem khả năng của họ ra sao. Sự công bằng của Thiên Chúa không phải là điều chúng ta đắc thủ được do công cán hay sức lực, và việc Thiên Chúa thưởng công cũng không phải được cân đo theo khả năng làm việc của từng người.

Cách giải thích này, xem ra gần sát với cái nhìn của những khán giả khi nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ là những con người đang đói, đang khát, đang phải đấu tranh để được sống. Lời khẳng định của ông chủ vườn nho, là ông ta đã không hành xử bất công đối với những người thợ đầu tiên, là một thách đố đối với những ai đang giữ những vị thế đặc quyền trong xã hội bấy giờ, để giúp họ giám định lại cảm thức của họ về sự công bằng xem như thế nào. Những người thợ làm từ sáng đâu có thiệt thòi gì, đâu có lỗ lã gì, nếu những người làm sau hết cũng được trả lương giống như họ.

Câu hỏi của ông chủ vườn nho trong câu 15 của bài Tin mừng hôm nay, đã nêu bật sự ghen tương, chính là đầu mối gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống cộng đoàn. Ông chủ đã nêu câu hỏi “ Hà cớ gì mà mắt bạn ghen tị khi thấy tôi đối xử tốt lành (agathos) như thế? Câu hỏi đó gợi nhắc lòng nhân hậu của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên mọi người cách đồng đều, không loại trừ ai. Nó cũng đá động đến khó khăn thường xảy ra nơi chúng ta, vì con người chúng ta bản tính hay ghen tị khi thấy người khác cũng được hưởng nhận sự tốt lành từ nơi Thiên Chúa, ngay cả khi cuộc sống chúng ta đã đầy ắp ân huệ được Thiên Chúa ban trao một cách nhưng không, chỉ do lòng tốt của Ngài mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng, sự công bằng mà Thiên Chúa thực thi hoàn toàn không theo nguyên tắc quy phạm và đường lối xét định của con người. Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng hưởng nhận tình yêu ấy. Nhưng tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người.

 

24. “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”

(Suy niệm của Lm Thái, Trích báo Hiệp Nhất tháng 9-2014)

Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.

Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ. Có lẽ phải mất một thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu , lòng nhân từ, và quảng đại (Rm 9:14-16).

Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự , không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều chúng ta cần.

Điều này được diễn tả trong bài phúc âm hôm nay, Mat 20:1-16, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn cho các công nhân làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?” (Mt 20:13-15).

Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì tình thương! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn (Gc 3:14-16).

Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791). Câu chuyện diễn tả Mazart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba. Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vân phục đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại ban cho Mozart?

Ngoài tính nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, Vua Joseph II Áo Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe dọa về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart. Solieri rất ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên ông lại muốn là chính ông đã sáng tác nó. Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phúc phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh Thánh Giá treo trên tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!

Pascal đã nói: “con tim có lý lẽ riêng của nó.” Khi yêu ai người ta dám hi sinh tất cả moi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu của tình yêu Thiên Chúa.

Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “những kẻ khốn cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà gíup việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà tòa giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, Valjean đã ăn cắp toàn bỗ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.

Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức Giám Mục đã cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại tòa giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến tòa giám mục, Đức Giám Mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lạị Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. Hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lưón lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.

Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu, và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế, hay toán học nhắm vào tư lợi (Rm 9:20-23).

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3 tháng 12 năm 2000, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu.” Tổng Giám Mục, lúc đó, nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền cắc tội ácc ủa anh trong luyện ngục.” Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi.” Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế giới.”

“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chồng, đối với Chúa Giêsu, một con có giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.” (Đức Ông Nguyễn Quang Sách, vietcatholic news – 18/9/2002).

Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bừng chữ “nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của nước Trời. Trong cuốn “the Divine Trap”, trang 78, Richard Hoefler, nối rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa số phiếu bầu cử.”

Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt Phái , là những ngươì đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã nhận xét:

“Những người Biệt Phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ, Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tùy theo ý của Ngài và chỉ có Thánh Ý Ngài mà thôi.” (The Divine trap, trang 79).

Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” (Is. 55:8-9).

Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành Ngài thay vì đòi hỏi, và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của ĐHY John Henry Newmann: “Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài.”

 

25. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Sao tôi lại làm người trong thân phận này? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc vào hàng thiểu số, gia cảnh thì nghèo hèn, hoàn cảnh xã hội quá khó khăn...Rất nhiều nổi băn khoăn, đúng hơn là nổi bất bình cho số phận mình, số phận bị chiếu bởi ngôi sao xấu nào đó. Chập chửng vào tuổi thanh niên, nhiều bạn trẻ không ít lần phiền trách số phận bản thân với hiện trạng đang là của họ. Nhiều giấc mơ xuất hiện như một sự giải tỏa khát mong thầm kín: giá như tôi là thế này, giá như tôi được như kia...Trời xanh có công mình chăng khi có kẻ sinh ra đã là con vua, còn rất nhiều kẻ lại mang kiếp con nhà chùa?

Cùng với những người làm vườn nho từ sáng sớm hay gần cả ngày, chúng con lắm khi tự hỏi rằng chúng con cum cúp giữ đạo, chịu nhiều thua thiệt ở đời này so với rất nhiều bà con khác đạo và bà con không tôn giáo để rồi lại cũng sẽ lãnh mỗi người một đồng tiền lương sao? Nói gì đến bà con lương dân hay bà con khác đạo sống ngay lành, người thu thuế Chúa kể chuyện chỉ đấm ngực và xin: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội, chưa hết, cái anh tử tội năm nào bị treo trên thập giá cạnh Chúa, chỉ với lời cầu xin: "lạy Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi" thì đều được công chính hóa, được phúc thiên đàng. Thế thì sự công bình ở đâu?

"Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy." (Is 55,8-9).

Tư tưởng của Ta: Mọi người đều là hình ảnh của Ta, đều là con cái của Ta. Tất cả mọi người, ngươi và người khác đạo hay người chưa biết Ta, thậm chí người đang không nhận Ta, hết thảy không phải là cái gì xa lạ nhưng chính là hình ảnh của Ta, hết thảy không phải là là người nô lệ, kẻ làm thuê nhưng là con cái của Ta. Ta là người Cha nhân hậu, thiện toàn, cho mưa rơi đều xuống trên người con lành thánh lẫn đứa con bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người con công chính lẫn đứa con tội lỗi. Ta chẳng hề muốn một đứa con nào phải hư mất. Ta kiên nhẫn và tạo dịp thuận lợi để những đứa con hư hỏng biết ăn năn sám hối và được sống. Đã là con cái, thì với Ta, đứa nào cũng là quý giá và không có gì sánh được, thậm chí Ta vui mừng vì tìm được đứa con lạc đường, xa nhà, hơn là chín mươi chín đứa con đang ở trong gia đình.

Vấn đề là ngươi cố tìm hiểu tư tưởng của Ta, tấm lòng của Ta. Hiểu được lòng trí của Ta thì ngươi sẽ nhận ra người đồng loại, dù đó là người tội lỗi, người khác niềm tin, người khác chính kiến...họ thảy đều là anh chị em của ngươi. "Anh em như thể tay chân". Ước gì ngươi cảm nhận được chân lý này.

Đường lối của Ta: Ta xử với con cái không như chúng đã làm, mà như chúng đang là. Ông chủ vườn nho đã đối xử với với đám nhân công không như họ đã làm được những gì, mà như họ là công nhân của ông ta. Có thế thôi. Vậy, Ta vốn là người Cha giàu lòng thương xót lại không đối xử với đàn con như chúng là con của Ta, những đứa con mà ta đã nhận làm dưỡng tử qua chính Con Một Ta hay sao?

Chính các ngươi là người cha, người mẹ trần gia,n còn vương nhiều điều gian ác mà còn biết lấy của tốt mà trao cho con cái, còn biết lo lắng cho đứa con trong nôi chưa làm được sự gì, một lẽ tất yếu là vì chúng là con cái các ngươi. Thế thì sao các ngươi lại bực mình khi Ta tỏ lòng nhân hậu với những người hèn kém, những người tội lỗi...vì chúng nó là con cái của Ta, cũng như các ngươi.

Tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi tuy có bị tội lỗi làm sai lệch nhưng tiên vàn vẫn là do Ta đặt để ngay từ đầu buổi tạo dựng. Chính vì thế, tư tưởng của Ta và đường lối của Ta tuy có cao xa hơn tưởng và đường lối các ngươi nhưng vẫn có nét nào đó nơi tư tưởng và đường lối các ngươi, dĩ nhiên là chúng cần phải được chỉnh hướng.

Một vài cách thế chỉnh hướng tư tưởng và đường lối của các ngươi: Hãy mở lòng đế lắng nghe lời Con Một của Ta, Giêsu Kitô:

1. Lạy Cha chúng con ở trên trời (Mt 6,9): Lời kinh nguyện duy nhất mà Con Một của Ta chỉ dạy các ngươi khi cầu nguyện, nhắc nhở các ngươi hãy xác định đúng vị thế các ngươi trước mặt Ta và trước tha nhân, bất kể họ là người thế nào. Ta là người Cha duy nhất và tất cả các ngươi đều là anh chị em với nhau cùng với người anh cả là Con Một của ta nhập thể làm người, Giêsu Kitô. Các người đừng quên rằng sự thường trong các buổi cử hành Phụng vụ, các người đều có cất lên lời kinh nguyện này: Lạy Cha chúng con ở trên trời...

2. Những gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì hãy làm những điều ấy cho người ta (Mt 7,12). Không dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà cần phải tích cực làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Vì tất cả lề luật và lời Ngôn sứ đều quy về đó. Điều này sẽ thành hiện thực khi các ngươi chân nhận tha nhân là huynh đệ nghĩa thiết của các ngươi.

Đã là huynh đệ nghĩa thiết, tình như thủ túc, như chân tay mình, như chính bản thân mình thì chuyện ganh tị, đố kỵ sẽ chẳng còn lý do gì để tồn tại.

Trở lại với sự băn khoăn hay nổi bất bình về số phận xem ra chẳng may của nhiều người thì thú thật sẽ khó có lời giải thích thỏa lòng. Cùng tốt nghiệp cử nhân hạng ưu như nhau, nhưng một bạn trẻ xuất thân từ gia đình nghèo hèn, thiếu điều kiện, sẽ có niềm vui khác xa một bạn trẻ con nhà giàu có, đủ đầy điều kiện. Một thực tế của cuộc sống, hy vọng có thể giúp nhiều người thoạt sinh ra đã ở trong hoàn cảnh thiếu may mắn, xét dưới nhãn quan nhân loại. Dù Hy Lạp hay Do Thái, dù nô lệ hay tự do thì cái đích đến là được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc Nước Trời, thì đều ở trong tầm tay của mọi người. Hơn nữa dưới nhãn quan Tin Mừng thì những người xem ra kém may mắn, lại có nhiều thuận lợi để đạt đến hạnh phúc Nước Trời hơn. Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này qua các mối phúc, cũng như các mối họa (x. Lc 6,20-26).

Dù ta ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi theo nhãn quan nhân loại hay theo nhãn quan Tin Mừng thì mọi sự tốt đẹp đều là có thể, nếu như chúng ta xem nhau như anh chị em. Xin được kết thúc những dòng chia sẻ này bằng câu chuyện sau: Trong một cuộc thi điền kinh môn chạy đường dài (Maraton), có hai anh em ruột cùng tham gia thi chạy với nhiều người khác. Còn khoảng một trăm mét là đến đích, về nhất. người anh ngoái đằng sau thấy em mình cũng bỏ đoàn chạy phía sau khá xa, nhưng dường như đạng bị chấn thương nào đó nên phải khập khểnh trên đoạn đường cuối. Người anh dừng lại chờ người em đến và dìu người em chạy nốt đoạn ngắn còn lại. Đứng trước vạch đích, hai anh em cùng hô một hai ba: chạm đích. Ban tổ chức hôm ấy đã phải trao hai huy chương vàng, dù không thể tiên liệu. Mọi sự đều là có thể trong tình yêu, vì "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1 Ga 4,8).

 

home Mục lục Lưu trữ