Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1371387
NIỀM VUI PHỤC SINH
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến 1, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
12 ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ 13, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
62. Chiến thắng.
Chúng ta không thể nào đánh giá được tính cách vĩ đại nơi sự sống lại của Đức Giêsu, trừ phi chúng ta nhìn nhận đầy đủ sự thật về cái chết của Người. Đức Giêsu chết đi trong tối tăm. Nhưng Người đủ tin tưởng nơi Thiên Chúa, để có thể đương đầu với bóng tối, và chờ đợi sự sống lại. Cú nhảy vọt trong lòng tin của Người không uổng công. Chúa Cha đã nâng Người lên. Hiếm khi Kinh Thánh và Giáo hội tiên khởi nói rằng “ Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”, nhưng nói rằng “Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”. Đức Giêsu cũng phải thực hiện một cú nhảy vọt trong lòng tin, mà một ngày kia, chúng ta sẽ được mời gọi thực hiện.
Đức Giêsu đã đi vào trong bóng tối của cõi chết, và bật dậy trong chiến thắng. Ngài đã giành được chiến thắng của Người – Người đã chế ngự sự chết. Nhưng chiến thắng đó phải vận hành theo cách thế của nó, và trở thành một thực tại nơi chúng ta, các môn đệ của Người. Chúng ta đạt được chiến thắng của Người ngay trong bản chất của chúng ta. Nếu chúng ta không chiến đấu và chiến thắng ngay trong bản chất của mình, thì chúng ta sẽ không có khả năng được hưởng lợi từ chiến thắng của Người, nhưng chúng ta vẫn còn ở dưới quyền lực của cái chết.
Chúng ta không bao giờ được nghi ngờ về tự thân sự sống lại – Thiên Chúa không thể chết được. Nhưng điều đáng ngạc nhiên và là quà tặng của lễ Phục sinh chính là sự sống lại cũng cho cả chúng ta nữa. Đức Giêsu đã được sống lại trong máu thịt của chúng ta. Chính cái chết của chúng ta đã bị đánh bại.
Và chúng ta tiếp tục đi tới trong cuộc đời, dần dần trở nên có ý thức về tính hay chết của mình, và về cuộc hành trình không thể tránh khỏi hướng đến cái chết. Cái chết tạo ra một thách đố khổng lồ đối với lòng tin của chúng ta, bởi vì chúng ta chỉ nhìn vào phía sau cái chết, giống như xuyên qua một tấm kính tối tăm. Nhưng trong ngày hôm nay, chúng ta được hít thở luồng không khí trong lành của sự sống đời đời.
Dường như sức mạnh của bóng tối có thể đang lan tràn, nhưng chúng ta đã giành được chiến thắng rồi. Chúng ta phải tin tưởng vào chiến thắng đó, và không được sống như thể cái chết vẫn còn thống trị chúng ta.
Trở nên người Kitô hữu là trở nên một con người của niềm hy vọng, nhờ những gì đã xảy ra trong ngày thứ ba. Nhưng niềm hy vọng của người Kitô hữu không phải là sự lạc quan hời hợt, dựa trên sự khước từ nhìn vào các sự kiện. Nói đúng hơn, đó chính là niềm tin tưởng sâu xa nơi Thiên Chúa.
Ngày Thứ Sáu Tuần thánh, một ngày của bóng tối và cái chết, đến với tất cả mọi người. Cũng vậy, ngày Thứ Bảy Tuần Thánh là một ngày của sự trống rỗng và u buồn. Trong mấy ngày này, thật khó mà tin tưởng được. Nhưng ngày Chúa nhật Phục sinh, ngày của sự sống và niềm vui, chắc chắn sẽ giống như ánh bình minh vậy. Kẻ thù cuối cùng là sự chết đã bị chế ngự.
Trong lòng từ ái của Người, xin Chúa mở lòng trí chúng ta ra, để chúng ta có thể tin tưởng vào tin vui nơi chiến thắng của Người vượt lên trên sự chết. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta hướng ra bên ngoài, để đi vào một nơi mà chúng ta chưa biết, ở thật xa, trong cõi vô biên, trong chốn đời đời. Chúng ta tiến tới một cách tin tưởng và hy vọng hơn, bởi vì Đức Giêsu, Anh Cả của chúng ta, đã đi trước chúng ta.
63. Sống lại.
Trong Tin Mừng sáng Chúa nhật Phục Sinh hôm nay, thánh Gioan kể cho ta câu chuyện ba người đi tìm Chúa: Maria Madalena, Phêrô và Gioan. Khi đọc đoạn Phúc Am đó chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, tất cả ba người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện “mồ trống và khăn liệm để qua một bên”, nhưng chỉ có một mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan viết về chính mình rằng: “Tôi thấy và tôi tin”.
Để hiểu rõ sự kiện chúng ta hãy trở lại chiều thứ Sáu, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, Phúc Am ghi lại rằng, chiều Thứ Sáu hôm đó người Do thái đến xin Philatô cho hạ xác những người bị đóng đinh xuống, vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày Thứ bảy là ngày nghỉ lễ, gọi là ngày Sabat. Hơn nữa, ngày Sabat đó lại là ngày Sabat trong mùa lễ Vượt qua của họ. Phép tắc thủ tục xong, xác Chúa Giêsu được hạ xuống thì đã chiều tà, và theo phong tục của người Do thái, họ tính ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn, khi mỗi người với mắt thường nhìn thấy được ít nhất vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì thế Đức Mẹ cùng với bà Maria Madalena và các môn đệ phải hối hả lo chôn xác Chúa Giêsu cho xong để về nhà trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo, vì ngày Sabat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết qua về cách liệm xác của người Do thái; cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại trong tấm vải trắng, xong lấy băng vải quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đấy thì đem đặt xác vào hang đục sẵn trong đá và lấy tảng đá lớn đậy cửa hang lại. Vì hối hả cho nên Maria Madalena về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ với Thầy kính yêu của mình, nên bà nán lòng chờ đến ngày Thứ Bảy là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức là Ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp lại xác Chúa. Nhưng đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra mà không thấy xác Chúa Giêsu còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, vì Gioan còn trẻ nên chạy nhanh hơn do đó mà đến mồ trước. Gioan chỉ đứng ngoài chờ Phêrô tới, cả hai cùng vào một lượt, họ nhìn thấy vải liệm và khăn che mặt để gọn vào một chỗ, nên Gioan thú thật trong lòng là ông tin Chúa đã sống lại.
Phân tích tâm lý của ba nhân vật chúng ta sẽ thấy tại sao đối với Maria Madalena, bà đến mồ chỉ mong ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm nơi tay mà đầu óc bà chỉ nghĩ đến một thi thể đã nằm yên bất động, nói tắt một lời là bà đến mồ để tìm xác chết. Trong một tâm trạng như thế, khi thấy ngôi mộ trống không, bà khó có thể nhận ra việc Chúa Giêsu sống lại thật.
Còn Phêrô, ông sợ hãi, ông đã chối Thầy mình trong giờ phút bị hành hạ nhục nhã và ông sợ sệt bị liên lụy vì Thầy đã chết, đã chôn yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ “bình an”. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu, ông đang lo có lẽ đứa nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ, để xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra, trong lòng chỉ nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng, Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Am của ông, khi viết điều gì có thể liên quan đến mình thì thánh Gioan luôn dùng kiểu nói: “Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu dấu”. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu đó thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giờ phút cuối cùng, thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên đường thập giá và cũng là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thập giá. Cuối cùng, ngài chỉ về nhà cùng với Đức Mẹ sau khi chôn cất Chúa Giêsu xong.
Kinh nghiệm cho thấy rằng khi yêu ai thì người ta thường hay nghĩ đến người ấy, luôn cảm nghiệm cách hiện diện của người ấy trong cuộc đời của mình, dù cho nhiều khi hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau hoặc từ biệt. Gioan yêu mến Thày, vì thế Chúa Giêsu luôn hiện diện trong ông, vì vậy ông luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại. Vì Thầy đã từng nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay quân dữ, họ sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Với tâm tình đó, Gioan nhận ra dễ dàng việc Chúa Kitô Phục sinh. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua việc phân tích tâm lý của ba nhân vật phần nào có thể giúp cho chúng ta một bài học thật quí giá là: “Chỉ có tình yêu đích thực từ đáy tâm hồn mới làm cho người ta dễ nhận ra Chúa Kitô Phục sinh”. Thật vậy, cuộc đời của người Kitô hữu là một cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng đi tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa. Chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời của mình, nếu chúng ta biết yêu Chúa như Gioan, nghĩa là làm cho tâm hồn mình luôn tiến bước trên con đường tình yêu của Chúa.
Ước gì cuộc hành trình đức tin ấy luôn là ngọn đèn soi dẫn chúng ta tiến bước trong cuộc sống trần gian này, để rồi giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta biết nhận ra được sự hiện diện của Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Xin Ngài gìn giữ đức tin của chúng ta luôn vững mạnh, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
64. Phụ nữ.
Chưa bao giờ Phụng vụ Lời Chúa lại dành cho giới phụ nữ một vị thế đáng trân trọng như hôm nay. Vâng, thực đấy. Tin Mừng lễ Phục Sinh nói nhiều đến họ. Họ là những người nhận được tín hiệu Phục Sinh đầu tiên, họ cũng là những người được Đấng Phục Sinh cho gặp mặt trước hết, và chính họ còn là những người được trao nhiệm vụ lớn lao là đem Tin Vui Phục Sinh đến cho các tông đồ. Nói khác đi, sở dĩ giới nữ có được vị thế trân trọng là vì ưu thế của họ trước Tin Mừng Phục Sinh. Nhưng tại sao họ lại có được ưu thế ấy? Phải chăng chỉ vì họ là phụ nữ? Tất nhiên không phải thế, mà vì những lý do khác.
1. SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT TRÁI TIM CHÂN THÀNH
Phúc Am kể: từ sáng sớm khi trời còn tối ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đã đến thăm mồ Chúa Giêsu. Các bà đến chẳng phải vì tò mò, bởi nếu có, thiết nghĩ sự sợ hãi còn lớn hơn sự tò mò nữa, mà đúng ra chỉ vì cảm tính rất phụ nữ: các bà yêu mến Chúa Giêsu, nên muốn được biểu tỏ cảm tình chăm sóc Ngài, cho dẫu Ngài đã bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng trong huyệt đá. Thế thôi.
Người ta bảo: trái tim giới nam có nhiều ngăn được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên lâu ngày thành nếp, ngày nào thứ tự ấy bị đảo lộn, ngày ấy có lộn xộn trong nhịp sống. Không biết có phải vì thế mà giới nam ưa bị nhồi máu cơ tim? Người ta cũng bảo: trái tim giới nữ chỉ có một ngăn duy nhất, một khi ngăn ấy đã dành cho ai thì chỉ có trời mới biết điều gì xảy ra. Có lẽ vì thế, ghen tuông chính là thuộc tính đi liền với giới nữ? Không biết đúng sai? Nhưng nếu không sai, thì rõ ràng là trong khi đáng lẽ phải lâm vào cảnh thất vọng sợ sệt co cụm khép kín, thì giới nữ trong bài Phúc Am lại vượt lên để bất chấp tất cả: bất chấp sự chết, bất chấp mồ bị niêm phong, bất chấp cả lính canh, miễn là họ được ở gần vị Thầy tôn quý.
Thiết tưởng, một trái tim chân thành như thế, ở giới nữ cũng như ở bất cứ ai, cũng xứng đáng nhận được Tin Mừng Phục Sinh.
2. SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT GẮN BÓ TRUNG THÀNH
Phúc âm hôm nay không thấy bóng tông đồ nào. Trước thảm kịch ngày thứ sáu tuần thánh, chẳng ai bảo ai, họ trốn chạy mỗi người một ngả. Mạnh miệng như ông Tôma có lần hạ quyết tâm “Nào cùng lên Giêrusalem chịu chết cả đám”, thế mà trong ngày thương khó của Chúa, ông là “người thợ lặn” giỏi nhất, lặn biệt tăm. Sôi nổi như ông Phêrô có lúc đã quyết liệt “Dẫu mọi người bỏ Thầy, con đây xin đồng sinh đồng tử với Thầy”, thế rồi sau đó chính ông trở thành kẻ chối Chúa táo bạo nhất, không chỉ một lần mà những ba lần.
Trong khi ấy, phụ nữ lại là những kẻ gắn bó trung thành với Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Họ có mặt bên Chúa trong cuộc khổ nạn, họ đứng gần dưới chân thánh giá cùng với Mẹ Chúa, họ góp sức trong lúc an táng, và hôm nay, dẫu Chúa đã ba ngày bị vùi chôn trong ngôi mộ niêm phong, họ vẫn trung thành đến viếng thăm ngay từ khi bình minh ló rạng. Và thế là mồ đã mở toang và họ được hạnh phúc là những người đầu tiên ghi nhận sự kiện phục sinh, cho dẫu đó mới chỉ là dạng thức sơ khởi của một ngôi mộ trống vắng.
Nếu hạnh phúc không phải từ trời rơi xuống, mà “như ngọc trong đá không có cho ai đi qua hững hờ”, thì rõ ràng gặp được Tin Vui Phục sinh chính là hạnh phúc cho họ và cho tất cả những ai đã trung thành gắn bó với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn đời sống hằng ngày, bất luận họ là giới nữ hay giới nam.
3. SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ NHỮNG BƯỚC ĐI NHIỆT THÀNH
Để ý một chút, người ta thấy hình ảnh người nữ nêu lên trong Phúc âm hôm nay rất lạ. Thay vì dáng vẻ yểu điệu thục nữ như trong các buổi biểu diễn thời trang áo dài Việt Nam nhiều người đã xem, thay vì những bước chuyển động nhẹ nhàng và dịu dàng giới nữ muôn đời vốn có, hôm nay qua trang Tin Mừng họ lại chạy, chạy vội vàng, chạy hớt hải, cắm đầu mà chạy. Nhưng đó chính là hình ảnh sinh động minh họa cho một chuyển động nhiệt thành, chỉ có được khi đã tiếp cận với dấu chứng phục sinh và đã trở thành điều kiện cần thiết để loan tin vui Phục sinh đến với mọi người.
Trước biến cố Phục sinh, bọn lính canh đã khiếp sợ, bởi vì họ chỉ là những kẻ canh giữ xác chết, còn người phụ nữ ban đầu có vẻ sợ đấy, nhưng lòng nhiệt thành đã giúp họ thắng vượt tất cả. Để mãi mãi hiểu rằng: Tin Mừng Phục Sinh một khi đã nhận được, người ta không thể giữ riêng làm của gia bảo, cũng không thể dửng dưng lạnh lùng, gỗ đá, càng không thể đa hệ nửa sợ hãi nửa vui mừng, mà chỉ còn lại một niềm vui duy nhất là sẵn sàng gieo bước loan tin Phục sinh bằng đời thấm đẫm tin yêu hy vọng. Đó là ba lý do giải thích tại sao giới nữ lại có ưu thế trước Tin Mừng Phục sinh, và thiết tưởng đó cũng là những điều kiện cần thiết cho tất cả mọi người trong lòng tin vào Đức Kitô Nguồn Sống. Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta lặp lại lời tuyên xưng đức tin: Đức Kitô là điểm đến của chương trình cứu độ. Nếu Thiên Chúa đã sáng tạo con người cách lạ lùng, thì Ngài còn tái tạo con người trong Đức Kitô Phục Sinh một cách lạ lùng hơn nữa, dù đời người và người đời đầy dẫy những vực thẳm tội lỗi chết chóc, nhưng vẫn có đó chiều cao của ơn thánh và sự sống. Đức Kitô chiến thắng tội lỗi và sự chết là để mở ra cho ta đường vào cuộc sống mới, nhưng ta có mới được hay không, mới nhiều hay ít, mới trong hay ngoài là tùy thuộc vào tâm tình của ta hôm nay trước Chúa Kitô. Sẽ là đong đầy sự sống nếu ta biết dành cho Ngài một trái tim chân thành sẵn sàng rung động trước những lời gọi của Tin Mừng giữa con lốc xoáy của kiểu sống kinh tế thị trường hiện tại. Sẽ là ngọt ngào sự sống nếu ta biết trung thành gắn bó với Đức Kitô vượt qua những nghịch cảnh không thiếu giữa chốn chợ đời. Và sẽ còn là vô cùng sự sống nếu ta biết dệt đời mình bằng những bước đi nhiệt thành tin yêu, cho dẫu ở đâu đó, người ta vẫn còn cư xử với nhau bằng hung ác của những trái tim chó sói, hay vẫn còn hiện diện bên nhau bằng giả dối của những chiếc mặt nạ da người. Được như thế, niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh mới là niềm tin của sự sống và người ta mới có thể sống vươn lên nhờ lòng tin của mình. Và như thế, nghĩ đến ưu thế của giới nữ trước Tin Mừng Phục sinh hôm nay rốt cuộc cũng chính là nghĩ về mình. Chẳng phải vì muốn chơi đẹp như phép lịch sự phương Tây, cũng chẳng phải vì tình cờ ngẫu hứng mà Đức Kitô đã dành cho giới nữ ưu tiên ấy, mà chỉ vì muốn thông qua họ, cho thấy một chân lý. Đó là: tất cả những ai chân thành tin, trung thành hy vọng và nhiệt thành yêu mến gắn bó với Đức Kitô, dù phải trải qua những khổ nạn trong cuộc sống cụ thể hằng ngày, họ sẽ là những người hạnh phúc biết sống do và cho Đấng Phục sinh. Hôm nay Phụng vụ hát lên niềm vui Allêluia, chúc mọi người trở thành những nốt nhạc sống động trong khúc hát mới của những con người mới đi trên đường mới của Đức Kitô Phục sinh.
65. Ngôi mộ trống – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14); “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: “Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: “Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự hủy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy “cái tôi ích kỷ” của ta, thì “cái tôi” ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quí, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy “cái tôi ích kỷ” của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: “Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4,24); “con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình” (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, “hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn” (Ep 4,23); “Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới” (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam