Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 67

Tổng truy cập: 1375413

NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN

Nước Thiên Chúa đã đến gần

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).

Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.

Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.

Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).

Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.

Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.“Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.

Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan. Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.

Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.

Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị - tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.

Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: "Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham." Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).

Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.

Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.

Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).

Gợi ý suy niệm và chia sẻ:

Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong khung cảnh Mùa Vọng, chúng ta có thể suy niệm về ba điểm quan trọng:

1. Đấng đang đến chính là Đức Chúa.

Một trong những điểm nhấn quan trọng của bài Tin Mừng hôm nay là việc giới thiệu Đấng đang đến trong dung mạo Đức Chúa. Sứ điệp của ông Gioan (“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần”: c.2) liên quan đến chính Đức Chúa. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện. Bằng việc cử hành phép rửa, ông Gioan nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh luyện để đến gần Đức Chúa đang đến. Khi so sánh mình với Đấng đang đến, ông Gioan nhấn mạnh quyền thế hơn hẳn của Đấng ấy, và nhất là ông khẳng định rằng Thánh Thần (vốn là sự sống và sức mạnh của chính Thiên Chúa) sẽ hiện diện với Đấng đang đến; Đấng ấy sẽ hành động trong quyền năng của Đức Chúa và sẽ ban cho người ta sự sống của Thiên Chúa. Với Đấng ấy, chính Thiên Chúa đến để ban sự sống và đồng thời để phán xét.

Đó chính là Đấng mà chúng ta đang đợi chờ trong suốt Mùa Vọng này. Mùa Vọng không phải là sự chuẩn bị và chờ đợi một lễ hội lớn lao, hoành tráng và vui tươi sẽ được cửa hành vào cuối tháng 12! Mùa Vọng là thời gian đón chờ chính Đức Chúa, Đấng đang đến.

2. Hoán cải là đòi hỏi khẩn thiết.

Nội dung căn bản trong lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10). Đấng đang đến là Thẩm Phán cánh chung, “tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”” (c.12).

3. Những nghi thức và hoạt động bề ngoài không phải là điều chính yếu trong khi chuẩn bị đón Chúa đến.

Những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc muốn tránh cơn thịnh nộ sắp giáng xuống bằng cách đặt mình vào một nghi thức bề ngoài nhưng không thực hiện đòi hỏi nghiêm túc là phải hoán cải đời sống, tức là không thay đổi hệ thống bất chính đang kềm tỏa mình. Theo ông Gioan, những nghi thức bề ngoài không đủ để người ta được bước vào Nước Thiên Chúa; cần phải thay đổi đời sống thật sự.

Đó cũng có thể là vấn đề của chúng ta trong Mùa Vọng này. Tất nhiên những hành động bề ngoài là cần thiết: trong bài Tin Mừng hôm nay, việc hoán cải được thể hiện qua việc để cho mình được dìm trong một phép rửa tỏ lòng sám hối, tức là qua một hành động bề ngoài. Nhưng chỉ những hoạt động bề ngoài thấy được thôi, thì chưa đủ. Điều chính yếu cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”. Đó chính là điều quan trọng nhất trong Mùa Vọng này.

 

12. Sứ mạng Tiền Hô

(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)

Vâng, người ta thường nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Đó là cụm từ dùng để cổ vũ một nhân vật có thế giá nào đó. Từ bậc quan đến bậc vua chúa, hoặc như quan trạng về làng, hay là “võng anh đi trước, kiệu nàng theo sau”.

Quả thật, một nhân vật trần thế được đón rước một cách trịnh trọng, thì người ta nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Nhưng hôm nay, theo lịch phụng vụ Công giáo, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một nhân vật đảm nhận vai trò “ Tiền Hô”, đó là Gioan Tiền Hô. Vâng, Gioan Tiền Hô thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình đối với ai? Thưa đối với “ Vua Hòa Bình”, vâng, Vị Vua Hòa Bình đến.

Vị Vua Hòa Bình, mà Thiên Chúa đã Hứa từ ngàn xưa qua các tiên tri sẽ đến. Giữa loài người, không có vị vua nào xừng đáng để thay mặt Thiên Chúa chăn dắt muôn dân, thì Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian, nhưng Vị Vua ấy rất nhân từ, xứng với tước hiệu của Người, đó là “ Vua Hòa Bình” hay là” Vua Bình An”.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Is 11,1-10), chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế chính là Vị Vua nhân ái. Sự nhân từ của Người mang đến sự bình an đích thực. Sự bình an đến độ mọi thứ, mọi vật hung ác đều phải hiền hòa. Mọi sự vật phải thay đổi hoàn toàn180 độ. Vì Người là Thần khôn ngoan duệ trí, thần mưu sự can trường, thần thông minh hiếu thảo ( Is11,2).

Vì thế, sự hòa bình và an lạc sẽ ngự trị giữa chúng dân đến độ chiên con chơi đùa với sư tử và trẻ con. Vâng, ngày nay Vị Vua ấy sắp đến, tất nhiên sẽ có một người làm sứ mạng Tiền Hô cho Người, đó là Gioan Tiền Hô, mà Isaia đã nói: “ Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3,3)

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, nhân vật Gioan rất thành công trong sứ vụ Tiền Hô của mình. Ông nói: “ Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” ( c 2). Và cách thức sám hối là chịu phép rửa, vì vậy Gioan Tiền Hô được gọi là Tẩy Giả. Nhưng phép rửa được thực hiện bởi Gioan là phép rửa bằng nước, chỉ có giá trị để giục lòng sám hối. ( c11). Nhưng Đấng mà Gioan rao giảng sẽ làm phép rửa trong”Thánh Thần và Lửa”. Thánh Thần và Lửa chính là Thiên Chúa.

Thiên Chúa sẽ dùng Thánh Thần để Thánh Hóa và dùng Lửa để thiêu đốt. Có nghĩa là sự thanh tẩy trọn vẹn, chính là tình yêu của Thiên Chúa, là sự cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Thánh Thần và Lửa là một tình yêu bao la, một sự tha thứ vô cùng, vô hạn. Phép Rửa ấy chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Nhưng Gioan Tiền Hô cũng cho thấy sự công minh, lý đoán của Người bằng một câu nói theo nghĩa đen: “ Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. ( c 12).

Như vậy, Vị Vua Hòa Bình đồng thời cũng chính là Vị Thẩm Phán chí công, Người nhân từ nhưng không nhu nhược. Điều nầy cho thấy, từ khi Người đến lần thứ I cho đến khi Người lại đến, là một hành trình cứu chuộc duy nhất kế tiếp, không đứt quãng. Dựa vào ý tưởng nầy, Giáo Hội mong đợi Đức Kitô lại đến lần Thứ II. Đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa vọng, vì không phải chỉ đón mừng Người đến bằng hình thức bên ngoài là Lễ Giáng Sinh, nhưng quan trọng không kém là chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người trong bất cứ giây phút nào. Đón mừng Lễ Giáng Sinh là Đón Mừng một Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đấng Cứu Thế, để suy tôn, thờ là, cảm tạ Người. Nhưng để đón Người đến với chính tâm hồn của từng người trong chúng ta là một điều quan trọng, đó là giờ chết, một sự thật không thể chối cải được.

Nên chi, khi Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người mà chúng ta tỉnh thức thì thật là diễm phúc.

Vậy chúng ta là dân ngoại được kêu mời bởi lòng thương xót của Người, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ mọi người, chúng ta hãy cùng với thánh Phaolô cất lên lời ca: “ Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn, ca mừng Danh Thánh Chúạ” ( c 9).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cư ngụ giữa loài người, dù phàm nhân bất xứng. Nhưng để ban ơn cứu độ, Chúa đã trở nên Hy Tế. Khởi sự là Máng Cỏ Bêlem, ôi! Mầu nhiệm thật cao vời, xin cho chúng con biết nhận ra và đền đáp muôn một tình Chúa yêu thương chúng con. Amen.

 

13. Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion...) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực chuẩn bị đón Chúa đến. Sự kiện này đã được ghi khắc từ lâu trong lịch sử. Một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn. Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ, Ngài mời chúng ta đến gặp gỡ Ngài trong khiêm hạ: "Này dân Sion hỡi, Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ).

Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở... " (x. Is 11, 1-10).

Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, là nhân vật đã được tiền báo trong một lời tiên tri nổi tiếng của sách ngôn sứ Isaia (Is 42,3). Gioan Tẩy giả lui vào sa mạc của vùng Giuđêa, dùng lời rao giảng của mình kêu gọi toàn dân hoán cải để sẵn sàng đón Đấng Mesia quang lâm. Lời kêu gọi của Thánh Gioan, vị tiên tri được Thiên Chúa sai đến như là vị tiền hô của Đấng Thiên Sai, vang lên trong tuần thứ II của Mùa Vọng, vạch ra cho chúng ta thái độ cần phải có để sẵn sàng đón chờ Chúa đến: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Nếu như xưa kia Gioan rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn thống hối, kết quả là: "Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan"; thì ngày nay sứ điệp này vẫn vang dội qua các thời đại và gửi đến với chúng ta ngày nay với tính cách thật cấp bách.

Với giới biệt phái và văn nhân, Gioan Tẩy Giả bảo họ: "Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối". Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng (540 – 610) đã bình giải rằng: "Gioan Tẩy Giả rao giảng kêu gọi một Đức Tin chân thật và những việc làm tốt lành, để nhờ đó sức mạnh của ân sủng được thấm nhập, ánh sáng của chân lý được chiếu giãi, và những nẻo đường hướng về Thiên Chúa được sinh ra trong những tư tưởng thành tâm thiện chí, sau khi đã lắng nghe Lời Chúa, là Lời dẫn đến mọi sự tốt lành".

"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn.

Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: "Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an". Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng", 39, 1-3.

Có thể nói bốn tuần Mùa Vọng là như "tiền đường" dẫn chúng ta chuẩn bị tinh thần sẳn sàng tiếp đón Đấng Cứu Thế ngự đến! "Hãy ăn năn thống hối". Để gặp được Đấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.

Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn ăn năn hối cải. Để gặp được Hoàng Tử Bình An, chúng ta phải mở rộng lòng mình, khiêm tốn và ngay thẳng.

Đó là lý do tại sao Mùa Vọng là thời gian chờ đợi và hy vọng. Giáo Hội lấy lại vào chúa nhật II Mùa Vọng lời tiên tri đầy an ủi của ngôn sứ Isaisa như sau: "Mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu rỗi của Thiên Chúa". Chúng ta hãy đặt tay chúng ta vào tay Mẹ Maria, Nữ Vương của niềm hy vọng để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Amen.

 

14. Thanh lọc - Trầm Thiên Thu

Thanh lọc là làm cho trong sạch, làm cho tinh khiết, bỏ chất dơ bẩn và lấy chất tốt lành. Anh ngữ dùng chữ “purge” để chỉ hành động thanh lọc, do đó sinh ra tính từ “purgatory” (có tính chất làm trong sạch), vì thế mà sinh ra danh từ “purgatory” (nơi thanh lọc, chốn thanh luyện). Theo Công giáo, Purgatory có nghĩa là Luyện Hình hoặc Luyện Ngục.

Mùa Vọng là thời gian tẩy rửa linh hồn để đón Con Thiên Chúa giáng sinh. Thanh lọc là hành động cần thiết trong cuộc sống, nhất là thời đại ngày nay, nhiều thứ ô nhiễm. Càng phải thanh lọc kỹ hơn khi sống trong môi trường ô nhiễm nặng như Việt Nam hiện nay – mọi nguồn đều ô nhiễm, kể cả ẩm thực.

Thanh lọc là bảo vệ mình khỏi những thứ tác hại do môi trường. Đơn giản nhất là dạng “khẩu trang” được đa số sử dụng khi ra đường, có người không chỉ đeo vài lớp khẩu trang, mà còn thêm vải tấm chụp từ đầu tới cổ, đôi khi nhìn phụ nữ Việt Nam mà cứ ngỡ là phụ nữ Hồi giáo. Ai cũng bịt kín mít, thật khó có thể nhận biết ai quen hay lạ. Kỹ quá cũng… mệt!

Thể lý đã vậy, tinh thần còn cần được bảo vệ kỹ hơn nữa. Ngày nay có quá nhiều thứ rác rưởi nguy hiểm trên internet – net trắng thì ít mà net đen thì nhiều. Facebook được nhiều người “ưa dùng” nhưng lại có quá nhiều mối nguy hiểm. Có những người commen những câu chẳng đâu vào đâu, vu vơ, linh tinh, vớ vẩn. Và tất nhiên cũng không ít kẻ lợi dụng Facebook để mưu tính những chuyện khuất tất.

Có những tên nghe rất “kêu” hoặc có vẻ “đạo đức” nhưng trong đó có mối nguy tiềm ẩn khó lường trước. Ngay cả hình đại diện cũng chưa đáng tin nếu chúng ta không biết họ là ai, vì có những kẻ lấy “râu ông nọ cắm vào cằm bà kia”, không biết đâu là thật hay giả. Cũng có những trang xem chừng “nghiêm túc” nhưng biết đâu chừng phía sau là một ổ virus độc hại. Những kẻ câu LIKE (thích) là những kẻ tồi tệ. Nên block (khóa) họ để tự bảo vệ, tức là tự thanh lọc trước khi quá muộn!

Vì thế mà luôn phải cảnh giác cao độ, đúng như tiền nhân đã xác định: “Cẩn tắc vô ưu”. Thời buổi này cũng nên “di truyền” máu-đa-nghi của Tông đồ Tôma lắm đấy! Và thật chí lý với câu nói nghe như vè thế này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Chí lý lắm đấy chứ. Thật thà thì thẳng thắn, thẳng thắn thì thật tốt. Những kẻ nói ngọt và lấy lòng thì chẳng ra gì, người Anh gọi họ là dân “fair-weather” – tức là những người bạn phù thịnh, ưa nịnh, chỉ chấp nhận quen khi chúng ta có cái gì đó mà họ có thể lợi dụng, nhưng khi chúng ta gặp hoạn nạn thì họ không bao giờ xuất hiện.

Mùa Vọng về, năm mới Phụng Vụ tới, đó là thời điểm chúng ta cần thanh lọc kỹ lưỡng hơn, thanh lọc bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.

Trình thuật Is 11:1-10 nói về vị Minh Quân thuộc dòng dõi Đa-vít. Ngôn sứ Isaia mô tả: “Từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà. Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành”.

Nông dân Việt Nam có câu: “Nó bé nhưng gié nó to”. Ý nói về những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng trổ ra những gié lúa trĩu nặng những hạt căng mọng. Những thứ nhỏ bé thường là những thứ quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn như DNA (deoxyribonucleic acid), dạng chuỗi xoắn đôi quá nhỏ bé, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng nó lại khả dĩ duy trì sự sống, khỏe hay yếu lệ thuộc vào nó và nó mang tính di truyền. DNA ở người có khoảng 3 ngàn tỷ cặp base – gồm 4 hóa chất: Adenine (A), Guanine (G), Cytosine (C), và Thymine (T). Thật kỳ diệu, và chỉ có Thiên Chúa mới tạo được như vậy!

Kinh Thánh cho biết về thời đại của Thiên Chúa: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Giessê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.

Đó là sự bình an đích thực, chỉ có ở Vương Quốc của Thiên Chúa. Hòa bình mà chúng ta hưởng ngày nay không vững bền, đôi khi chỉ là hòa-bình-ảo, nghĩa là không có chiến tranh súng đạn nhưng vẫn lo sợ đủ thứ, sợ vì nạn ô nhiễm khắp nơi, ngay cả thực phẩm cũng không an toàn thì làm sao bình an được đây? Ảo giác về hòa bình thôi!

Chưa được hưởng nền hòa bình đích thực vì chưa có công lý nghiêm minh. Có công lý mới khả dĩ có hòa bình. Có thời đại nào kỳ cục đến mức độ phải báo cáo hoặc khai báo khi đi làm từ thiện? Những người hảo tâm muốn làm từ thiện là có tội sao? Thật tồi tệ! Thảo nào tác giả Thánh Vịnh đã từng phải tha thiết cầu xin: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:1-2).

Vương Triều Thiên Chúa rất tuyệt vời, bởi vì Ngài là Quốc Vương Chân Lý, và Ngài chỉ tuyển trạch các quần thần thực sự có lòng nhân ái, vì thế “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8).

Thế lực trần gian luôn coi thường công lý và rất sợ sự thật, đám dân đen luôn bị những kẻ ăn trên ngồi trước đày đạo và áp bức, ăn chặn mọi thứ, kể cả túi mì tôm. Những người hảo tâm biếu một chút thực phẩm và ít tiền thì bị chúng cướp mất. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã nói rất chính xác: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Trái ngược với nhân gian, Thiên Chúa là tình yêu, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn với những kẻ thấp cổ bé miệng: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).

Lời hay thì không thật, lời thật thì không hay, thế nên người ta nói rằng “sự thật thì hay mất lòng”. Thà mất lòng trước rồi được lòng sau. Thiên Chúa luôn thẳng thắn, những người ưa lươn lẹo cảm thấy khó chịu và chói tai khi nghe Ngài giáo huấn, nhưng ai chịu nghe thì sẽ được an tâm và sống thanh thản. Quốc Vương Công Lý là Đức Giêsu Kitô, luôn nói thật và nói thẳng. Không thế cũng không được, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát con người khỏi lầm lạc (x. Ga 8:32).

Kinh Thánh xác định rạch ròi: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc” (Tv 72:17). Chắc chắn như thế. Sự thật mãi mãi là sự thật, người ta có cố ý bóp méo cỡ nào cũng không được. Người Việt cũng có câu: “Cây ngay không sợ chết đứng”.

Kinh Thánh cũng đã nói rõ: “Nịnh hót ai là giăng lưới dưới chân kẻ ấy” (Cn 29:5). Những kẻ bất tài vô dụng thì ưa nịnh bợ, khoái tâng hót. Chắc chắn kẻ nịnh hót là kẻ xấu, không đáng tin, vì họ là kẻ giăng bẫy hại chúng ta. Vậy mà thế gian lại “chuộng” phong cách đó. Thế nên ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã gióng lên hồi chuông cảnh báo: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4 & 6). Con đường đó chính là lòng dạ con người, là chính nếp nghĩ và các động thái khúc khuỷu đầy mưu mô thâm độc. Sửa cho thẳng con đường là một cách thanh lọc cần thiết để tâm hồn trở thành nơi xứng đáng cho Thiên Chúa ngự vào.

Dù có thế nào thì cũng đừng tự ái, đừng tuyệt vọng về tình trạng của mình. Mùa Vọng không chỉ nhắc chúng ta mong chờ Đấng Cứu Thế, mà còn dạy chúng ta duy trì niềm hy vọng. Có “lửa” hy vọng rồi sẽ có thể thắp sáng những thứ khác. Hãy lưu ý “chuỗi liên kết” này: Cuộc sống sẽ chấm dứt khi chúng ta NGỪNG mơ ước, hy vọng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn tin tưởng, tình yêu cũng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn quan tâm người khác. Thật đáng lưu ý biết bao!

Kinh Thánh là kho tàng vô giá, vì mọi thứ đều có thể tìm thấy trong đó. Càng biết Kinh Thánh càng thấy kỳ diệu. Thánh Phaolô cho biết: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15:4). Vững lòng trông cậy tức là tiếp tục hy vọng. Niềm hy vọng là cửa ngõ dẫn tới những vùng miền kỳ diệu mà con người chưa bao giờ ngờ tới.

Là con người, ai cũng rất yếu đuối, vấn đề là có cố gắng hay không. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm như vậy, thế nên ông chân thành cầu mong: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 15:4-6).

Không ai có thể giúp mình bằng chính mình tự giúp mình. Thánh Phaolô cầu mong như vậy, nhưng chúng ta có nỗ lực thay đổi hay lại là chuyện khác. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa” (Rm 15:7-9).

Phục vụ là điều cao cả. Chính Chúa Giêsu đã phục vụ và khuyên chúng ta phải phục vụ lẫn nhau. Phục vụ không hẳn là phục dịch như tôi tớ, mà đơn giản chỉ là yêu thương nhau, thiện cảm phải chân thành thể hiện từ ánh mắt.

Trình thuật Mt 3:1-12 nói về “con người giao thời” có tên gọi là Gioan. Ông là người-nối-kết-Tân-Cựu-Ước, là người tiền phong đi trước “mở đường” cho Chúa Giêsu.

Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đã rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Kinh Thánh cho biết rằng ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. DỌN và SỬA là hai hành động cần thiết: DỌN là làm sạch, SỬA là làm cho ngay ngắn. Phải DỌN trước rồi mới SỬA, không thể làm ngược lại.

Ông Gioan là “dị nhân” thứ thiệt, “bụi đời” chính cống, sống rất giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, thực phẩm là châu chấu và mật ong rừng. Người giản dị là người có chiều sâu nội tâm, thần kinh vững mạnh. Tất nhiên ông cũng có đặc điểm khác người: thật thà và thẳng thắn. Và chỉ vì ông nói thật, nói thẳng, muốn bảo vệ công bình xã hội, bảo vệ luân thường đạo lý nên ông bị những kẻ mưu ác ghét bỏ, toa rập với nhau lấy thủ cấp của ông (x. Mt 14:3-11).

Nghe nói có “anh chàng bụi đời” tên là Gioan ăn nói lưu loát và có phong cách lạ lùng, từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, người ta kéo đến ùn ùn để xem “người cõi trên” thế nào. Có lẽ mới đầu họ chỉ tò mò theo bản tính hiếu kỳ mà thôi, nhưng càng nghe càng thấm. Thế là họ cùng nhau thú tội và xin ông Gioan làm phép rửa cho họ ở sông Gio-đan.

Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến chịu phép rửa, ông biết họ giả vờ để mưu mô chuyện khuất tất, nên ông nói thẳng với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Mèn ơi, nói “xóc óc” ghê đi! Nhưng không thể không nói thẳng với những người giả hình, bề ngoài hiền như chiên ngoan mà bề trong là con cọp dự gầm gừ.

Chắc là họ cũng “chạm tự ái” lắm, nhưng họ không biết nói gì để phản đối, và lại họ thấy ông Gioan “chửi” đúng quá trời mà! Thấy họ im như thóc thối, ông Gioan nói luôn một lèo: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Cách thanh lọc của Thiên Chúa rất kỹ lưỡng!

Những lời của ông Gioan nói với nhóm Pharisêu và Sađốc cũng là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta hôm nay. Có hồn thì tự liệu lấy. Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, thuốc đắng mới đã tật. Phúc cho ai cảm thấy “ngứa tai” và “đắng lòng” khi nghe những lời thật như vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận ra Ngài qua các biến cố của cuộc đời để con kịp chấn chỉnh trong thời gian còn Giờ Thương Xót của Ngài. Xin giúp con dọn sạch và sửa lại đường đời con cho ngay ngắn để con được diễm phúc đón Đấng Emmanuel, Con Yêu Dấu Ngài, ngự vào hôm nay và mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại và luôn ở với chúng con. Amen.

home Mục lục Lưu trữ