Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 87

Tổng truy cập: 1370945

Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU VÀ SINH HOA KẾT TRÁI

Ở lại trong tình yêu và sinh hoa kết trái

(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

 

Tin mừng Ga 15:9-17: Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: “Chính Người đã yêu thương chúng ta”. Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.

Phụng vụ hôm nay phong phú những từ ngữ nói về tình yêu, những từ ngữ đơn giản nhưng thật kỳ lạ, và dường như còn phi thường nữa. Chỉ nguyên bằng một từ rất quen thuộc, “tình yêu”, Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào khám phá chính mầu nhiệm bản thân Chúa Cha và của chính Người, mầu nhiệm tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu và cuộc sống mà Người muốn đưa chúng ta đi vào. Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: “Chính Người đã yêu thương chúng ta” (1Ga 4,10). Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.

1. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 15,9-17

a. Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)

Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho “thật”, còn chúng ta là cành, mà cành thì phải “ở lại” trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Gioan). Đức Giêsu đã lệ thuộc vào Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng đã yêu mến anh em như vậy” (15,9). Đây là những biến cố được xác định trong quá khứ. Đức Giêsu ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống Kitô hữu.

Chúng ta phải “ở lại” trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người “ở lại” trong tình thương của Cha Người. Chúng ta cũng có thể “ở lại” trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình bằng hữu ấy. Chúng ta cũng có thể “ở lại” bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là “ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn; giữ lời]” (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để “niềm vui của Thầy ở trong anh em” và “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài “niềm vui” này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).

Như thế, Đức Giêsu “ở lại” trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Ngài để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các môn đệ sẽ “ở lại” trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhận từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng ta chỉ hiểu điều ta đã nhận khi ta tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.

b. Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17).

Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Hội thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (15,12 nhắc lại 13,34). Hành vi “Thầy đã yêu thương anh em” trong quá khứ phải được thể hiện trong tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống “vì bạn hữu của mình”, “nhân danh bạn hữu mình” (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.

Khi nói đến việc hy sinh tính mạng “vì bạn hữu của mình”, Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là “tôi tớ”, nhưng là “bạn hữu”. Chúng ta chứng tỏ chúng ta là “bạn hữu” của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14 ; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm “tôi tớ của Thiên Chúa”. Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (Gs 24,29 ; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là “bạn hữu”, như Môsê xưa kia là “bạn hữu” của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các “bạn hữu” thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15).

Các kinh sư Do Thái thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ “ra đi và sinh được hoa trái” (c. 16). Hoa trái này được nhắm “ở lại [= tồn tại]” và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13 ; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, “hãy yêu thương nhau” (c. 17).

2. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:

Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quí báu nhất của trái tim Người; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật, là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các “bạn hữu” của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Hội thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta “ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại”, vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.

Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Ngài đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Ngài cho Con của Ngài.

Gợi ý bài giảng:

1. Mầu nhiệm Chúa Cha, mầu nhiệm khởi nguồn.

Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục sinh, công trình của Người đạt được một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về Chúa Cha với các lời mạc khải mới; trái lại chính họ phải đạt tới một khái niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã đi ra và hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu thương nhau.

2. Yêu thương hay không yêu thương?

Từ “điều răn” được Đức Giêsu sử dụng bốn lần nhằm cho thấy rằng “yêu thương” là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn đệ tương lai chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?

3. Bạn hữu của Đức Giêsu.

Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm tôi tớ Thiên Chúa, “làm việc cho Đức Giêsu”, mà quên rằng Người muốn chúng ta trở thành bạn hữu của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc khoải, cô lập sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy, hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn những tôi tớ không biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử trong tình yêu của Chúa Cha.

4. “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy”.

Nói với những con người đang sống trong một cuộc sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà cao ngạo. Đừng nghĩ rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào. Thật ra, họ đã được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu. Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các môn đệ: “ở lại trong Đức Giêsu”, “ở lại trong tình yêu của Người” và “yêu thương nhau”. Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu của Người; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.

 

 

 

 

 

32. Phúc nào hơn được làm bạn với Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

 

Có người nói vui rằng Chúa Giêsu ở trên trời không có mẹ, không có anh em, không có bạn hữu. “Buồn quá”, nên Ngài đã tự nguyện nhập thể làm người để được làm con một người mẹ (Đức Maria), được làm anh em và đặc biệt là được làm bạn hữu với loài người. Nói thế cũng đúng phần nào nếu đặt trong bối cảnh của bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”.

Quả vậy, Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài không viết một tác phẩm nào, cũng không xây một ngôi nhà thờ nào. Nhưng Ngài đến để thiết lập một tương quan mới với con người, tương quan bằng hữu.

Dĩ nhiên tình bằng hữu của Chúa Giêsu đối với chúng ta vượt lên trên tất cả tình bạn tự nhiên của con người. Bởi vì tình bạn ấy được mặc cho một giá trị vô cùng cao quý nhờ cái chết hy hiến của Ngài trên thập giá: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình”.

Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong tương quan tình bạn, chứ không phải là một tương quan nào khác?

Người ta nói rằng mọi thứ tình, kể cả tình yêu đôi lứa, khi phát triển đến mức hoàn hảo đều qui về tình bạn. Nếu đúng như vậy thì rõ ràng đây quả là một quà tặng, một diễm phúc lớn lao mà Thiên Chúa ân ban cho con người chúng ta. Không lớn lao sao được khi con người thân hèn phận mọn được cất nhắc lên địa vị ngang hàng với con Thiên Chúa. Không cao cả sao được khi kẻ thụ tạo yếu đuối tội lỗi được biết tất cả, tất cả chứ không phải chỉ 1/4 hay 1/2 những gì thâm sâu bí nhiệm của cõi thiên giới, như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết”.

Từ đây, con người được được sống trong mối thân tình với Đấng hoá công, được trở nên đồng vai đồng vế với Con Thiên Chúa. Vì là bạn hữu mà! Được gọi danh Giêsu một cách thân thiết, danh mà cả triều thần thiên quốc phải kính tôn; được tâm sự với Ngài một cách thân thương và cởi mở đến độ không còn khoảng cách nữa.

Trước hồng ân cao vời đó, chúng ta được mời gọi sống thế nào, nếu không phải là luôn mặc lấy tâm tình cảm tạ tri ân. Cảm tạ Chúa Cha vì Ngài đã đưa ta vào trong tương quan tình bạn với Ngài. Tri ân Chúa Con vì Ngài đã để lại cho ta một kiểu mẫu tình bạn tuyệt vời, tình của người “hiến mạng sống vì bạn hữu mình”.

Chuyện kể rằng: Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoi, đang đi ngang qua đó. Tolstoi dừng lại, lấy tiền cho người ăn xin, nhưng không còn đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: “Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng mang theo gì”.

Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà lớn nhất rồi”.

Chúa Giêsu không những gọi chúng ta là anh em, Ngài còn gọi chúng ta là bạn hữu, nghĩa là cho ta được trở nên ngang hàng với Ngài. Lẽ nào ta lại không có được tâm tình như người ăn xin trong câu chuyện trên?

Chúng ta còn được gọi mời sống thế nào nữa, nếu không phải là sống tốt tương quan tình bạn với Chúa Giêsu và với anh em mình. Sống tốt tình bạn với Chúa Giêsu, qua việc ở lại trong tình yêu của Ngài, tức là giữ các giới răn. Đồng thời để cho Lời của Ngài ơ lại trong ta, cụ thể là năng tâm sự với Ngài và lắng nghe Lời Ngài. Sống tốt tình bạn với anh em, qua việc nổ lực yêu thương anh em bằng chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho ta. Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng la bạn hữu đúng nghĩa của Chúa.

 

 

 

 

 

33. Yêu như Chúa yêu.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”

Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giờ phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giesu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.

Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu của Chúa Giêsu- một tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho những kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ, và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại Bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.

Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.

Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vậy làm bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.

Yêu người như yêu Chua, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.

Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…

Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.

Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con luôn nhớ lời căn dặn của Chúa, để chúng con luôn biết sống yêu thương nhau, yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, để chúng con luôn làm tròn sứ mạng Chúa đã trăn trối, để chúng con luôn là môn đệ đích thực của Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

34. Dưa hấu là cậu bí ngô

 

“Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”

Đã có một lần nghe lại những câu buồn cười và cười buồn: con cua và con còng đấu phép; đấu bao nhiêu con còng cũng vẫn thua hết, vậy mà con cua lại [bị xử là] thua con còng. Đồng dao về sự đời chua chát là thế, lại lắt léo câu chuyện liên hệ họ hàng khó tin: Dưa hấu là cậu bí ngô; bí ngô là cô đậu nành; đậu nành là anh dưa chuột,.. Nhưng nếu tìm hiểu sâu rộng hơn, sẽ thấy đây là những lời châm biếm đối với những quan hệ cấm kỵ, thậm chí là loạn luân ở cuối thời Lý đầu nhà Trần, mà mục đích chỉ là để bảo vệ ngôi báu, quyền lực. Vì vậy chẳng lạ gì những mối liên hệ “siêu” huyết thống, khi tất cả đều vì là “họ nhà chim”: Bồ các là bác chim gi; chim gi là dì sáo sậu; sáo sậu là cậu sáo đen; sáo đen là em tu-hú; tu-hú là chú bồ-các…!

Mở những trang đầu của “Bổn Lẽ cần cho được rỗi linh hon” (trước đây) của địa phận Vinh, ta đọc thấy: “Hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng nào?”; “Thưa: Đức Chúa Trời là Đấng thiêng liêng, vô thuỷ vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, lọn tốt lọn lành, ở khắp mọi nơi”. Hình như cho tới nay vẫn chưa có một ‘định nghĩa’ nào gọn gàng, đầy đủ và hay hơn về Đức Chúa Trời, tóm tắt những gì một tín hữu Công giáo nghĩ về Chúa của họ, giúp phân biệt hết sức rõ ràng với bụt thần và vô số thần thánh trong tín ngưỡng Á Đông, trong đó có Việt-Nam. VÔ THỦY VÔ CHUNG là ý niệm rõ ràng nhất trong cái trừu tượng thời gian, cái mà toán học dùng ± # để diễn tả sự vô tận. Bên cạnh đó, con người là loài được tạo dựng, càng nên thấp hèn vì đã phạm tội vong ân bội nghĩa. Nhưng cho dù không phạm tôi, thì việc “bắt quàng làm họ” với Đấng Tạo Hoá đã là chuyện không tưởng, ngông cuồng. Ấy vậy mà chuyện ‘đũa mốc chòi mâm son’ lại thành hiện thực. Trời cao đất thấp gặp nhau: Thiên Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung. Và chính Thiên Chúa khi tạo dựng con người theo hình ảnh của Người, chính là ban cho nó cũng được “vô chung”. Bù lại, chính cái ‘hữu thuỷ’ ấy nhắc nhở chúng ta điều mà Chúa Giêsu nói: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1 Ga), Tình Yêu – viết hoa – vô thuỷ vô chung. Tình yêu chúng ta – hữu thủy từ bản thể, nhưng bắt nguồn từ Thiên Chúa – Tình Yêu vô thuỷ vô chung, cho nên đã trở thành ‘vô chung”. Sự tồn tại và giá trị có được là do bắt nguồn, thông hiệp và gắn chặt vào Tình Yêu vô thuỷ vô chung. Đó là ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể.

Tạo dựng chính là Thiên Chúa cho vũ trụ và con người một cái “thuỷ” để từ đó sẽ được phú ban cho sự vô chung, đơn giản là vì tất cả đi vào quỷ đạo Tình Yêu (viết hoa) là Thiên Chúa. Lực hút ly tâm – Tình Yêu vô thuỷ vô chung – từ đó sẽ “nâng cấp” và làm cho mọi loài thọ tạo gắn bó vĩnh viễn với Thiên Chúa, “ở lại trong Tình Yêu Chúa” (Ga 15,9 b). Chỉ những ai tự để một lực khác chi phối và cuốn hút mạnh mẽ ra khỏi lực ly tâm Tình Yêu, thì mới tự loại trừ. Lực ly tâm ấy chính là các giới răn của Chúa, rút cuộc vẫn là ‘tình yêu’: yêu Chúa và yêu anh em. Khi người ta cho Tạo Dựng (creation) và Tiến Hoá (evolution) cái ‘đuôi’ “ism”, (thuật ngữ chuyên môn là thuyết, chủ nghĩa, hoặc đơn giản là: ‘duy’), tức là người ta muốn áp đặt suy nghĩ và tác động của mình, gạt bỏ vai trò Đấng Tạo Hoá và ban cho Tiến Hoá là Thiên Chúa. Tiến hoá vì thế chỉ là bắt đầu cuộc hành trình hữu thuỷ tiến về vô chung. Vũ trụ và con người ví được như cổ máy: Thiên Chúa dựng nên và cho khởi động với đích đến là vô chung, nôm na là muôn thuở muôn đời. Con người, vì thế, lệ thuộc vào Thiên Chúa, vào Đấng Vô Thủy. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa muốn nó ‘vô chung’ như Người. Khác biệt duy nhất, ấy là con người luôn phải hướng về vô chung để hoàn thiện mình trong sự kính uý thờ phượng Thiên Chúa; trong khi Thiên Chúa tự bản thể là Đang vô chung như đã là vô thủy: một cuộc tiến hoá thiêng liêng, cao lên mãi, tăng thêm mãi, tinh luyện trong tình yêu và trong tạ ơn của cái hữu thuỷ đối với Đấng vô thủy vô chung, để chính bản thân được ‘vô chung’. Đó chính là ý nghĩa của Lời Chúa phán với ông Môsê ở biến cố Bụi Cây Cháy: “Je Suis” – Tà Là – Tự Hữu – Vô Thuỷ Vô Chung.

Những năm qua, do khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, đời sống nhà nông ngày càng bấp bênh và bị hấp dẫn bởi những hào nhoáng của đời sống thị thành, lớp thanh niên ở nông thôn kéo nhau ra thành phố kiếm công ăn việc làm. Nhiều gia đình chỉ để lại cha mẹ già trông coi nhà cửa vườn tược, hoặc gửi con nhỏ cho cha me già, để vào nam lập nghiệp. Chưa kể đến những hậu quả tinh thần và đạo đức mà làng xóm truyền thống phải gánh chịu, mà nó còn phương hại đến hôn nhân và gia đình. Người ta đem sức lao động “xuất khẩu”: quả là có đổi đời, đổi nhà đất nhà ngói sang mái bằng, từ thiếu thốn sang đầy đủ tiện nghi hiện đại, nhưng cũng đổi theo chúng là hạnh phúc gia đình đổ vỡ vô phương cứu chữa và vô số tệ nạn thâm nhập vào gia đình và hôn nhân. Nhà nước Việt Nam không thấy được và cũng chẳng màng tới chuyện luân lý, đạo đức, mà chỉ lo một ngày gần đây cạn kiệt lực lượng sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực sẽ bị đe doạ nặng nề, nên đã nghĩ ra đủ kế sách để giữ chân lớp lao động trẻ ở lại nông thôn. Chính sách “ly nông bất ly hương” so ra không mấy khác với ý nghĩa lời Chúa Giêsu hôm nay, ngoại trừ lý do và động cơ. Chẳng ai chấp nhận một cuộc sống bán mặt cho đất bán lưng cho trời quanh năm suốt tháng, chịu bao bất công, thiệt thòi, mà rút cuộc cũng chẳng nuôi nỗi bản thân, để ‘ly nông bất ly hương’. Khi hàng hoá ế ẩm dồn cục, không xuất khẩu được, người ta mới chợt nhó đến nông thôn. Chẳng khác nào dụ khị con nít. [1.000 đồng/ngày là thu nhập bình quân của nông dân làm ruộng. Tính theo năng suất bình quân thu được từ một sào ruộng trong điều kiện canh tác tốt, thời tiết thuận lợi đạt 2,0 – 2,2 tạ thóc/vụ, quy sang tiền là 400 – 440 nghìn đồng. Trừ hết mọi khoản còn lãi gần 100 nghìn đồng chia cho 90 ngày (Trích từ Báo Lao Động số 326 Ngày 21.11.2004)]. Khi tâm tư, suy nghĩ, hành động không hề có chút thuỷ chung, không hề có tình thương, mà chỉ giáo điều,vụ lợi, thì không thể nào có sự gắn bó, không ai có thể gắn bó. Mọi cố gắng móc nối, liên kết, ràng buộc “họ hàng” nếu không sai trái, thì cũng chỉ là giả tạo.

Dưa hấu là cậu bí ngô: đây không phải là mơ tưởng huyển hoặc từ phía con người; không phải là lời động viên, hứa hẹn từ Thiên Chúa, mà là một thực tại do sáng kiến của Đấng Tạo Hoá muốn con người – một khi được Thiên Chúa cho hiện diện trên trần gian, – cũng sẽ hướng về sự sống đời đời, tức là vô chung, trong Thiên Chúa. Tình Yêu Vô Biên là đáp số của những lắt léo, mầu nhiệm nầy. “Với Thiên Chúa, không có gì là không thể được” (Lc 1,27). Thiên Chúa là Tình Yêu: với Tình Yêu, đâu chỉ có “dưa hấu” trở thành “cậu bí ngô!

Tình Ca 154

 

 

 

 

 

35. Phải có hoa hồng trên cây hồng – Guy Morin.

 

Chúng ta đã quen với qui luật về hiệu năng. Tại nhà máy, người ta cho thôi việc người thợ nào sản xuất kém. Cũng vậy, người công dân đòi hỏi phải có những cảnh sát hữu hiệu, bắt được tội phạm. Người làm vườn không thể chấp nhận một cây hồng mà lại không sinh hoa. Ai trong chúng ta chịu để một cây hoa tàn héo trong bồn hoa nhà mình?

Mặc dù Tin Mừng đầy dẫy những cử chỉ nhưng không thế mà người ta cũng gặp nơi đó qui luật về hiệu năng. Chúa Kitô chúc dữ cho cây vả không có trái, kết án người đầy tớ đã chôn vùi nén bạc của mình. Lời Ngài, hạt giống gieo vào lòng con người, phải sinh hoa kết quả. Bản thân Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi qui luật này. “Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất có chết đi thì nó mới sinh nhiều bông hạt”.

Chúa nhật trước chúng ta đã đọc câu chuyện về cây nho mà người ta tỉa những cành không sinh trái. Chúa Giêsu đã nói: “Điều làm vinh danh Cha Thầy là các con mang nhiều hoa trái, và như vậy các con sẽ trở thành môn đệ của Thầy”. Bài Tin Mừng hom nay nói cho chúng ta biết phải sinh hoa trái nào.

Hoa trái, đó là đức ái huynh đệ.

“Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con làm điều Thầy truyền dạy. Điều Thầy truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau”. Qui luật về hiệu năng được áp đặt cho người môn đệ đó là đức bác ái. Không gì thay thế được. Không phải là chuyện xây cất một tòa nhà hay một vương cung thánh đường nhưng là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô bằng tình yêu thương. Giáo Hội có thể triển nở mà không cần nhà thờ nhưng không thiếu những mối tương quan huynh đệ được. Hoa quả làm vinh danh Chúa Cha, đó là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tóm tắt qui luật này một cách mạnh mẽ rằng đao thật là viếng thăm trẻ mồ côi và kẻ góa bụa lâm cảnh cơ cực.

Đức ái huynh đệ không phải là tình cảm cũng không phải là thiện cảm tự nhiên nhưng là vâng phục Thiên Chúa trong và bằng việc phục vụ người đồng loại. Việc phục vụ cụ thể: chia sẻ của cải, nâng đỡ tinh thần, quan tâm đến người nghèo và những người bên lề xã hội, tôn trọng tha nhân. Đối với kẻ thù, việc phục vụ này là kiên nhẫn chịu đựng và cầu nguyện cho họ. Đây là đức ái vô vị lợi. Cho mà không mong đáp trả và không điều tra về công trạng của người được yêu thương. Cứu giúp mọi người và cho đi cách rộng rãi như Thiên Chúa đã làm cho chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô.

Những dấu chỉ nội tâm để nhận ra đức ái huynh đệ.

Khi người Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu thực thi đức ái, đức ái này được biểu lộ nơi những cử chỉ, những thái độ, những lời nói, những cách nhìn và đối xử với người khác. Đó la những dấu chỉ bên ngoài. Nhưng thánh Gioan nêu cho chúng ta ba dấu chỉ nội tâm: biết Thiên Chúa, lời cầu xin được chấp nhận, niềm vui.

Ở khởi điểm, người Kitô hữu trở thành môn đệ bởi vì họ đón nhận tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu. Về sau, nhờ thực thi đức ái huynh đệ, họ đào sâu kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Quả thật, mỗi một cử chỉ huynh đệ nhắc nhở họ nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ trước nơi Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, họ càng ngày càng cởi mở đối với tình yêu của Chúa Cha. Vì tình yêu lớn lên khi tự hiến mình đi.

Một dấu chỉ nội tâm khác, đó là lời cầu xin được chấp nhận: “Tất cả những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”. Tên Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Những lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Giêsu tức là hướng về ơn cứu độ, thì sớm hay muộn, chắc chắn Chúa Cha cũng sẽ chấp nhận. Dấu chỉ này không hiển nhiên. Nhiều Kitô hữu than phiền là Thiên Chúa làm thinh. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra lời đáp của Chúa đối với lời cầu xin của chúng ta. Một lời đáp khó hiểu hoặc làm ta phải bỡ ngỡ.

“Thầy đã nói với các con điều này để cho niềm vui của Thầy ở trong các con và niềm vui của các con được trọn vẹn”. Niềm vui cũng là một dấu chỉ nội tâm cho những ai thi hành đức bác ái. Khi sự sống được triển nở, đó là niềm vui. Mỗi lần đức ái huynh đệ được thể hiện, thì sự sống của Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài tăng thêm nơi chúng ta hơn một chút và trở thành cụ thể. Triều đại của Thiên Chúa tiến một bước vì loài ngươi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đối với họ qua tình yêu của người anh em. Lúc đó, chúng ta là dấu chỉ cho nhau rằng Thiên Chúa tiếp tục hành động và cứu độ. Do đó mà niềm vui, dù niềm vui này thường đi chung với đau khổ.

Sứ điệp.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi sinh hoa kết quả, hoa quả của đức ái. Đức ái sẽ xiết chặt những mối liên hệ giữa tôi với Ngài, sẽ làm cho lời cầu nguyện của tôi mang lại hiệu quả và sẽ ban cho tôi niềm vui của Ngài. Lẽ nào tôi từ chối?

 

 

 

 

 

36. Biết rồi, vẫn phải nói

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12)

Hai từ “yêu thương” đã quá quen thuộc với con người, cách riêng với Kitô hữu. Tình yêu là một đề tài vừa phong phú, vừa hấp dẫn của văn chưong, nghệ thuật, phim ảnh… và luôn mang tính thời sự. Tình của mỗi thời dường như mỗi vẻ và cách kiểu yêu của mỗi giới, mỗi người, thì mang mỗi sắc mầu, nhưng bản chất tình yêu thì trước sau như một. Biết rằng chúng ta phải yêu thương nhau nếu muốn sống như con người, thế nhưng thử hỏi thế nào là yêu thương thì quả thật không dễ trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Ngay cả những việc to lớn như “đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt” thì cũng chưa hẳn là đã yêu thương (x. 1 Cor 13,3).

Có thể nói tình yêu là huyền nhiệm vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Tuy nhiên thánh Gioan Tông đồ lại cho chúng ta một cái nhìn về tình yêu: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Như thế chúng ta có thể nói yêu thương là thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu trong sự tự nguyện đi bước trước và có trả giá cách nào đó.

Thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu: Yêu thương là không chỉ muốn điều tốt cho người mình yêu mà còn thể hiện ước muốn ấy bằng hành vi cụ thể, thực tế. Trong tình yêu đích thực không có sự nửa vời hay giới hạn. Đã yêu là yêu đến cùng. Chính vì thế tình yêu đòi hỏi ta thực thi điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu. Cứu sống nhân loại, giải thoát nhân lại khỏi ách nô lệ thần dữ, đưa nhân loại vào hàng con cái, được thừa hưởng gia nghiệp trên trời, chính là việc Thiên Chúa đã thực hiện để bày tỏ tình Người yêu thương nhân loại chúng ta.

“Sông sâu còn có người dò…”, nhưng để đo mức độ của ước muốn thì như không thể. Làm sao để minh chứng rằng ước muốn của tôi không triệt để? Làm sao để khẳng định rằng tôi chỉ muốn điều tốt loại hai, loại ba cho người tôi yêu mà không phải là điều tốt nhất? Quả thật, khi đã ước muốn thì người ta khó biết mức độ ít nhiều, có giới hạn hay đến cùng. Tuy nhiên qua hành động, thì ta có thể kiểm chứng mức độ một cách nào đó khả dĩ được nhiều người chấp nhận. Thực tế có đó chuyện ta nghĩ rằng mình có muốn điều tốt nhất cho người mình yêu, nhưng chỉ thực hiện điều tốt nhì, tốt ba, tốt thứ tư, điều tốt có hạn chế mà thôi. Khi đã có cái giới hạn thì hình như đã có sự tính toán. Đã có tính toán, có so đo hơn thiệt, thì chưa thực sự là yêu thương. Sư thường: “ăn thì cho và buôn thì so”. Biên giới của tình yêu là tình yêu không biên giới.

Đi bước trước: Đã yêu thì không đợi “con khóc mẹ mới cho bú”. Thánh Kinh trình bày Thiên Chúa là Đấng luôn đi bước trước trong việc thể hiện tình yêu với con người. Ngay khi nguyên tổ sa ngã, thì Thiên Chúa đã hứa ban Đấng cứu độ. Người đã đi bước trước trong việc chọn gọi Abraham để thành lập một dân được tuyển lựa hầu chuẩn bị cho Ngôi Lời vào đời thực hiện công trình cứu độ. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Đức Kiô đã chết vì chúng ta, cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch cùng Người.

Trong động thái đi bước trước, phía người yêu thương thì thể hiện qua việc có sáng kiến, và phía người được yêu thương thì biểu lộ sự kinh ngạc, sững sờ. Kinh Thánh cho ta thấy điều này: Mỗi khi Thiên Chúa trực tiếp can thiệp vào một biến cố lịch sử nào đó thì dân chúng nói chung và những người được tuyển chọn nói riêng đều bàng hoàng, kinh sợ. Các trang Tin mừng cũng tường thuật hiện tượng này rất nhiều lần. Sau mỗi kỳ công mà Chúa Giêsu thực hiện để thi ân giáng phúc, thì dân chúng đều kinh hãi và ca ngợi Thiên Chúa. Có thể nói đây là một tình trạng sững sờ khi chứng kiến một điều kỳ diệu hay được yêu thương bằng một tình yêu vượt quá tầm luận lý thường tình. Đêm Tiệc ly, Phêrô và các bạn đã sững sờ khi Thầy Chí thánh cúi xuống rửa chân cho mình, đến nỗi ông đã vội phản ứng: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13,8).

Sống yêu thương thì không thể ngồi chờ. Vẫn có đó những lý lẽ để bào chữa ráng chưa đủ tài, chưa đủ lực hay chưa đến lúc đến thời… cho những người chưa biết hay không biết yêu thương. Dù chưa đến thời viên mãn thì Thiên Chúa cũng đã tự tỏ bày chương trình yêu thương của Người qua các tổ phụ, các ngôn sứ (x. Dt 1,1). Đã yêu thương thì luôn có đó những việc phải thực hiện, ngay hôm nay và chúng sẽ không ở ngoài tầm tay của chúng ta.

Để sống yêu thương thì phải vác thập giá: Tiền nào của nấy (you get what you pay), câu ngạn ngữ của nền kinh tế thị trường một cách nào đó có thể áp dụng cho tình yêu. Tình yêu thì vô giá. Và hoa trái của tình yêu là kết quả của nhiều nỗ lực hy sinh, quên mình. Yêu thương cách đích thực thì sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống (x. Ga 15,13). Của rẻ là của ôi. Đã ngại khó, sợ khổ, tránh né hy sinh, thì sẽ chẳng bao giờ có được bảo vật đáng trân trọng là tấm lòng biết yêu thương.

Vì yêu thương nhân loại Chúa Kitô đã tự nguyện hy sinh vinh quang và danh dự của một vị Thiên Chúa, để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Vì yêu thương nhân loại đến cùng, Người đã hy sinh cả phẩm giá của một con người bình thường để rồi chịu chết bằng án hình thập giá nhục nhã, như một tội nhân (x. Phil 2,6-8). Vì yêu thương, Người đã tự nguyện ở lại với chúng ta trong hình bánh rượu. Yêu thương nhân loại, Chúa Kitô không chỉ trao ban những gì Người có bằng quyền năng của Người mà Người còn trao ban chính cái Người là, tức chính bản thân, danh dự, phẩm vị, sự sống của Người.

Nhiều người nói rằng mình yêu thương khi sẵn sàng cho đi tiền bạc và cả thời giờ, nhưng lại không chịu được khi bị mất một chút danh dự hay uy quyền, chưa kể là chính mạng sống. Cho đi chút của tiền, quả là không dễ, vì đồng tiền dính liền khúc ruột, nhưng vẫn có thể cho đi cách này cách khác, lúc này lúc kia, và nhất là khi khúc ruột ấy là “khúc ruột thừa”. Cho đi ít thời giờ, cũng không mấy dễ, vì thời giờ là vàng bạc, nhưng vẫn có thể cho đi, nhất là những lúc rảnh rỗi, không biết làm gì. Còn cho đi cái phẩm vị, cái danh dự của mình, thì dường như là quá khó, vì đó chính là bản thân tôi. Thế nhưng, nếu không vượt qua cái khó này thì đừng nói chuyện yêu thương.

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Dù nhiều người đã biết những cũng cần phải nói: Đây là lệnh truyền, là giới răn mới và cũng là một lời trối trăng của Thầy Chí Thánh. Để thực sự là môn đệ của Người, chúng ta không thể xao lãng hay tránh né nó (x. Ga 13,35). Xin đừng yêu nhau bằng môi miệng nhưng hãy can đảm vác thập giá hằng ngày để có sáng kiến, đi bước trước trong việc thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu thương và cho cả những người không yêu thương mình.

 

 

 

 

 

37. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

(Viết theo Flor McCarthy)

 

Lần nọ, có một người thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, một ngày kia anh ta đến gặp một vị linh mục nổi tiếng là thánh thiện. Anh ta hỏi vị linh mục: “cha có tin vào Thiên Chúa không?”. Vị linh mục trả lời: “vâng, cha tin” Người thanh niên hỏi tiếp: “dựa vào bằng chứng nào mà cha tin là có Thiên Chúa.” Vị linh mục trả lời: “cha tin vào Thiên Chúa bởi vì cha biết Ngài, cha cảm nghiệm được Chúa hiện diện trong cha mỗi ngày”. Người thanh niên lại hỏi: “nhưng làm thế nào cha cảm nghiệm được Thiên Chúa.” Vị linh mục đáp: “khi chúng ta yêu thương, chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và sự nghi ngờ lập tức biến mất như sương của buổi sáng dưới ánh nắng mặt trời.

Người thanh niên suy nghĩ về điều này một chút, sau đó anh lại hỏi: “làm sao con có thể đạt được điều này?”. Vị linh mục trả lời: “bằng hành động yêu thương. Hãy cố gắng yêu người thân cận của bạn, yêu họ tích cực và không mệt mỏi. Khi bạn tập yêu thương họ càng nhiều thì sự cảm nghiệm của bạn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về sự bất tử của linh hồn càng sâu sắc. Đây mới là bằng chứng và con đường thật sự về sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Vị linh mục nhắc lại những lời của Thánh Gioan: “các con thân yêu, các con hãy yêu thương nhau, bởi vì tình yêu đến từ Thiên Chúa; ai yêu thương thì người đó sinh ra từ Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.

Tình yêu là điều kiện đầu tiên để hiểu biết đúng đắn về cuộc sống và cảm nghiệm đặc biệt về Thiên Chúa. Như cha Zosima đã nói trong quyển “anh em nhà Karamazov” của Dostoevsky: “các con hãy yêu thương tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên, cả vũ trụ và những hạt bụi nhỏ bé trong đó. Nếu con yêu thương tất cả chúng, các con sẽ có được cái nhìn thiêng liêng về chúng. Van Gogh cũng nói tương tự như thế: “cách tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương mọi sự: yêu bạn bè, yêu vợ chồng… và bạn sẽ nhận biết Thiên Chúa cách đúng đắn.”

Tình yêu là vị thầy tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng nó không đến theo ý thích cá nhân ta… mà chúng ta phải trả bằng cái giá thật đắt. Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn nhiều năm để một con người có thể đến đỉnh điểm nào đó mà anh ta hoặc cô ta có thể yêu.

Có một khoảng cách, một sự khác biệt to lớn giữa biết Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Không yêu thì không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta yêu thương thì khoảng cách đó được rút ngắn lại. Yêu thương là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu thì có Thiên Chúa; nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có tình yêu. Biết thì không cần phải chứng minh và cũng không cần phải giải thích.

Ghen ghét là một tật xấu, chính tật xấu này làm cho ta ghét mọi thứ. Thật là cao quý và quảng đại khi con người yêu thương mọi thứ, thậm chí chỉ là một bụi hồng. “Chính bản thân cảm thấy hài lòng khi chỉ là một người giữ vườn âm thầm, nhỏ bé để yêu mến những gì mình vun trồng” (Von Gogh).

Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta được Thiên Chúa phú bẩm một khả năng để yêu thương. Tuy nhiên, chúng ta cần phải để tình yêu nảy nở trong tim một cách đúng đắn, mô phỏng theo tình yêu của Chúa. Khi đó, chúng ta sẽ biết cho đi nhiều hơn. Nhưng tiếc thay, con tim thì thường hay lạnh lùng và thường hay đóng kín, trống rỗng và khô khan… Chúng không nên ngạc nhiên về điều này. Vì người ta quan niệm rằng chúng ta có một con tim bằng thịt chứ không phải bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương nơi con tim mình, để chúng ta có thể sản sinh nhiều hoa trái yêu thương.

Hình ảnh của Thiên Chúa trở nên tốt nhất và sáng tỏ trong mỗi người khi chúng ta biết yêu thương.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ một điều răn mới: “là hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương”. Xin Chúa hãy chạm vào trái tim con để con có thể yêu thương như Chúa, để con luôn vui sống trong bình an và sự hiệp nhất trong Nước Trời nơi mà con sẽ sống mãi mãi. Amen.

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ