Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 74
Tổng truy cập: 1366323
ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA (*)- Chú giải của Noel Quession
Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô
Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không “ở bên ngoài” thế gian, trên mây gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế tục. Một “lịch sử Thánh” phát triển giữa những biến cố thế giới. Như Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa “nói” và “hành động” trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và văn hóa ngày nay không?
Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa là khoảng năm 28 hay 29.
Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải, hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma. Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, “Tin Mừng”, phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc “Công vụ Tông Đồ” (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu… Hoàng đế Tibêriô.
Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: “Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô… Phongxiô Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người “cứng rắn và không xót thương”, theo người lân cận của ông là Hêrôđê Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.
Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng và đàn áp không chút nương tay thế đó!
Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người “hợp tác”. Uy quyền thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là “con cái Israel” (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân “ngoại giáo” (Iturê – Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì đây là một chỉ dẫn “thần học”: Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và Caipha làm thượng tế
Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại.
Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.
Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự: mà là một “phát ngôn viên”, một “ngôn sứ”, Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ “bên trong” những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị. “Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng” (Lc 1,52). Một “lời”, từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch sử – Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?
Trong hoang địa
Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng, xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? “Hãy nghe đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên đường, có người đang đến gặp ngươi!”. Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?
Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?
Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau: “Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại”.
Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm tĩnh, nhưng đó là một cái “loa phóng thanh” với âm lượng được vặn tối đa. Chữ Hy Lạp “Kérygme” có nghĩa là “tiếng la”, lời “tuyên bố”. Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa “như thế”, nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía Chúa, phải “lao mình” vào Ngài! Chữ “batisma” phép rửa, gọi lên hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín, không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ: “Tôi muốn thay đổi cuộc sống… và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh”.
Phép rửa là một tự nguyện dìm chết “con người cũ” để cho “con người mới” tái sinh (Rm 6,6-7,6 – Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai… mà có thể chúng ta muốn lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh.
Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta “quay trở lại với Chúa” cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế ngự kẻ khác, v.v…
Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do. Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do “thừa tác viên” thi hành bí tích, nói “nhân danh chính Chúa Kitô” (in persona Christi). Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự thú nhận cá nhân hay tập thể.
Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức Giêsu trong chính hành vi Người “Tự hiến để tha thứ tội lỗi”, trong hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để “hướng về” Thiên Chúa.
Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao! Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có “xưng tội riêng”, không đau đớn gì?
Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là “Cứu chuộc”. Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta “hôm nay đang gieo trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- C
HÃY DỌN ĐƯỜNG – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Lời hoạt động trong lịch sử con người
Chúa nhật trước, chúng ta mượn ở Tin Mừng Luca một trích đoạn bài diễn từ mang tính cánh chung, diễn từ về “tiến trình dài dẫn đến giải phóng” (H. Cousin). Hôm nay, với lời kêu gọi và rao giảng của Gioan Tẩy Giả, chúng ta đang ở vào giai đoạn đầu của tiến trình ấy.
Bản văn hướng ta về một thời kỳ dài có nhiều báo trước một kỷ nguyên mới của lịch sử.
– Tiên vàn hoạt động khởi sự được ghi vào lịch sử Israel một cách thật trang trọng, bằng cách nhắc đến tên tuổi của sáu nhân vật:
+ Năm vị đầu là những vị đại diện cho quyền lực chính trị hiện hành tại Palestin và trong một vài tỉnh lân cận.
+ Vị thứ sáu đứng đầu giới tư tế mà sau này cùng với Philatô và Hêrôđê sẽ là những người đóng vai trò tích cực trong cuộc Khổ nạn của Chúa theo Tin Mừng Luca 22 và 23.
Công việc mở đầu này, như tác giả xác định rõ, xảy ra vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô”, tức là năm 28.
Vai chính của trang sử này, mặc dầu không ai nhìn thấy, cuối cùng cũng được chỉ định là chủ thể của suốt thời kỳ dài lâu này. Đó chính là “lời của Thiên Chúa”.
Chủ thể ấy được giới thiệu ở cuối câu, khi nói về người được kêu gọi làm trung gian của lời này: “Gioan con ông Dacaria”.
“Việc sử dụng nhiều chi tiết trang trọng như thế để xác định về mặt lịch sử buổi khai mào sứ mệnh của ông Gioan, theo Roland Meynet nhận xét, là điều không cần thiết. Vả chăng, không phải dể xác định rõ ràng về mặt đia lý một địa danh bé nhỏ của Đế quốc, mà tác giả Luca đã muốn kể ra những địa danh khác nhau là tên tuổi những vị tổng trấn và tiểu vương nắm quyền cai trị trên những miền đất ấy. Cuộc “diễu hành” của những nhân vật tai to mặt lớn kia là hoàng đế Rôma là người dẫn đầu, thực ra có một cái gì long trọng và gây ấn tượng khác thường đế nói lên tầm quan trọng lớn lao của sự việc đang xảy ra. Và những con người đang sát cánh với nhau khi ấy, là Do Thái hay Rôma đang cai trị Israel hay những miền dân ngoại, đều phải mắt thấy tai nghe về một sự việc có liên can tới họ hết thấy. Việc gì xảy ra với Giêsu, thì có liên can tới tất cả mọi người trên toàn thế giới (“Tin Mừng theo thánh Luca”. Phân tích tu từ”, Cerf, trg 44).
Gioan, người trung gian cho Lời:
Hai câu đầu đã chỉ cho ta thấy gốc gác con người của Gioan: ông là “con ông Dacaria” và sứ mệnh của ông có gốc gác của Thiên Chúa: Ông đã được “lời Thiên Chúa” kêu gọi. Giờ đây bóng dáng của vị ngôn sứ được rõ nét.
Nơi Gioan thi hành sứ vụ là “vùng ven sông Giođan”.
Chính ở đó, ông rao giảng một “phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”.
Giống như các thánh sử khác, Luca định nghĩa cho sứ mệnh của Gioan từ sách Isaia đoạn 40: “Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: “Có tiếng người hô to trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đườn g của Đức Chúa”.
Nhưng chỉ có mình Gioan là người theo đuổi cho đến cùng lời trưng dẫn sau đây: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Tin Mừng mà Gioan loan báo chính là Thiên Chúa cứu độ, và ơn cứu độ của Người dành cho hết mọi người. Điểm phổ quát này, chính Luca, người ngoại giáo trở lại đón nhận đức tin đã làm vang dội lên trong 2,30-31 rồi khi đặt vào miệng ông già Simêon lời ca: “Vì chính mắt con dược thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.
Điểm son ấy, Luca sẽ không ngừng làm vang lên trong tác phẩm của mình, mà Phaolô sẽ là người đưa ra phần kết khi tới Rôma, kinh đô của đế quốc “Vậy xin anh em biết cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gởi đến cho các dân ngoại, họ thì họ sẽ nghe” (Cv 26,26).
BÀI ĐỌC THÊM
1/. Chính hôm nay, ta phải dọn sẵn con đường cho Chúa.
Đây là giờ phút phải lựa chọn và quyết định, phải đắm mình vào tầng sâu của nội tâm sám hối, để tính toán việc loại bỏ đi những chướng ngại cản đường Chúa tới giải phóng: Cái đáng ăn thua là được trở thành một thọ tạo mới, trở nên những con người đã được tôi luyện và can trường.
Vậy để cho Thiên Chúa có thể đi đến được, ta hãy khai mở những con đường thênh thang của tâm hồn rộng mở và chan hòa yêu thương, hãy đạp đổ những bức tường cách ngăn kỳ-thị và phân biệt chủng tộc. hãy cất đi những rào chắn của tư lợi nhỏ nhen, hãy đập tan những xiềng xích bất công và bất bình đẳng mà người ta đang la ó đả đảo, hãy để cho lưỡi gươm Lời Chúa được thảnh thơi tung hoành, hãy thức dậy và đứng thẳng người lên”.
2/. “Chính hôm nay, ta phải khai mở những con đường”. (J. Debruync, trong “Jesus, son Evangile”, Descléc, trg 14- 16).
Tin Mừng thánh Luca cho rằng Ngôn sứ Isaia đã nhìn thấy tiếng nói ấy đến từ xa: một tiếng nói phát ra như tiếng hô to vang lên giữa nơi hoang đia, rằng:
Hãy khai mở con dường của Chúa. Hãy dọn sạch khắp mọi nẻo đường! Con đường thẳng tắp giữa chốn hoang vu, mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải san thấp xuống, lối quanh co, phải uốn cho ngay đường lồi lõm phải san cho phẳng, rồi hết mọi người phàm sẽ được thấy ơn Cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Nếu đường đi cần được mở, là để ta đi tới nơi kia. Vậy là hiện có một nơi. Và đường dẫn tới cho người khát khao.
Đường kia phải mở làm sao, để không còn những hàng rào chặn ngang. Đường đi rộng rãi thênh thang, để ta vui bước mà lòng thảnh thơi.
Vẫn luôn có một con đường giải thoát, để con người không còn phải sống cảnh tù đày, để hy vọng luôn chiếu sáng con tim, và để tầm nhìn không còn bị mây mù che lấp.
Nếu phải mở những con đường, chính là để ta phải cất bước ra đi, là để ta phải mau mắn lên đường, để cho Lời cùng ta vui bước.
Nếu phải mở những con đường, thì cần phải có những bước chân khai sáng. Những kẻ vạch đường. Những kẻ tìm ra bao người không ai biết đến. Những người thích đi chinh phục những thế giới mới. Những bàn tay dám đục đá vá trời. Những ai biết vượt khó vượt nguy. Những ai biết khai phá, mở lối cho tương lai. Những ai biết khoan đường hầm để lần ra ánh sáng.
Nếu phải mở những con đường, là vì tha nhân mà tôi vẫn hững hờ, thì nay phải trở nên người khẩn thiết. Tha nhân ở đàng kia kìa. Tôi phải vội vã lên đường, tôi phải đi để gặp cho được.
Thật bất ngờ. Không còn phải là lề luật mới là con đường tốt. Chính là con đường trở thành luật; Không còn phải là quy tắc cho thấy rõ con đường phải đi, mà chính là đường đi định ra quy tắc.
Vậy đây còn phải là Đền Thờ làm ra lề luật. Đền Thờ đích thực, từ nay chính là con đường.
Vậy Thiên Chúa không còn ở trong bốn bức tường nữa, Người đang đi trên đường”.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- C
ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng chuẩn bị cho người tín hữu tâm tình chờ đón Chúa đến. Giáo Hội mời gọi người Ki-tô hữu tìm lại ý nghĩa của việc Chúa đến qua những bản văn Kinh Thánh.
Br 5: 1-9
Bài Đọc I, trích từ một bản văn rất muộn thời, mô phỏng lại những đề tài về cảnh lưu đày tại Ba-by-lon và cuộc hồi hương trở về. Thiên Chúa sẽ đích thân đến cứu dân Người và dọn sẵn một con đường để dẫn họ trở về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Pl 1: 4-11
Bài Đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh Phao-lô kêu mời người Ki-tô hữu hãy thăng tiến trên con đường thánh thiện và mở rộng lòng mình trước ân sủng để sống trong tâm thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Ki-tô trở lại.
Lc 3: 1-6
Tin Mừng tường thuật bước khởi đầu sứ vụ của thánh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền Hô khuyên bảo mọi người hãy sống trong tâm thế sẵn sàng đón chào Đức Ki-tô sắp ngự đến.
BÀI ĐỌC I (Br 5: 1-9)
Ông Ba-rúc là “bạn tâm giao” và là “thư ký” của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, nhưng không là tác giả của sách mang tên ông. Sách Ba-rúc này được viết rất muộn thời, chắc chắn từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Sách này thật sự là một tuyển tập: những phần khác nhau của sách không do cùng một tác giả và cũng không thuộc cùng niên biểu.
1/.Bối cảnh:
Dù thế nào, sách Ba-rúc đưa chúng ta trở về thời kỳ trào lưu ngôn sứ vắng bóng từ lâu, người ta lấy lại những bản văn cũ, suy niệm chúng và thích ứng chúng (như chúng ta đã đọc bản văn của Giê-rê-mi-a được sửa đổi ở Chúa Nhật I Mùa Vọng). Người ta cố gắng hiện tại hóa sứ điệp khi đặt nó dưới sự bảo trợ của một nhân vật quá khứ nổi tiếng. Tác giả của sách Ba-rúc cũng theo một cách thức như vậy (thể loại văn chương này được gọi là “trào lưu ngôn sứ ẩn danh”).
Tác giả chọn cảnh giam cầm tại Ba-by-lon làm khung cảnh lịch sử, bằng cách tưởng tượng ông Ba-rúc ở giữa những người lưu đày, để báo trước cho họ biết họ sắp được trở về quê cha đất tổ và kêu mời Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng. Thật ra, ông Ba-rúc cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị phát lưu sang Ba-by-lon. Những đề tài, hình ảnh, ngôn từ được mượn ở I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày, cũng như ở I-sai-a đệ tam (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời kỳ những người lưu đày được hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
2/.Sấm ngôn:
Rất dễ nhận ra đoạn văn Ba-rúc này mô phỏng vài bản văn của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và I-sai-a đệ tam (Is 56-66), ở đó chúng ta gặp thấy cũng một lời mời gọi thành thánh Giê-ru-sa-lem hãy vui lên như thế:
“Hỡi Xi-on, thức dậy, thức dậy đi, hãy biểu dương sức mạnh!
Hỡi thành thansah Giê-ru-sa-lem, hãy mặc lễ phục huy hoàng!
Vì từ nay kể không cắt bì cũng như người ô uế
sẽ không còn bước vào thánh điện nữa.
Hỡi Giê-ru-sa-lem bị tù đày, hãy giũ bụi, đứng lên!
Nào thiếu nữ Xi-on bị tù đày, hãy mở tung xích xiềng buộc cổ!” (Is 52: 1-2).
“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60: 1-4).
Và cũng ở đó chúng ta cũng gặp thấy chính thành thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng như vậy:
“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa,
nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!
Vì Người mặc cho tôi đức chính trực công minh,
như chú rễ chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61: 10).
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sánh ví rồi cuộc hồi hương của những người lưu đày với cuộc Xuất Hành mới ở đó Thiên Chúa còn thực hiện những điều kỳ diệu cho dân Ngài:
“Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,
mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng,
chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40: 4).
“Và trong vùng hoang địa,
Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu;
trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật
nào trắc bá, nào du, nào hoàng dương” (Is 41: 19).
3/.Những danh hiệu biểu tượng:
Những danh hiệu mà tác giả sách Ba-rúc gán cho Giê-ru-sa-lem như “Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính” hay “Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa”, được định vị vào hàng những danh hiệu thuộc trào lưu ngôn sứ: ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã trao cho Giê-ru-sa-lem danh hiệu “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta” (Gr 33: 16); ngôn sứ I-sai-a đệ tam gọi thành thánh là “Xi-on-của-Đức-Thánh-Ít-ra-en” (Is 60: 14) hay “Thành-không-bị-bỏ-rơi” (Is 62: 12), vân vân.
Bù lại, việc Thiên Chúa được gọi là “Đấng Vĩnh Hằng” là một nét mới và đặc thù của sách Ba-rúc. Danh hiệu này được lập đi lập lại đến bảy lần trong toàn bộ bài thơ; đây là một ví dụ độc nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Qua đó tác giả nhấn mạnh: tất cả những gì Thiên Chúa làm đều “vĩnh hằng”: “mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi”, “Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi…”.
4/.Hiện tại hóa sứ điệp:
Vấn đề tất yếu được nêu lên: tại sao có sự mô phỏng này? Tại sao mô phỏng theo cách thức này? Tại sao “loan báo” cuộc hồi hương vốn đã xảy ra bốn trăm năm trước đó? Tại sao thánh thánh Giê-ru-sa-lem lại được tán dương nhiều thế kỷ sau này? Phải đọc ẩn dụ này như thế nào để gặp lại độ nhạy bén của những người đương thời mà tác phẩm gởi đến?
Thay vì đọc và nghĩ đến “những người Do thái lưu đày”, chúng ta nên đọc và nghĩ đến “những người Do thái tha hương”, điều này giúp chúng ta giải đáp được một phần điều bí ẩn này. Đây là những cộng đoàn Do thái Hải Ngoại gởi gắm những tâm tư nguyện vọng của mình vào nơi sách Ba-rúc. Bị phân tán trong thế giới Hy-La và trong miền Trung Đông, sống xa thành thánh Giê-ru-sa-lem, các cộng đồng này cảm thấy mình như “những kẻ lưu đày”; tuy xa mặt nhưng không cách lòng: mọi tâm tư tình cảm của họ đều hướng về Thành Thánh; họ hiệp nhất với Thành Thánh qua lời cầu nguyện (phần thứ nhất của sách Ba-rúc), qua việc thực hành Lề Luật, tức sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (phần thứ hai của sách) và qua niềm hy vọng (phần thứ ba, từ đó đoạn trích dẫn của chúng ta).
5/.Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a:
Bản văn được đọc lại trong viễn cảnh này: bài thơ ca ngợi tán dương thánh thánh Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a. “Ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa” sẽ được biểu lộ trong Thành Thánh. Thành Giê-ru-sa-lem sẽ là Thành Đô Bình An vì được xây dựng trên sự công chính, tức là sự thánh thiện của Thiên Chúa; Thành Thánh sẽ rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa, do “lòng kính sợ Thiên Chúa”. Chính “Lời Đấng Thánh” sẽ quy tụ mọi con cái Thiên Chúa. Kỷ nguyên Mê-si-a này sẽ là Triều Đại chứa chan niềm vui, tràn ngập ánh sáng “của lòng từ bi và sự công chính của Người”.
Người Do thái đã đọc lại bài thánh thi này vào năm 63 trước Công Nguyên, để lấy lại can đảm sau khi tướng Rô-ma là Pom-pê đánh chiếm Giê-ru-sa-lem; họ cũng đã đọc lại bài thánh thi trong nước mắt vào ngày kỷ niệm các đạo binh của tướng Ti-tô phá hủy Đền Thờ thành bình địa vào năm 70; như vậy họ khẳng định niềm hy vọng muôn đời bất biến của họ.
Người Ki-tô hữu đọc bản văn này bởi vì họ hiểu được tầm quan trọng mang tính ngôn sứ của bài thơ này: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Ngài “để dân Ngài tiến bước bình an dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người”.
BÀI ĐỌC II (Ph 1: 4-6, 8-11)
Thánh Phao-lô thiết lập cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên ở thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a, trên vùng đất Châu Âu vào năm 49-50, khi thánh nhân dự tính thực hiện một cuộc mạo hiểm lớn: vượt qua biển Ê-gi-ê để loan báo Tin Mừng cho một lục địa khác.
1/.Bối cảnh:
Thành Phi-líp-phê được đặt tên theo vua Phi-líp-phê II, thân phụ của A-lê-xan-đê đại đế. Sau khi đã sáp nhập miền này vào năm 360 trước Công Nguyên, vị đại đế Hy lạp này đã tái thiết và phát triển thành phố. Vào năm 42 trước Công Nguyên, hai tướng Rô-ma, Mác-cô An-tô-ni-ô và Ốt-ta-vi-a-nô (Âu-gút-tô), đã đánh bại Bru-tô và Ca-xi-ô, và đã thiết lập một khu cho các cựu chiến binh thuộc các binh đoàn chiến thắng. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố đã trở thành một đô thị Rô-ma, có quan tổng trấn Rô-ma cai trị và được cấu trúc theo kiểu thành thị Rô-ma.
Vào năm 56 hay 57, thánh Phao-lô có dịp gởi một bức thư cho các Ki-tô hữu Phi-líp-phê. Đối với thánh nhân đó là một niềm vui, vì ngài rất quý mến giáo đoàn này, vả lại họ đã chứng tỏ tấm lòng trung thành đến cảm động. Thánh nhân đã hai lần chấp nhận sự hỗ trợ vật chất của các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu này, trong khi ngài từ chối bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía các cộng đoàn Ki-tô hữu khác. Thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê bộc lộ lòng quý mến của thánh nhân đối với giáo đoàn này mà không có bất kỳ hậu ý trách cứ cũng như vấn đề đạo lý; bức thư này cũng là bức thư hấp dẫn nhất.
Phụng Vụ chọn đoạn văn hôm nay vì nó gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại và cách thức người Ki-tô hữu chuẩn bị chờ đón. Đoạn văn này gồm có hai phần, chứa đựng một suy tư thần học có tầm mức lớn lao theo hình thức tạ ơn và khuyến dụ.
2/.Công trình của Đức Giê-su:
Trước hết, thánh Phao-lô nói lên niềm vui và lòng biết ơn của mình đối với các tín hữu Phi-líp-phê vì họ nhiệt tâm đối với Tin Mừng và góp phần vào sứ mạng tông đồ của ngài; thánh nhân nhận ra đó là công việc tốt lành của Thiên Chúa ở nơi họ. Viễn cảnh này vẫn là một quan điểm thường hằng của thánh nhân: chúng ta không thể tự mình thánh hóa chính mình bằng sức riêng của mình, như vậy thánh Phao-lô khẳng định “quyền ưu tiên của ân sủng”.
Tuy thế, người Ki-tô hữu phải luôn luôn sống trong tâm thế sẵn sàng, đó là điều tất yếu. Thánh nhân cũng gởi đến các tín hữu Phi-líp-phê những khuyên nhũ khẩn thiết bằng những lời lẽ trìu mến.
2/.Sự cộng tác của con người:
Sau khi bày tỏ niềm vui, thánh Phao-lô nói lên tâm tình của mình: thánh nhân nhắc các tín hữu Phi-líp-phê nhớ đến tấm lòng của ngài đối với họ: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi, là tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giê-su Ki tô”. Từ ngữ Hy lạp diễn tả “tình thương của Đức Ki-tô” theo nghĩa rất mạnh; nó gợi lên “tình phụ tử”; Đức Ki-tô đã sinh ra họ trong đức tin qua sứ vụ của vị tông đồ của Ngài; vị tông đồ yêu thương họ bằng tình yêu có nguồn gốc ở nơi tình yêu của Đức Ki tô.
Qua lời khẩn nguyện dâng lên Thiên Chúa, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê hãy kiên tâm bền chí: động lực thăng tiến tinh thần của họ cốt ở nơi tình yêu, vừa lòng mến đối với Thiên Chúa vừa đức ái đối với nhau. Chính nhờ tình yêu này mà họ đạt được “ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên”. Thánh Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân định: “nhận ra cái gì là tốt hơn” mà thánh nhân thường lập lại ở đây. Sự phân định này là một khía cạnh của đức khôn ngoan Ki-tô giáo, đổi mới thật sự lòng trí con người.
3/.Ngày của Đức Ki-tô:
Trong đoạn văn này, thánh Phao-lô hai lần nhắc đến “ngày của Đức Ki-tô”. Như hai thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê làm chứng rằng các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên nao nức mong chờ ngày Quang Lâm của Đức Giê-su Ki-tô sắp đến gần. Vào ngày đó, những người Ki-tô hữu phải được tinh tuyền và không làm gì đáng trách, sinh nhiều hoa trái dồi dào từ đời sống công chính nhờ Đức Ki-tô (từ ngữ công chính theo nghĩa Kinh Thánh là sống cuộc sống đạo hạnh phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa). Chúng ta gặp lại ở đây Thần Học về ân sủng. Đây là phương thức quen thuộc của thánh Phao-lô, thánh nhân thích lập lại ở phần cuối lời khẳng định ban đầu.
Tất cả cuộc sống Ki-tô hữu này, được định vị trong Đức Ki-tô, nhằm một mục đích tối hậu là “tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa”. Đây là cứu cánh của con người.
TIN MỪNG (Lc 3: 1-6)
Thánh Lu-ca giới thiệu sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả với lời mào đầu long trọng (3: 1-2), qua đó thánh ký định vị biến cố này vào trong lịch sử thế giới khi trích dẫn hoàng đế Rô-ma. Điều này cho thấy thánh Lu-ca quan tâm đến lịch sử, tuy nhiên thánh ký cũng muốn nói rằng lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, loan báo kỷ nguyên cứu độ, liên quan đến hết mọi người. Chính cũng vì lý do này, khi viện dẫn Is 40, thánh Lu-ca tuân theo truyền thống Mc 1: 3 và Mt 3: 3; tuy nhiên, thánh Lu-ca đem đến một điều mới mẽ khi trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của I-sai-a, vì sấm ngôn này chấm dứt với những từ: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Qua câu này, thánh Lu-ca khẳng định tính cách phổ quát của ơn cứu độ mà Is 40: 6 đã loan báo, cũng như thánh Lu-ca đã nói trước ở 2: 30-31: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.
1/.Bối cảnh lịch sử (3: 1-2a):
Lời mào đầu giới thiệu sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả trước quần chúng một cách long trọng trong bối cảnh lịch sử thế giới qua đế quốc Rô-ma; lịch sử trong và ngoài miền đất Pa-lét-tin qua ba tiểu vương, các con của vua Hê-rô-đê Cả; cũng như lịch sử dân thánh qua hai vị thượng tế vào thời đó.
-“Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô”: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô xem ra từ ngày 1 tháng 10 năm 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 28. “Thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê”, tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Kể từ năm thứ sáu Công Nguyên, miền Giu-đa không còn có chính quyền bản địa nữa; vào năm này chính quyền Rô-ma đã truất quyền vua Ác-khê-lao, con và người kế vị vua Hê-rô-đê Cả, và nắm quyền trực tiếp trên miền Giu-đê, miền thường gây ra những cuộc bạo động. Như vậy miền Giu-đê có một thể chế đặc biệt. Chúng ta biết điều đó trong cuộc xét xử Đức Giê-su.
-“Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê”: Miền Ga-li-lê vẫn duy trì chính quyền bản địa do tiểu vương Hê-rô-đê, biệt hiệu An-ti-pa, con Hê-rô-đê Cả. Chính vị tiểu vương này đã giết Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su bị điệu đến trước ông.
-“Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít”: Tiểu vương Phi-líp-phê, cũng là con của Hê-rô-đê Cả, cai trị lãnh địa đông bắc biển hồ Ti-bê-ri-a. Ông là vị tiểu vương ôn hòa, không nhiệt thành lắm với Do thái giáo, thậm chí ưu đãi những việc thờ cúng ngoại giáo.
-“Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên”: Miền A-bi-lên là một lãnh địa nhỏ bé được định vị ở Anti-Liban, phía tây Đa-mát. Tiểu vương Ly-xa-ni-a rất ít được biết đến. Vì thế người ta có thể tự hỏi trong danh sách của thánh Lu-ca vị tiểu vương này đóng vai trò gì. Đế quốc Rô-ma cho ba người con của Hê-rô-đê Cả làm tiểu vương ba lãnh địa, hai trong đất Pa-lét-tin và một ở ngoài đất Pa-lét-tin. Thật hợp lý khi kể thêm tiêu vương Ly-xa-ni-a cho đủ số ba người con của Hê-rô-đê Cả. Nhưng lý do thật sự xem ra còn sâu xa hơn. Rõ ràng ý định của thánh Lu-ca là muốn thông tri cho đọc giả hiểu rằng “biến cố Gioan Tẩy Giả” vượt quá bên ngoài ranh giới miền đất Pa-lét-tin.
-“Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế”: Sau khi nói đến thế quyền, thánh Lu-ca đề cập đến giáo quyền: Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, và Cai-pha, người con rể, vị thượng tế đương nhiệm. Kha-nan được nêu tên, vì thế lực của ông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn. Theo thánh Gioan, sau khi bị bắt, Đức Giê-su bị điệu trước tiên đến thượng tế Kha-nan, sau đó mới đến thượng tế Cai-pha.
Đối diện với thế quyền và giáo quyền này, thánh Lu-ca đưa vào một nhà khổ hạnh sống ẩn dật trong hoang địa, ông Gioan, con ông Da-ca-ri-a. Chính nơi nhân vật khiêm hạ này mà Lời Chúa được gởi đến.
2/.Sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả (3: 2b)
“Có Lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gioan trong hoang địa”. Thánh Lu-ca mượn văn phong Kinh Thánh để mô tả ơn gọi ngôn sứ như Hs 1: 1 hay Gr 11: 1. Như vậy thánh ký ghi nhận rằng ông Gioan Tẩy Giả là một vị ngôn sứ, ông nói với tư cách một vị ngôn sứ. Sự kiện này lại càng gây chú ý hơn nữa vì từ năm trăm năm qua đã không có một ngôn sứ nào xuất hiện.
Ông Gioan xuất thân từ gia đình tư tế; cha ông, ông Da-ca-ri-a, là tư tế phụng sự đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ấy vậy, chức vụ tư tế của dân Ít-ra-en là cha truyền con nối. Ông Gioan khước từ chức vụ và danh dự này; được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ông vào sống ẩn mình “trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (Lc 1: 80).
Hoang địa này là sa mạc Giu-đê, dưới chân những ngọn đồi khô cằn, trong miền này được định vị giữa thành Giê-ri-cô và địa danh Qum-ran, có dòng sông Gio-đan đổ nước vào Biển Chết. Để thi hành sứ vụ của mình, ông Gioan Tẩy Giả tiếp cận với dân cư quanh vùng: “Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan”.
3/.Phép rửa tỏ lòng sám hối (3: 3)
Phép rửa mà Gioan Tẩy Giả đề xướng không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tỏ lòng sám hối. Các vị lãnh đạo Do thái giáo đòi buộc các dự tòng muốn gia nhập vào cộng đồng Ít-ra-en phải chịu phép rửa cùng với phép cắt bì. Các nghi thức thanh tẩy thì rất nhiều; thậm chí người Do thái thời hậu lưu đày vì lòng sốt sáng đã thêm một số lượng lớn; nghi thức thanh tẩy được thực thi hằng ngày và đa dạng tại các tu sĩ Qum-ran. Nhưng phép rửa mà Gioan đề xướng là một nghi thức duy nhất, bất khả lập lại, cũng không thuần túy chỉ là nghi thức. Thanh tẩy của thánh nhân là dấu hiệu thanh tẩy nội tâm, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng tự nó chưa có quyền ban ơn tha thứ này.
4/.Ơn cứu độ phổ quát (3: 4-6)
Cả bốn tác giả Tin Mừng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị hứa với những người lưu đày ở Ba-by-lon, họ sẽ sớm được hồi hương. Thiên Chúa sẽ sai phái một sứ giả “trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa” (Is 40: 3-5), vì chính Thiên Chúa sẽ dẫn đường cho dân Ngài trở về Giê-ru-sa-lem.
Cả ba tác giả Tin Mừng nhất lãm đều đã thấy ở nơi vị sứ giả này dung mạo của ông Gioan Tẩy Giả khi hiện tại hóa bản văn của I-sai-a vào trong hoàn cảnh hiện nay của mình: thay vì “Trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa”, thì lại “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa”, bởi vì Gioan Tẩy Giả thi hành sứ vụ dọn đường cho Đức Chúa ở trong hoang địa. Tuy nhiên, chỉ duy thánh Lu-ca trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a, nhưng thánh sử chủ ý thay đổi một chút câu cuối: thay vì “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy”, thánh sử viết: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Thật ra vinh quang của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi quyền năng rực rỡ của Ngài, Đấng, sau một thời gian dài xem ra không đoái hoài đến dân Ngài, ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm tại Ba-by-lon, tiên trưng một cuộc giải thoát khác, chính xác hơn, giải thoát khỏi mọi giam cầm của tội lỗi.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam