Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 76
Tổng truy cập: 1365959
ƠN GỌI
ƠN GỌI
Cả ba bài đọc của Chúa nhật V Mùa thường năm C đều quy về một đề tài chính là “Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi con người”. Ngài không để cho những yếu hèn của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng Ngài ban hồng ân tràn đầy và một biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp: “Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Lời này xưa kia Chúa đã nói cho thánh Phêrô, nhưng không những cho Phêrô mà thôi, mà còn cho tất cả mọi tín hữu là những kẻ tin nhận Ngài. Ngài kêu gọi từng người một với những khả năng, nhất là với những khuyết điểm, những bất toàn để rồi Ngài biến đổi họ trở thành những kẻ làm chứng cho Ngài.
Nơi bài đọc 1 chúng ta nhận thấy rằng, trước khi kêu gọi vị tiên tri, hoặc trước khi kêu gọi một ai đến theo Chúa thì Thiên Chúa đến với người đó, cho họ được cảm thấy Ngài, được cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài trong đời sống người đó và ban ơn thánh như than hồng cháy đỏ trong thị kiến để thanh tẩy và biến đổi đương sự vừa được gọi trở thành hữu dụng hơn.
Khởi đầu của ơn gọi là kinh nghiệm sống động về ơn Chúa, là những lúc nói được là sốt sắng nhất. Lúc khởi đầu, người được gọi còn sốt sắng trong ơn gọi, vì còn cảm thấy như gần gũi Thiên Chúa, sống bên cạnh Ngài. Nhưng rồi trong cuộc đời theo Chúa có những thử thách đen tối, điều quan trọng là đương sự được gọi còn trung thành với ơn Chúa ban, và đây là trường hợp của thánh Phaolô tông đồ như được gợi lại nơi bài đọc 2 của thánh lễ Chúa nhật V mùa thường.
Thánh Phaolô đã được gọi sau rốt, nhưng không vì công nghiệp và tài năng của ngài, mà vì tình thương nhưng không của Thiên Chúa. Lúc đó ngài đang đi lùng bắt những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trên đường tiến về Damas, nhưng rồi Chúa đã tìm đến Phaolô, từ đó Phaolô đã không bất trung với ơn Chúa đến độ thánh nhân đã viết và chúng ta đọc lại trong thơ của ngài như sau: “Ơn Chúa đã không trở thành vô ích nơi tôi, nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay”.
Nơi bài Phúc âm trích từ Phúc âm thánh Luca, chúng ta cũng quan sát thấy cùng một kinh nghiệm tôn giáo về ơn gọi đã xảy ra, đó là việc Chúa thực hiện một phép lạ để rồi nhờ phép lạ này mà Phêrô nhận ra sự hiện diện của Chúa và thốt lên: “Thưa Thầy, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”.
“Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”. Trước nhan Thiên Chúa ai là người vô tội hoàn toàn? Thiên Chúa tìm và kêu gọi con người, Ngài không để cho những yếu đuối của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng ban hồng ân tràn đầy để biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp.
“Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Thật, kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa Đấng trọn tốt trọn lành, và đồng thời cho con người vừa được gọi ý thức về thân phận yếu hèn tội lỗi của mình không xứng đáng được gọi, nhưng vì Chúa đã trấn an Phêrô và từ đó không bao giờ ngưng trấn an những kẻ Ngài gọi: “Đừng sợ, con sẽ là kẻ đánh cá người”.
Ơn Chúa sẽ biến đổi người đồ đệ, nhưng liệu chúng ta có đủ sức can đảm đi đến cùng để cho ơn Chúa biến đổi cuộc sống mình hay không? Liệu chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Ơn Chúa không trở thành vô ích nơi tôi hay không? Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay, như là tông đồ của Chúa, mặc dù tôi đã là kẻ tội lỗi, bắt bớ những tín hữu của Chúa.
50.Ơn gọi
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày những phản ứng khác nhau của con người phàm tục khi đối diện với Đấng Thiên Chúa thánh thiêng qua con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Con người do kinh nghiệm dạn dày của một đời dấn thân vào mọi khoảnh khắc thăng trầm của cõi nhân sinh, đã từng vào sinh ra tử nơi những trận tuyến dữ dội nhất của xã hội loài người, đã nếm trải mọi vinh nhục của lòng dạ người đời. Có lẽ đầy xác tín và sẽ mãi bám chặt lấy kinh nghiệm bản thân theo góc độ có thể định hình. Đó có thể là một thế giới quyến rũ, một nhân loại hồn nhiên mở ra những khả năng vô hạn cho công trình xây xây nên một địa đàng tương lai. Đó có thể là một đấu trường dữ dội nơi sàng lọc các giá trị, nó ưu đãi cho sức mạnh của trí tuệ, của thế lực, của vật chất. Đó có thể là một bãi tha ma, một đống đổ nát điêu tàn của mọi ước mơ, nơi chôn vùi mọi giá trị hão huyền, mọi toan tính thành tâm thiện chí, mọi khát vọng công bằng, hòa bình, yêu thương, để cuối cùng trơ ra một thế gian trần trụi, chết chóc, tanh hôi, một mảnh vườn hoang vô chủ, một mảnh đất màu mỡ mọc lên đủ mọi thứ gian tà ác độc. Đó là một thế giới đã bị nguyền rủa. Đó là một nhân loại đã bị nhiễm độc không còn hy vọng tìm ra lối thoát.
Đức Giêsu đến đề nghị giải pháp của Người cho một thế giới mới, một nhân loại mới dựa trên nền tảng của giá trị Tin Mừng. Công cuộc Người dự định là qui tụ cộng đoàn nhân loại đã được phục hồi những giá trị nhân bản và tâm linh nguyên thủ qua quá trình hoán cải để hình thành một thể chế mới họa theo mẫu cộng đoàn Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Đó là một thể chế của Thiên Chúa, hay đúng hơn một gia đình của Thiên Chúa là nơi để yêu thương, để trao ban và đón nhận yêu thương không còn mức độ, không còn giới hạn và theo một chu kỳ vô tận.
Phản ứng của con người ra sao trước kế hoạch của Đức Giêsu?
Thưa, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Chúng tôi đã vất vả suốt đêm, rõ ràng là rất tự tin, rất xác tín nơi kinh nghiệm và hiểu biết của mình mà không bắt được gì cả. Liệu công cuộc và nỗ lực của Thiên Chúa có sinh được kết quả gì hơn những cố gắng của nhân loại không? Nhân loại đã có thừa mứa tiện nghi, cuộc sống đã và còn tiếp tục tự lập, tự mãn trên đà tiến khoa học kỹ thuật. Lời giảng của Chúa liệu sẽ đem đến điều gì đáng ước mơ hơn những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đang thụ hưởng? Đường hướng của Chúa liệu có thay đổi được cục diện giống gần như đã được cài đạp, đã được chương trình hóa của thế giới, của nhân loại hay không?
“Nhưng vâng lời Thầy, chúng tôi sẽ thả lưới”. Kể cả khi không còn lựa chọn nào khác, con người vẫn tỏ ra miễn cưỡng, không mảy may tin tưởng, hy vọng nơi công cuộc thực hiện nhân danh Chúa. Thế nhưng, để rồi xem Đức Giêsu có kế hoạch của Người. Là Thiên Chúa, hơn ai hết, hơn mọi trí tuệ của phàm nhân, Người tiên liệu tất cả mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, mọi khí hậu, mọi chuyển vận của cuộc đời và của con người, để chương trình yêu thương và cứu độ của Người phải nhất thiết thành tựu và thành tựu mỹ mãn.
Không cần thiết nữa, bất cứ một lý do thối thoát nào như trường hợp của ngôn sứ Isaia: “Khổ thân tôi vì miệng tôi ô uế”, hay như ông Simon Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ có tội”. Thái độ hợp tình hợp lý nhất có lẽ là con người nên khiêm tốn nhập cuộc vào kế đồ đại nghĩa của Đức Giêu, như cung cách của thánh Phaolô: “Tôi có gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”.
Đó là phản ứng thuận ý trời hơn hết để có được những mẻ cá lạ lùng.
51.Mầu nhiệm
Bài Tin Mừng hôm nay có tên gọi truyền thống là “mẻ cá lạ lùng” qua việc Chúa gọi Simon từ kẻ “lưới cá” Ngài đã làm cho ông trở nên kẻ “lưới người”. Qua hành trình ơn gọi ta thấy Chúa thử thách Simon, ông tin tưởng cậy trông vào Chúa và cuối cùng Chúa đã thương chọn ông trở thành tông đồ của Ngài.
Hôm nay là Chúa nhật V Mùa thường niên tôi xin kính mời quí ông bà anh chị em cùng với tôi lần mở lại trang Tin Mừng để tìm hiểu về hành trình ơn kêu gọi của mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
Phúc âm kể lại: đang khi Simon giặt lưới, tranh thủ nắng để phơi lưới, thế mà Đức Giêsu lại bảo ông bỏ việc riêng đó mà chèo thuyền ra xa bờ một chút để Ngài rao giảng. Rõ ràng đây là một thử thách nhắm đến tinh thần vâng phục, nhưng mới chỉ là thử thách lần đầu, phải bỏ mình.
Rồi khi giảng xong, Ngài lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới. Đây là thử thách thứ hai ta thấy nặng ký hơn lần đầu. Vì Đức Giêsu không biết gì về nghề chài lưới, thế mà lại bảo Simon là một người chuyên về nghề chài lưới, chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Đây là một điều vô lý hết sức: “Múa rìu qua mắt thợ”. Thả lưới cả đêm mà không bắt được một con cá nào. Thả lưới ban ngày làm gì có cá. Nhưng Simon lại phải bỏ mình “vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới, chứ ai khác thì… còn khuya!”
Quả thật, vì nể Thầy, Simon thả lưới. Cuối cùng các ông đã bắt được rất nhiều cá đến nỗi hầu như rách lưới. Đến lúc này Simon rất mệt vì đã vất vả suốt đêm, mà giờ này cá quá nhiều, một mình không làm gì được. Ông phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ ông. Đây là thử thách thứ ba Chúa đòi hỏi Simon phải bỏ mình sống tương quan liên đới với anh em. Nhưng qua những lần thử thách, Simon đặt niềm tin vào Thầy thế nào?
Trước hết, nhờ kinh nghiệm sống thân mật bên Thầy mấy tuần trước đó, Simon đặt hết tin tưởng vào Thầy: ông ra khơi thả lưới.
Lòng tin và sự vâng phục của Simon được tưởng thưởng tức khắc. Nhờ quyền năng phi thường Chúa Giêsu chỉ cho Simon phải thả lưới chỗ nào để chắc chắn bắt được nhiều cá.
Một mẻ cá như thế, giữa ban ngày, ngay mẻ lưới đầu tiên, sau một đêm tốn công vô ích; đối với những ngư phủ rành nghề, quả là một việc khác thường.
Sau đó, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.
Simon đã từng chứng kiến phép lạ ở Cana, nhưng phép lạ này có liên quan mật thiết tới cá nhân ông, khiến ông bị xúc động mạnh. Ông thấy Thiên Chúa hiện diện ngay bên ông khiến ông có thể cảm nghiệm, sờ được. Bài đọc 1 cũng cho ta biết: ngày xưa Isaia khi nghe Chúa gọi, khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa ngự trên ngai lửa, đã la hoảng lên:”… khốn thân tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi nhơ bẩn, mà mắt tôi đã thấy Giavê.
Simon cũng kinh hãi ông quỳ xuống chân Thầy và nói “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”, nhưng Chúa Giêsu bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Như vậy, nhờ vào lòng tin và vâng phục Phêrô đã được Chúa tuyển chọn. Qua Bí tích Rửa tội đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Như thế, mỗi người chúng ta sống ơn gọi của mình như thế nào?
Đối với những người sống trong bậc gia đình phải chu toàn trách nhiệm của mình là nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Khi nói đến vấn đề giáo dục con cái ngày nay là một vấn đề rất khó khăn, chắc chắn rằng cha mẹ sẽ gặp nhiều thử thách. Vì thế, trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải biết vượt qua những thử thách đó và thêm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cách riêng, những người đang theo đuổi ơn gọi sống đời tận hiến, bài Phúc âm mời gọi chúng ta hãy lạc quan tin tưởng vào tình yêu của Đức Kitô, sống tốt giây phút hiện tại của mình. Kiên trì vượt qua thử thách, thêm tin tưởng vào Chúa. Vì hành trình ơn gọi của mỗi người không do một mình chúng ta thực hiện, nhưng luôn có Chúa cùng đồng hành với ta.
Một mình Phêrô không bắt được gì cả; nhưng có Chúa giúp, Phêrô đánh được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan Vianney khi còn là chủng sinh đã học hành rất chậm. Ngày kia, một cha giáo vâng lời bề trên địa phận đến khảo hạch xem Vianney có đủ khả năng làm linh mục hay không? Tuy đã cố gắng học hành chăm chỉ, nhưng Vianney vẫn không trả lời được bất cứ câu hỏi nào cho trôi chảy. Tức giận, vị giáo sư đập bàn và nói “Vianney, anh thật dốt đặc như một con lừa! Với một con lừa như anh, thử hỏi Hội thánh sẽ hy vọng làm được gì đây?” Sau một giây suy nghĩ, Vianney khiêm tốn và bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, theo ý con: ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm của con lừa mà đánh bại được 3000 quân Philitinh. Vậy thì với cả một con lừa như con, chẳng lẽ Thiên Chúa lại không làm được việc gì hữu ích hay sao?
Quả thật, con lừa Vianney của Thiên Chúa đó sau này không những đã trở thành cha sở họ Ars, mà còn là một người nhân đức thánh thiện, làm ích rất nhiều cho Chúa và các linh hồn.
Qua tấm gương của cha Vianney, ngài đã sống trọn vẹn ơn gọi của ngài. Ước mong mỗi người chúng ta cũng xem lại việc sống ơn gọi trong bậc sống của mình và khi gặp thử thách xin cho chúng ta biết tin cậy vào sự quan phòng của Chúa.
52.Tuân theo Thiên Ý - Chìa khóa hạnh phúc
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5:5b).
“Hạnh phúc là nỗi khao khát triền miên có mặt trong từng hành động của con người.” Một nhà tư tưởng đã nói như thế. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng nhận rằng dường như lúc nào khổ đau cũng nhiều hơn hạnh phúc. Nước mắt khi nào cũng đầy hơn tiếng cười. Tại sao vậy?
Tại sao đi tìm hạnh phúc mà cứ như đi bắt cái bóng, còn sự hiện hữu đích thật của hạnh phúc thì vẫn trốn ở nơi nào? Tại sao bao nhiêu người “thương” nhau lắm, những bất đồng thế nào cũng không màng, cha mẹ đôi bên có phản đối can ngăn cũng không xong? Họ cứ lấy nhau… Ấy thế mà, khi được vài mặt con, có người thẳng thừng tuyên bố: “Tôi chẳng có chút tình yêu nào với người ấy cả.”
Tại sao có người tu đã bao năm, tưởng rằng đắc đạo lắm, thế mà cũng có khi cởi áo nhảy rào? Phải chăng không có hạnh phúc thật trên cõi đời này? Hay vì “đời là bể khổ” nên đụng đâu cũng khổ sầu và nước mắt?
Thiết tưởng một câu trả lời đúng cho những câu “tại sao” trên đây sẽ là: vì con người đi tìm hạnh phúc nhưng cứ lẫn lộn mù mờ giữa những gì là tương đối với tuyệt đối, phương tiện với đích cùng, hữu hạn và vô hạn.
Có người đã nhận xét: “Sống trên đời, ai lại không cần tiền”. Thế nhưng khi hỏi tiền là phương tiện hay cùng đích thì ai cũng bảo tiền là phương tiện. Ấy vậy mà trong thực tế, biết bao người đã lấy tiền làm mục tiêu sống và giá trị trên mọi thứ giá trị, nên đã bất chấp nhân phẩm, luân lý, tình người, và những liên hệ thiêng liêng cao quí, miễn sao có tiền là được. Bao nhiêu quan hệ vợ chồng, cha mẹ, anh em bị sụp đỗ tan nát cũng vì người ta nhìn tiền là cùng đích chứ không phải phương tiện, tuyệt đối chứ không phải tương đối. Thế nên khổ đau và nước mắt là ở chỗ đó.
Một câu trả lời khác khả dĩ giải đáp cho các câu hỏi “tại sao” trên đây và giúp con người tìm được bình an cùng niềm vui sống sẽ là: vì người ta cứ chạy theo ý mình mà không hề nhận biết và vâng theo ý Chúa. Nếu như có ai đó có lòng kết hợp mật thiết với Thánh ý Thiên Chúa, thì chắc chắn, dù gặp bao nghịch cảnh gian nan trước mắt thế gian, họ vẫn là người bình an và hạnh phúc hơn thế gian suy tưởng.
Trong Thánh Kinh Cựu ước có hình ảnh nào khốn nạn và đau khổ như ông Gióp. Một người công chính, đang sống đời hạnh phúc giàu sang, thình lình đau thương ập xuống. Gia đình đang an lành, bỗng dưng thiên tai từ sa mạc thổi vào làm đổ tan nhà cửa. Con cái bị giết chết. Cơ nghiệp bị cướp sạch. Chính thân thể ông Gióp cũng bị lở loét, giòi bọ rúc rỉa. Đói khát hành hạ thường xuyên.
Trước cảnh sầu đau như thế, Gióp còn bị kẻ này người kia mỉa mai khinh bỉ, cho là bị trời phạt. Chính vợ ông cũng đay nghiến suốt ngày, xúi Gióp chửi Thiên Chúa. Gióp đã có lần than thở: “Ôi, đời người có khác chi cảnh tôi tớ, kiếp sống như kẻ làm thuê. Tôi tớ thì khát khao chút bóng mát để nghỉ ngơi; kẻ làm thuê thì trông mong giờ lãnh tiền công. Ấy thế mà thân tôi chẳng bao giờ được trả công, nghỉ ngơi một chút cũng không được. Bởi vì vừa nằm xuống thì tâm hồn sầu buồn mong cho trời mau sáng. Đến khi trời sáng thì thấy ngày đời trôi nhanh như con thoi” (G 7:1-6).
Trước cảnh khốn đốn tận cùng, dường như không còn chút hy vọng nào cho cuộc sống, Gióp vẫn một niềm kiên cường thốt lên: “Chúa đã cho, Chúa đã lấy đi. Ý Chúa muốn làm sao, thì nên như vậy. Xin chúc tụng danh Chúa” (G 1:21).
Thật lạ lùng! Giữa chốn âm u bão bùng mà vẫn nhắm ý Chúa thẳng tiến.
Kết quả, vì biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa mà cuối cùng Gióp đã tìm lại ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc đời.
Như Đức Giêsu, suốt cả kiếp người đã không làm gì khác hơn là thi hành ý Cha. Cho đến giờ chết vẫn cứ là: “Lạy Cha, xin vâng như ý Cha.” Nhờ thế sự sống nơi Ngài đã tuôn tràn chứa chan cho nhân loại.
Liên quan đến chủ đề này, Thánh Anphongsô có nói về một thầy dòng kia, trông diện mạo bên ngoài thì không có gì đáng chú ý. Thầy cũng chẳng thường hãm mình bao nhiêu. Thế mà lại hay làm phép lạ. Bề trên ngạc nhiên mới hỏi: “Con có nhân đức gì trổi hơn anh em, hay có thi hành việc lành nào sốt sắng, mà sao cha thấy con làm được nhiều sự lạ vậy?” Thầy dòng khiêm tốn trả lời: “Con không dám so sánh với các nhân đức của anh em con… Chỉ có một điều con luôn chú ý hơn cả là vâng theo thánh ý Chúa hết lòng: Sự gì Chúa muốn là con muốn, dù vui sướng hay buồn khổ, an lành hay gian truân.”
Nghe thế bề trên liền hỏi lại: “Thế chứ cách đây mấy hôm, có kẻ đã làm thiệt hại cho dòng ta, họ đã đốt phá nhà cửa đất đai của ta tan tành, con có lấy làm đau đớn ưu phiền không?” Thầy liền thưa lại: “Thưa cha, con không lấy gì làm đau khổ, cũng chẳng lấy chi làm ưu phiền. Con vẫn bình an như thường, vì biết rằng Chúa luôn muốn cho chúng ta được phần ích lợi hơn. Nên con cảm tạ Chúa luôn.” Cha bề trên nghe những lời ấy đã công nhận rằng: Đây là một vị thánh, có đủ các nhân đức, vì thầy có lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa hết mình (Anphongsô, Chân Lý Đời Đời, tr. 299).
Vâng theo ý Chúa sẽ giúp ta vượt qua gian truân khốn khó của đường đời và tìm được bình an và niềm vui dồi dào phong phú. Vâng theo Chúa không chỉ lúc thuận ý nhưng cả khi nghịch lý. Không chỉ khi thành công may mắn nhưng cả lúc rủi ro thất bại ê chề.
Không phải là Thánh Phêrô đã thốt lên “Thưa Thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì ý Thầy muốn, tôi sẽ thả lưới” sao?
Các tay đánh cá chuyên nghiệp của biển hồ Giênêsarét tất biết rõ chỉ thả lưới ban đêm mới mong bắt được cá. Ít ra thì cũng phải là “lúc chạng vạng hay khi rạng đông.” Chứ đời thuở nào mặt trời đã lên cao mà còn mong bắt được cá. Đó là chưa nói đến việc Phêrô và các bạn chài đã vất vả suốt đêm, chưa được nghỉ ngơi chút nào, lại mới giặt lưới xong, bây giờ nếu thả lưới xuống, lúc kéo lên là phải giặt lại, mệt nhọc biết bao.
Vậy mà “vâng lời Thầy, con xin thả lưới.” Và kết quả của việc xin vâng là một ngày bội thu hoan hỉ: “Họ thả lưới và bắt được một mẻ cá nhiều lắm, đến nỗi lưới muốn rách. Họ ra hiệu cho các bạn đồng nghiệp trên thuyền gần đó đến giúp. Những người này tới, và họ chất được hai thuyền đầy cá, đến sắp chìm” (Lc 5:6-7).
Dẫu rằng chủ đề của Lời Chúa tuần này là “Sai Đi” nhưng sống “Vâng Phục Ý Chúa” cũng không có chi là lạc đề. Bởi vì không “vâng phục” sẽ chẳng “sai đi” được. Nói đến “sai đi” là hàm ngậm một chỗ đến. Và dầu đã đến nơi phải tới, thì vai trò của người được sai vẫn là chu toàn sứ mạng. Còn không vâng phục đừng mong sứ mạng hoàn thành. Không có sứ mạng nào cao đẹp cho bằng làm đúng ý người sai mình đi. Thế nên Đấng Cứu Thế đã từng cầu nguyện: “Này con xin đến để thi hành ý Cha.” Thực thi ý Cha chính là lẽ sống của Người Con hiếu thảo quí yêu.
Thiết tưởng không có tâm tình nào ý nghĩa và sinh hoa trái nhiều hơn cho nhân gian bằng tâm tình xin vâng đó.
53.Người ấy biết đứng lên
Theodore Roosevelt đã từng nói, "Người đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến cho người khác con đường tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây sát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng."
Không biết trong đầu của Roosevelt đã có ai là thần tượng hay không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một ngư phủ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước Thiên Chúa: Thánh Phêrô, một con người thuộc giới lao động. Đây là một người ở "trong trận chiến, xây sát bằng nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm lỗi và luôn gặp những trắc trở, hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại." Hơn hết, đây là một người biết thế nào là "thất bại" và "chiến thắng."
Thánh Phêrô là một người đã từng ngã đi ngã lại. Ngài đã từng phải cảm nghiệm hết cái thất bại này đến thất bại nọ. Thí dụ, một lần Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ Ngài về câu hỏi người ta nói Chúa Giêsu là ai? Sau cùng, Ngài đã hỏi chính các môn đệ Ngài nghĩ Ngài là ai? Thánh Phêrô đã nhanh nhẩu đáp ngay, "Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống." Câu trả lời này của Thánh Phêrô đã làm cho Chúa Giêsu hài lòng về ông. "...Anh thật là có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16:15 & 17). Sau đó, Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để diễn tả sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Sứ mệnh đó chính là phải chịu đau khổ và chịu chết. Chính ngay sau khi nghe điều đó, Thánh Phêrô đã vấp ngã. Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng, "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Và Chúa Giêsu đã quay lại bảo ông, "Satan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16: 22-23).
Khoảng một thời gian sau đó, trên núi biến hình, Thiên Chúa đã ban cho Thánh Phêrô thêm một món quà đặc biệt nữa: đó là được nhìn thấy Maisen và 'lia đàm đạo với Chúa Giêsu. Câu truyện đó là để chứng thực về điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài về sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Lúc đó Thánh Phêrô đã phản ứng ra sao? Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng họ có thể ở trên núi và xây nhà dựng cửa.
Một thời gian sau lần đó nữa, Thánh Phêrô đang ở trên thuyền với các môn đệ khác. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên nước đến với họ. Chúa Giêsu đã kêu Thánh Phêrô đến với Ngài. Thánh Phêrô đã ra khỏi thuyền và khi ông rời mắt khỏi Chúa Giêsu thì một tí nữa là ông bị chết chìm.
Trong những giờ phút cuối cùng trước giờ tử nạn của Chúa Giêsu tại nhà Tiệc ly, chính là giây phút cực kỳ khó hiểu đối với Thánh Phêrô khi ông nhìn thấy Thầy mình rửa chân cho các môn đệ. Một việc làm của các đầy tớ. Không hiểu được ý nghĩa của việc làm đó, Thánh Phêrô đã lên tiếng, "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Tuy nhiên, khi ông hiểu được việc làm của Chúa Giêsu thì chính ông lại còn muốn Chúa Giêsu không những rửa chân của ông mà còn cả mình ông nữa (Gn 13:8-9).
Chúa Giêsu đã muốn Thánh Phêrô ở với Ngài trong vườn Ghétsimani với Ngài, thế nhưng ông đã ngủ.
Chúa Giêsu đã dạy dỗ về lòng tha thứ và không được dùng bạo động. Thế nên trong khi bị quân dữ bao vây, chính Thánh Phêrô đã cầm kiếm và vung văng để một tên lính phải bị chém đứt tai. Một lần nữa, Thánh Phêrô đã hành động như là ông chưa nắm được ý nghĩa đích thực của những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Sau cùng, cái giờ phút tệ bạc nhất đó là chính Thánh Phêrô đã mạnh dạn thề thốt cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì ông cũng sẽ không bỏ Chúa Giêsu. Thế nhưng, trong sân Philatô, ông đã sợ hãi mà chối Chúa đến ba lần, không phải với những người có chức quyền gì, mà là những đứa đầy tớ thấp hèn (Mt 26:35, 70, 72, 74).
Chúa Giêsu đã gọi Thánh Phêrô là đá. Tuy nhiên đó là một viên đá cứ rơi lên rớt xuống. Hết lần này đến lần khác, ngài đã phải cúi mặt xuống ăn năn. Đó là một con người đã phạm hết lỗi lầm này đến lỗi lầm khác, thế nhưng sau cùng đã trở nên Tông Đồ Cả., Trong cuộc bách hại bởi quân Rôma, Thánh Phêrô chính là người đã liên kết và gìn giữ Hội Thánh. Đó là thời gian mà Giáo Hội tiên khởi đã bị giết chết cả hàng ngàn người. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, chính Thánh Phêrô đã đứng ra và giảng dạy. Sau khi Chúa Giêsu không còn hiện hữu một cách thể lý nữa, nhưng những người tàn tật và mù lòa vẫn còn tiến đến, và chính Thánh Phêrô đã chữa cho họ được khỏi.
Tin mừng của Phúc Âm là ơn thánh vẫn hằng luôn ban xuống cho chúng ta. Ơn thánh của Chúa hằng luôn hiện hữu ở giữa chúng ta, ở đây, ngày hôm nay trong buổi tụ họp này. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là, "Làm sao chúng ta thể hiện công việc ấy ngay? Làm sao nó có thể trở thành một cái gì đó hơn là một ý tưởng suông?" Ở tại chỗ này, tài liệu Thánh Phêrô để lại có thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta có thể thấy được Thánh Phêrô đã làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa gần gũi là một tiến trình lớn lên của cuộc sống chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy trong Thánh Phêrô một tiến trình lớn lên kèm theo sự chỗi dậy của những lần ngã qụy; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại; Simon Phêrô có lòng nhiệt thành. Ông có lòng đạo đức cao siêu. Khi thánh nhân bị ngã, thì ngài luôn biết chỗi dậy.
Nếu bạn chỉ biết ngồi ở trong căn phòng của mình và đóng cửa lại, thì những tài năng của bạn sẽ bị chôn vùi và không được phát triển. Nếu vậy, thì bạn gìn giữ chính bạn để làm cái gì? Bây giờ chính là lúc chúng ta sống. Đây chính là lúc mà Thiên Chúa đang hiện diện bên bạn, và Ngài uốn nắn bạn để trở thành người môn đệ tốt đẹp. Chúng ta không cần phải lo ngại sẽ bị thất bại. Những người mà cố gắng để làm những việc có giá trị, và rồi bị thất bại thì chắc chắn được hưởng niềm vui lớn lao hơn là những người không cố gắng để làm bất cứ chuyện gì cả.
Cũng như Thánh Phêrô, chúng ta phải có một tiến trình lớn lên kèm theo sự đứng lên sau những lần ngã quỵ; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại.
54.Đức Giêsu và vị Tông Đồ đầu tiên
(Chú giải và suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long)
Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người.
1.- Ngữ cảnh
Với bài Lc 5,1-11, chúng ta có một bản văn riêng của tác giả Luca. Như thế, bản văn này có thể giúp độc giả nhận biết cách thức bản văn này tiếp cận với truyền thống Tin Mừng và liên kết với truyền thống ấy.
Quả thật, nếu trong tất cả ch. 5, tác giả đi theo bài tường thuật của Mc (x. 1,40–2,22), ở đây ngài lại tách ra. Trong khi tác giả Mc (1,16-20), và cả Mt (4,18-22), mô tả truyện kêu gọi các môn đệ đầu tiên trước sứ vụ công khai của Đức Giêsu, tác giả Lc lại đặt tiếng gọi ở sau, khi Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động giảng dạy và chữa lành (x. 4,14-44). Người đã biết ông Simôn, vì đã đến nhà ông và chữa là bà mẹ vợ (4,38-39).
Bài tường thuật này là một đơn vị riêng, đến sau bức tranh bộ đôi Nadarét-Caphácnaum (4,14-44), được đóng khung bởi hai toát yếu về sứ vụ rao giảng nay đây mai đó của Đức Giêsu (4,14; 4,44), và được nối tiếp bởi một giai thoại mới, việc chữa lành một người phong hủi (5,12-16).
Đoạn văn của chúng ta thuộc về một phân đoạn lớn hơn (5,1–6,19), trong đó có những đơn vị được dẫn nhập bởi công thức mà các bản dịch thường bỏ, “xảy ra là” (egeneto: 5,1.12.17; 6,1.6.12), với trung tâm là việc kêu gọi Lêvi và bữa ăn ông thết đãi (5,27-39).
Trong phân đoạn này, chân trời của sứ vụ của Đức Giêsu được mở rộng. Cho tới nay, Người hoạt động một mình, qua việc giảng dạy và chữa bệnh (các môn đệ đầu tiên vẫn còn đang ở trong tình trạng vô danh). Bây giờ cử tọa đang mở rộng ra hơn; Đức Giêsu không chỉ nói với những người hay lui tới hội đường mà thôi, nhưng với một đám đông sẵn sàng lắng nghe. Nhất là nay phát sinh nhóm các môn đệ, họ đi theo Người trong hành trình truyền giáo; bên trong nhóm này nổi lên khối sẽ là hạt nhân căn bản của Hội Thánh, đó là nhóm các Tông Đồ. Chính là trong ngữ cảnh này mà chúng ta đọc bài tường thuật Mẻ cá lạ lùng với việc kêu gọi Simôn và các bạn.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (5,1-3);
2) Đức Giêsu - Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (5,4-7);
3) Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu (5,8-10);
4) Kết luận: Đời môn đệ (5,11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ghennêxarét (1): Đây là tên Hy Lạp của giải đất nhỏ thuộc phía tây “biển hồ”, có đất đai mầu mỡ và đông dân cư; giải đất này ở phía nam Caphácnaum.
- lời Thiên Chúa (1): Đây là lần đầu tiên Tin Mừng Lc dùng công thức này (Lc dùng 4 lần: 5,1; 8,11.21; 11,28; Cv dùng 14 lần: 4,31; 6,2.7; 8,14; 11,1; 12,24 (?); 13,5.7.44.46.48; 16,32; 17,13; 18,11). Trong khung cảnh sách Cv, công thức ấy có nghĩa là sứ điệp Kitô giáo do các tông đồ rao giảng; ở đây tác giả Lc lại cho thấy là Đức Giêsu rao giảng. Như thế, tác giả đặt việc rao giảng của cộng đoàn trên nền tảng là lời rao giảng của Đức Giêsu. Nhưng nền móng tối hậu là chính Thiên Chúa, bởi vì công thức nói rõ là “Lời Thiên Chúa” hoặc “Lời do Thiên Chúa ban” (thuộc-cách diễn tả chủ từ hoặc tác giả hợp lý hơn là “lời nói về Thiên Chúa”: thuộc-cách diễn tả đối tượng).
- Người ngồi xuống (3): Đây là tư thế bình thường khi ở trên một chiếc thuyền nhỏ. Nhưng hẳn tác giả cũng muốn gợi ra tư thế của một vị thầy.
- Thưa Thầy (5): Lần đầu tiên Lc dùng từ epistata (hô-cách của epistatês) (x. 8,24.45; 9,33.49; 17,13). Các bản văn Nhất Lãm song song dùng từ didaskale, “thưa thầy”, hoặc rabbi, “thưa rabbi”. Trong văn chương Hy Lạp, từ ngữ epistatês thường có sắc thái rộng hơn, đó là “vị chỉ huy, vị điều hành, vị giám sát” (ví dụ trong việc huấn luyện giới trẻ). Trong các tác phẩm Lc, từ này luôn luôn được đặt trên môi miệng các môn đệ, còn từ didaskalos được người ngoài dùng. Epistatês diễn tả một đức tin sâu xa hơn vào uy quyền của Đức Giêsu.
- chúng tôi đã vất vả (5): Động từ kopiaô, “làm việc vất vả”, là một động từ được Tân Ước dùng cho những dịp mô tả công việc tông đồ vất vả.
- Xin tránh xa con (8): Qua mẻ lưới lạ thường, Simôn nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình ra nơi Đức Giêsu, do đó ông đã gọi Người là “Chúa”. Từ đó, ông cũng ý thức về tình trạng tội lỗi, bất xứng của mình; ông cảm thấy sợ hãi khi đứng trước Thiên Chúa là Đấng Thánh (x. Is 6,5). Simôn vừa bị thu hút về phía Đức Giêsu do lòng thán phục, vừa muốn tránh xa Người do ý thức về sự bất xứng của mình.
- Anh sẽ là kẻ đi bắt người ta (10): So với Mc 1,17, câu nói này không nhấn mạnh đến thân thế môn đệ, nhưng nhấn mạnh đến hoạt động truyền giáo. Zôgreô (do zôos, “sống động”; agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt để làm cho sống”. So với Mc 1,17, bản văn nhấn mạnh trên hoạt động truyền giáo hơn là trên thân phận người môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các tác giả còn tranh luận xem bản văn này thuộc thể văn nào: bài tường thuật ơn gọi, bài tường thuật về sự giao phó nhiệm vụ, tiên tri và lời hứa… Thật ra, đề tài ơn gọi chắc chắn có trong bản văn, nhưng dưới dạng một lời hứa và một lời tiên tri. Quả thế, chính lời hứa long trọng của Đức Giêsu nổi bật rõ nhất (“Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”).
Điều đánh động trong bài tường thuật chính là sự xen kẽ giữa số đơn và số phức. Ngay từ đầu, độc giả chuyển từ “đám đông” (ochlon) của c. 1 sang “các đám đông” (ochlous) ở c. 3. Tại c. 4, Đức Giêsu nói với Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu (epanagage [số đơn] eis to bathos) mà thả lưới bắt cá (kai chalasate [số phức] ta diktya hymôn eis agran); như thế, không phải chỉ có một mình Simôn ở trên thuyền. Sang c. 5, câu trả lời của Simôn lúc đầu khẳng định: “Chúng tôi đã vất vả (poiasantes)…”, nhưng rồi: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới (chalasô)”. Và nếu ở c. 8, Simôn xin Đức Giêsu: “Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”, lý do lại là vì Simôn, những người có mặt ở đó, và cả Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc (cc. 9-10). Cuối cùng, Đức Giêsu nói với riêng Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (c. 10), nhưng ngay sau đó các bạn của Simôn lại xuất hiện: “Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (c. 11).
Sự xen kẽ giữa Simôn và các bạn không chỉ gợi ý là mẻ cá cần nhiều người, mà còn nêu bật rằng Simôn, ngoài nhân cách độc đáo của ông, cũng đại diện cho một nhóm, nhóm các ngư dân sẽ bỏ mọi sự để trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
Một nét khác trong bài tường thuật là cách vận dụng “khoảng cách” giữa các nhân vật khác nhau, để đưa lại cho mỗi nhân vật một nét độc đáo riêng. Đám đông quy tụ quanh Đức Giêsu để nghe Lời, nhưng Người lại lên thuyền của Simôn và bảo ông ra xa bờ một chút. Một cách nghịch lý, việc lấy khoảng cách như thế lại đưa Đức Giêsu đến gần các đám đông hơn, bởi vì do quá gần, việc loan báo Lời lại bị cản trở, và cũng đưa Người đến gần Simôn và các bạn hơn, bởi vì các ông đang ở trên thuyền với Thầy, nên cũng trở thành thính giả nghe Lời. Bằng cách đó, Đức Giêsu vừa có thể ngỏ lời với người ở gần lẫn người ở xa.
Việc lấy khoảng cách vẫn tiếp tục. Trước tiên lệnh của Đức Giêsu cho Simôn (“Chèo ra chỗ sâu”, epanagage eis to bathos) vừa giữ khoảnh cách chiều ngang với đám đông, vừa bắt đầu một chuyển động theo chiều đứng, một chiều hướng đầy xuống thấp và dấn dần kéo cả Simôn vào. Lệnh của Đức Giêsu theo nghĩa chữ là: “Đi ra xa, vào chỗ (nước) sâu”; đây không chỉ là đi ra xa hơn, mà còn là đi vào chiều sâu của cái hồ! Một vài động từ xác nhận chiều hướng biểu tượng này: “Các anh hãy thả lưới” (c. 4), “tôi sẽ thả lưới” (c. 5), “hầu như rách cả lưới” (c. 6), “đến gần chìm” (c. 7). Đây không chỉ là một chuyển động thể lý, gắn liền với việc đánh cá, vì chính cử chỉ và lời nói sau cùng của Simôn cho thấy: ông phục xuống dưới chân Đức Giêsu và nói: “Xin tránh xa con…”. Vấn đề là tương quan với Đức Giêsu, là gắn bó với Người hay tránh xa Người.
Tới cuối bài tường thuật, nhờ lời hứa của Đức Giêsu, khoảng cách đáng sợ giữa Đức Giêsu và Simôn được điều chỉnh lại và khoảng cách với đám đông cũng được xóa đi, bởi vì Simôn Phêrô và các bạn đã kéo thuyền vào bờ, nơi có đám đông, và đi theo Đức Giêsu.
Như vậy, qua biện chứng “cách xa”, chủ đề của bài tường thuật là việc kêu gọi Simôn và các bạn, việc kêu gọi này có nghĩa chính xác là đến gần Đức Giêsu, bằng cách lấp đầy các khoảng cách ngăn cách với Người. Vậy đây là hành trình đức tin. Nhưng điều này không chỉ liên hệ đến các môn đệ, mà còn liên hệ đến tất cả các thính giả hoặc độc giả Tin Mừng tương lai; chính vì thế mà có sự xen kẽ số đơn và số phức. Chúng ta sẽ thấy bản văn trình bày diễn tiến của hành trình đức tin.
* Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (1-3)
Sau thất bại ở Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu vẫn có những người sẵn sàng lắng nghe, chính đám đông “chen chúc” (epikesthai) bên bờ hồ Ghennêxarét đã chứng tỏ điều đó. Chúng ta ghi nhận: không phải là họ tìm nghe lời một người phàm, nhưng nghe “lời Thiên Chúa”. Một ghi nhận kế tiếp: Đức Giêsu không rao giảng trong hội đường nữa. Đây là một biểu tượng: kể từ nay, nơi duy nhất chúng ta có thể nghe được lời của Thầy chí thánh chính là cộng đoàn Kitô hữu; đây là nơi mà tất cả những ai đi tìm ánh sáng, sự an ủi và niềm hy vọng đều phải đến. Trên con thuyền này, chỉ có Đức Giêsu là thánh thiện, còn những người khác thì tốt lành, nhưng đều là những “kẻ tội lỗi”. Dù vậy, cũng chính là từ con thuyền này mà Lời Chúa được công bố.
Đức Giêsu mau chóng chỉ định các cộng sự viên. Truyện hôm nay cho thấy bản chất của tương quan giữa Người và các ông này. Ở đây mọi sự đều do sáng kiến của Người và được nhắm đưa tới kinh nghiệm như Simôn sẽ có. Tuy vậy, bản văn cho thấy Đức Giêsu chỉ tỏ ra năng động có hai lần thôi: lần đầu khi Người ra lệnh (c. 4) và lần thứ hai khi Người ban một lời hứa (c. 10); còn ở giữa là hành động và phản ứng của Simôn và các bạn. Simôn cũng có hai câu nói thưa với Đức Giêsu: một câu là khẳng định về kinh nghiệm đánh cá (c. 5), một câu là lời mời (c. 8). Chính do quảng đại mà Simôn đã hỗ trợ cho việc loan báo Lời. Trong giai thoại chữa bà mẹ vợ (4,38-39), Simôn là một nhân vật chìm: không nói không làm gì cả! Còn ở đây, nổi bật lòng quảng đại và sự sẵn sàng của ông, khiến ông trở thành một thính giả ưu tiên của Lời.
* Đức Giêsu - Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (4-7)
Việc lắng nghe Lời không tự động đưa tới đức tin. Để cho việc lắng nghe này là thật, thì cần có việc tận tình đáp trả những yêu cầu của Lời. Nói xong với đám đông, Đức Giêsu ban một lệnh trực tiếp cho một người, ngay giữa lòng cuộc sống cụ thể của người ấy (c. 4): “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (c. 4). Simôn đã phản ứng, ông khẳng định theo kinh nghiệm của ông: người ta bắt cá ban đêm; thế mà suốt đêm các ông đã vất vả (kopiasantes) mà chẳng bắt được gì, phương chi bây giờ là ban ngày! Lệnh này có vẻ như một sự gây chuyện! Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề nêu lý do hoặc thêm ý soi sáng; Người nói một lời và cho thấy mọi sự tùy thuộc lời này. Đối với Simôn, Đức Giêsu không phải là một người xa lạ. Ông đã thấy Người chữa lành nhạc mẫu của ông (4,38-39). Do đó, ông tín nhiệm vào lời Đức Giêsu cho dù lời này có yêu cầu những điều bề ngoài không mong đạt kết quả, hoặc những điều phi lý vì đi ngược lại mọi kinh nghiệm của loài người. “Thưa Thầy, … dựa vào lời Thầy”, epistata, … epi de tô rêmati sou (c. 5): Những từ ngữ này hết sức quan trọng, vì đây là công thức diễn tả thái độ của con người đối với Thiên Chúa (x. Tv 119, 25b.42.57.105). Epistatês theo nghĩa chữ là “người ở trên”, “người chủ tọa”. Simôn nhận biết Đức Giêsu là người dẫn đường, Người không chỉ là một thầy dạy, mà là một chủ nhân đời sống!
Điều chúng ta ghi nhận ở đây là chính Simôn đã đưa thuyền ra khơi (c. 4); chính ông công bố niềm tin vào lời Đức Giêsu (c. 5); chính ông gọi Người là “Lạy Chúa” (c. 8); ông là người được mời trở thành “kẻ lưới người” (c. 10). Tất cả các yếu tố này cho thấy rằng Simôn được chọn cho một thừa tác vụ đặc biệt trong Hội Thánh. Nhiệm vụ của ông là nghe lời Chúa và di chuyển, không phải ra nơi mà kinh nghiệm dẫn đưa ông, nhưng nơi mà Thầy muốn ông đến.
Và để chứng minh là người ta có thể tin vào lời Đức Giêsu, các ông đã kéo được mẻ cá quá sức phong phú. Lưới gần bị rách. Cả hai thuyền đều đầy cá, nặng đến nỗi gần chìm. Kết quả này không do tài năng của Simôn, nhưng do lời của Đức Giêsu. Simôn cần trợ giúp; ông ra hiệu cho các bạn chài ở thuyền kia đến giúp (c. 7). Nay ta biết tên họ là Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê. Các ông này được gọi là “bạn” (koinônoi) của Simôn (c. 10). Koinônos không chỉ là bạn cùng nghề nghiệp; các tác giả Tân Ước dùng từ ngữ này để chỉ những tín hữu hiệp thông với nhau (x. Cv 2,42.44; 4,32; Rm 12,13; 15,26.27; …).
* Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu (8-10)
Tức khắc, Simôn nhận ra Đức Giêsu là ai và chính ông là ai: kinh ngạc sợ hãi. Ông thưa với Đức Giêsu như là “Chúa tể”, là điều mà trước đây các mục đồng đã được loan báo: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa (2,11). Simôn đã trải nghiệm quyền năng thực thụ của vị Chúa tể này. Do đó, bây giờ không những ông biết ông không ở trên cùng một bình diện với Người, mà còn biết rằng đối diện với Người, ông là một kẻ tội lỗi. Đứng trước quyền năng và sự thánh thiện của Thiên Chúa, con người cảm thấy có nhiều điều trong đời mình không coi được. Kinh nghiệm về Đức Chúa cho thấy nơi Phêrô có nhiều chuyện sai lạc, đi ngược lại với Người và làm cho ông nên bất xứng và không trong sạch. Ông thấy giải pháp cho hoàn cảnh không thể chịu nổi này là Chúa xa ông đi: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (c. 8). Việc Simôn quỳ phục xuống, gọi Đức Giêsu là “Chúa” (kyrios), lời nói về thân phận bất xứng, cho thấy ông đang gặp Thiên Chúa, một kinh nghiệm về thần hiển như trong trường hợp Môsê (Xh 3,6) và Isaia (x. Is 6,5). Ở đây, y như thể Simôn muốn nói rằng: Chúa tránh xa con, để như thế con lại có thể chịu nổi con và lại có sự bình an bề ngoài của con. Nhưng chắc chắn cách xử sự của Đức Giêsu không phải là tránh xa những người tội lỗi và bỏ mặc họ trong tội lỗi và với số phận của họ (x. 5,32). Ý thức của Simôn hoàn toàn đúng, nhưng giải pháp ông đề ra không được Đức Giêsu chấp nhận: Người không tránh xa ông, Người cũng không đẩy ông xa Người, nhưng nhận lấy ông, đưa ông vào phục vụ chương trình của Người. Chính Simôn, người đã nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con!”, lại sẽ đi theo Đức Giêsu cùng với các bạn (5,11).
Ở đây lần đầu tiên và lần duy nhất, bên cạnh tên Simôn quen thuộc, có tên Phêrô: phải chăng đây là một gợi ý kín đáo về sự phản bội của Phêrô trong tương lai? Trong thực tế, việc nhận biết thân phận tội lỗi của mình, trước khi đươc kêu gọi, chứng tỏ sứ vụ của Phêrô không dựa trên các đức tính của ông, nhưng hoàn toàn dựa trên sự ban tặng nhưng-không của Thiên Chúa.
Đức Giêsu tỏ ra rất tế nhị với Simôn. Người không nhận định gì về tình trạng tâm hồn của ông, Người không khuyến cáo; trái lại Người để cho ông làm một hành vi đức tin. Kết quả là Simôn nhận ra sự cao cả, sự tốt lành và quyền lực của Đức Giêsu, nên ông đã dễ dàng, như theo bản năng, từ bỏ các tội lỗi của ông. Khi đó, ông trở nên hoàn toàn tự do, ông có thể hiểu lời mời gọi của Người. Lời mở đầu: “Đừng sợ!” chứng tỏ sự can thiệp của Đức Giêsu mang màu sắc một cuộc thần hiển thực thụ. Lời hứa của Đức Giêsu: “Từ nay, anh sẽ là người thu phục người ta như bắt cá” (NTT: “sẽ là kẻ chài lưới bắt người”) được thêm vào kinh nghiệm mà Simôn đã có về tính vững chãi của lời Đức Giêsu nói. Simôn nhận biết Đức Giêsu như là Đấng muốn người ta đón tiếp Tin Mừng. Trong một cách thức chưa rõ mấy, Đức Giêsu cho ông hiểu rằng ông phải tham gia vào lối hành động này, nhưng luôn dựa vào quyền lực của Người.
* Kết luận: Đời môn đệ (11)
Simôn và các ông khác, tức Giacôbê và Gioan, “đã bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Từ nay, Simôn và tất cả các môn đệ phải nhận biết rằng việc phục vụ mà Đức Giêsu đưa các ông vào dựa trên không phải là các đức tính, các năng khiếu cá nhân, nhưng dựa trên Lời của Người. Hai động từ “bỏ” và “theo” mô tả sứ mạng của người môn đệ. Nằm tại trung tâm cuộc sống của các ông, không phải là một giáo thuyết, nhưng là một con người và một dự phóng đời sống. Tiếng gọi này phát sinh không từ một mệnh lệnh, nhưng từ kinh nghiệm về một Lời mạnh mẽ và hữu hiệu, có thể không những tạo ra một mẻ cá dồi dào lạ lùng, nhưng còn gây nên một tiếng “xin vâng” cho trọn một cuộc đời.
+ Kết luận
Simôn đã hiểu thi hành một nhiệm vụ Đức Giêsu giao nghĩa là gì. Ông cũng trải nghiệm về bản thân ông là ai khi đứng trước Đức Giêsu. Như thế, ông cũng hiểu ra rằng, khi đứng trước một lời hứa của Đức Giêsu, tất cả các khả năng con người, dù có hạn hẹp, cũng như những cơ may thành công, dù có mong manh, cũng không còn đáng bận tâm nữa. Bài tường thuật phép lạ trước tiên là một biểu tượng về sự phong nhiêu của Lời Chúa.
Đây là một sự đảo lộn hoàn cảnh nguyên thủy. Lúc đầu, Simôn, có phần tự hào về bản thân, đã trở thành một người có khả năng nhảy một bước trong đức tin. Từ đó, ông cũng nhận ra được sự nghèo hèn của mình; do đó ông nên khiêm tốn để sống đức tin chan hòa. Chỉ nhờ kinh nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa như thế, người môn đệ mới được đào tạo.
Sứ mạng được ký thác cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, để cho thấy rằng có thể có một tập thể hoàn toàn đặt nền tảng trên sự tha thứ, việc chia sẻ của cải, việc phục vụ lẫn nhau, tôn trọng những người khác. Các Kitô hữu sẽ phải luôn luôn tự hỏi những người khác đang trông chờ mình đưa lại cho họ thứ “ơn cứu độ” nào, mình có thể phục vụ họ tốt nhất cách nào, mình đang lo tìm cứu độ từng con người hay chỉ bảo vệ một cơ cấu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hoạt động tông đồ không thể dựa trên khả năng của các tông đồ hoặc trên thiện chí của những người mà các ngài được cử đến gặp, nhưng chỉ dựa trên trách nhiệm được giao và quyền năng của Chúa. Người ta chỉ có thể đảm nhận công việc ấy “theo lời Người”. Simôn có thể trải nghiệm quyền năng và giá trị của lời Đức Giêsu và phải trải nghiệm về sự giới hạn yếu đuối của bản thân ông. Đồng thời ông cũng trải nghiệm được sự hạ cố nhân ái của vị Chúa tể quyền năng, đã đưa ông vào phục vụ Người. Việc phục vụ này mãi mãi được liên kết với các kinh nghiệm cơ bản này.
2. Các mục tử hôm nay lại không nhận ra bài học cho mình sao? Quyền lãnh dạo của họ trên cộng đoàn Kitô hữu không phải là để họ áp đặt ý muốn của mình, nhưng là để giúp nhận ra ý muốn của Đức Giêsu. Họ có nhận ra tiếng nói của Thầy chí thánh và phân biệt tiếng nói này giữa các cảm xúc, các trực giác và các ý tưởng của họ chăng?
3. Người ta không thể trách Simôn về sự kiện ông là kẻ tội lỗi. Chính ông đã biết rồi, và ông sẽ trải nghiệm về điều này cách cay đắng (Lc 22,33t.54-60). Nhưng Đức Giêsu đã đưa kẻ tội lỗi ấy vào phục vụ Người, đã cầu nguyện cho ông (22,31t), đã nhìn ông với ánh mắt nhân hậu (22.61t). Như thế, Simôn có thể chu toàn nhiệm vụ, mà không bao giờ cậy dựa vào các sức mạnh của mình, nhưng tín thác vào Lời Chúa.
4. Khi biết nhìn đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta, quyền năng cũng như lòng tốt của Ngài, chúng ta mới nhận ra sự nghèo nàn và cần ơn cứu độ của chúng ta. Simôn đã nhân ra điều đó, ông không sợ hãi gì nữa; cho dù kẻ khác có nghĩ ông là một kẻ tội lỗi, điều này cũng quan hệ gì. Ông đã bước được một bước quyết liệt trong việc giải phóng bên trong. Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người. Con thuyền của Phêrô chính là Hội Thánh. Đức Giêsu vẫn tiếp tục dạy chúng ta trên chiếc thuyền này, dọc theo dòng các cuộc cử hành Phụng vụ, và nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.
5. Chính Thiên Chúa ban ơn gọi cho loài người. Mọi người phải bỏ mọi sự mà đáp trả quảng đại. Như thế là thực hiện một bước điên rồ, nhưng chính bước điên rồ này làm nên con người. Simôn đã thực hiện sự từ bỏ này khi thả lưới trái với kinh nghiệm thông thường, rồi sau đó, khi bỏ mọi sự mà bước theo Đức Giêsu. Nhờ dám “đánh liều cuộc đời”, Simôn trở thành người mà Thiên Chúa nhắm khi cho ông xuất hiện trong cuộc đời. Trong gia đình Kitô hữu, giáo dục con cái biết sống quảng đại là cách thức tốt nhất để chuẩn bị cho con cái sống quảng đại, để nhờ đó, chúng thực hiện được chương trình của Thiên Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam