Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1365100

ƠN GỌI

ƠN GỌI

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.

Tôi ban cho chúng sự sống đời đời

“Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất”.

Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi” (Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.

Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.

Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi

“Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một”.

Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi “tơ trời” có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.

Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.

Dụng cụ ban ơn cứu độ

Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.

Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.

Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Ơn gọi là gì? Làm sao biết một người có ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?

2. Ơn gọi linh mục, tu sĩ và ơn gọi hôn nhân, ơn gọi nào cao quý hơn? Tại sao?

3. Làm sao để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?

 

77.Chiên Ta thì nghe tiếng Ta - Lm. Thu Băng

Bên Ấn Độ, người ta bắt khỉ bằng cách làm một cái hộp gỗ, có một cái lỗ nhỏ vùa đủ để khỉ thọc tạy vào. Nhưng nếu nó nắm một hạt dẻ đựng trong hộp thì nó không thể lấy tay ra được. Do đó khỉ có thể chọn một trong hai việc: Buông hạt dẻ để có thể chạy thoát, hoặc nắm lấy hạt dẻ để bị bắt. Nhưng khỉ thường nắm chắc hạt dẻ, vì nó không thể hiểu được mánh lới người ta gài bẫy để bắt nó.

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra một cuộc lựa chọn cho người Do Thái. Họ trách Chúa để họ nghi nan, để họ thắc mắc Chúa có phải là Đấng Thiên Sai không. Chúa không trả lời trực tiếp nhưng dùng thí dụ: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta và chiên Ta là một".

Chúa Giêsu muốn nói cho người Do Thái biết rằng Đức Tin là dấu hiệu của người được Chúa tuyển chọn. Đức Tin ban cho con người khả năng nhận ra tiếng Chúa để mà bước theo. Chiên có đôi mắt nhìn kém, nhìn xa không rõ, nên nó phải đi theo nhau thành đàn và lắng nghe tiếng chủ chăn mà đi, không theo tiếng người lạ.

Ngày nay đức tin nơi con người bị giảm sút, sống trong một xã hội hưởng thụ vật chất, thích hào nhoáng, ưa an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa, cũng như con khỉ muốn thủ lợi, bám chặt lấy hạt dẻ mà không muốn buông ra để khỏi bị lụy vào thân. Cái mồi vinh hoa phú quý vẫn có thể chụp bắt bất cứ ai (từ trẻ thơ cho tới người râu tóc bạc phơ), lao mình vào cái chết.

Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, đón mừng người biết nhắm mắt nghe theo tiếng Chúa, biết lựa chọn, biết sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô tử giá. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống hào nhoáng, tham vọng, bỏ đi lối sống ngang trái, vụng trộm, lừa lọc..... và nhiều lối sống khác chúng ta đang có thể mắc phải. Bỏ đi được chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm lại được sự sống đời đời và bảo đảm không mất.

Lạy Chúa là Cha chúng con, Cha đã dựng nên chúng con và ban cho ơn sự sống, ơn đức tin, để chúng con tìm hiểu và suy tư về ơn Chúa mà suy phục, mà nghe theo tiếng Chúa. Vậy xin Cha giúp chúng con biết lắng nghe tiếng Ngài. Xin giúp chúng con biết chu toàn kế hoạch mà Cha đã định, để chúng con được sống hạnh phúc bên Cha mãi mãi.

 

78.Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)

Hình ảnh Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành, ăn rễ sâu trong đời sống đức tin đạo Công giáo từ thời Giáo Hội sơ khai thuở ban đầu.

Hình ảnh này là kim chỉ nam cùng là mẫu gương cho đời sống Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian từ xưa nay.

Hình ảnh này không chỉ là một hình ảnh đẹp thơ mộng, đầy văn chương thi vị, nhưng là hình ảnh sống động chứa chan tình yêu thương trong tương quan liên đới người chăn chiên lo cho đàn chiên.

Đức giáo hoàng Benedictô 16. trong tác phẩm "Giêsu thành Nadarét", mà ngài vừa mới viết xong, và cho xuất bản dịp mừng sinh nhật thứ tám mươi ngày 16.04.2007 vừa qua, đã diễn tả hình ảnh này vừa theo lối văn chương suy tư thần học, vừa tâm tình đức tin và vừa theo phương pháp phân tích khoa học.

“Chúng ta trở lại chương 10. Phúc âm Thánh Gioan nói về người Chăn chiên: “Thầy là người chăn chiên nhân lành". Bài tường thuật lịch sử này vẽ lên rõ nét hình ảnh người chăn chiên, cùng ẩn chứa bốn động lực căn bản.

- Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành hứa ban: sự sống đầy đủ dồi dào. Sự sống đầy đủ dồi dào như mỗi người mong đợi. Nhưng điều đó là gì vậy? Đâu là nội dung của sự sống đó? Nơi nào ta có thể tìm kiếm được sự sống đó? Khi nào và như thế nào chúng ta có “sự sống đầy đủ dồi dào"? Nếu chúng ta cứ sống như người con hoang đàng, chúng ta có bỏ lỡ món qùa tặng của Thiên Chúa không? Nếu chúng ta sống như kẻ ăn trộm, như kẻ cướp - tất cả chỉ cho mình, thì sao?

Chúa Giêsu hứa, Ngài sẽ chỉ dẫn lối cho các con chiên tìm tới “đồng cỏ", nơi đó có thức ăn, có nguồn nước cho đời sống. Thánh Vịnh 23 nói với chúng ta: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.

Người đưa tôi tới dòng nước trong lành...Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc...

Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời," (Tv 23, 2.5f)

Tiên tri Edêkien cũng diễn tả: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en" (Ez 34,14)

Nhưng tất cả những điều đó có ý nghĩa gì? Chúng ta biết, những con chiên sống bằng gì; con người sống bằng gì?

Các Tổ phụ cha ông ngày xưa đã dùng hình ảnh trong vùng cao nguyên núi đồi bên đất nước Israel có những cánh đồng cỏ ở nơi cao, nơi đó có bóng râm che rợp, có nước, làm hình ảnh của Lời Thiên Chúa cho sự sống trong Kinh Thánh. Và nếu hình ảnh đó không hợp với ý nghĩa lịch sử, như trong bài diễn tả, các ngài cũng đã nhìn đúng, nhất là Chúa Giêsu đã tự hiểu về mình đúng như thế. Con người sống bằng sự chân thật, bằng được yêu thương, bằng được yêu thương trong sự chân thật. Con người cần một Thiên Chúa gần gũi bên cạnh họ, một Thiên Chúa cho ý nghĩa đời sống, một Thiên Chúa hướng dẫn đường đời sống.

Tất nhiên, con người cần cơm bánh, cần của ăn thức uống cho thân xác. Nhưng họ cần điều gì thâm sâu hơn, nhất là Lời, tình yêu và chính Thiên Chúa. Ai trao cho người nào điều đó, người đó trao tặng “sự sống dồi dào". Như thế mang đến sức mạnh, qua đó người làm cho đời sống trên mặt đất đầy đủ ý nghĩa.

- Động lực thứ hai của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành thể hiện qua biến chuyển mới: Người chăn chiên nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên" (10,11). Thánh gía chiếm trung tâm điểm của đời sống người chăn chiên nhân lành không phải như hành động của sức mạnh ép buộc, nhưng là sự tự hy sinh hiến thân: “Ta hiến mạng sống mình để lấy lại. Mạng sống của Ta không ai lấy đi được, nhưng chính ta tự ý hy sinh mạng sống.” (10,17)

Trong Bí tich Thánh Thể, Chúa Giêsu đã biến đổi hành động sức mạnh ép buộc bị đóng đinh trên thánh gía thành cử chỉ tự hiến thân hy sinh cho người khác.

- Động lực thứ ba của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự biết nhau giữa người chăn chiên và đàn chiên: “... người chăn chiên gọi các con chiên của mình, anh ta biết tên từng con chiên và dẫn chúng ra ngoài. Các con chiên theo anh ta, chúng quen biết tiếng của người chăn dắt chúng. (10,3).

Người chăn chiên biết các chiên mình thuộc về mình, và các con chiên biết mình thuộc về người chăn chiên. Người chăn chiên sở hữu các con chiên không phải như bất cứ đồ vật cần dùng nào. Chúng thuộc về anh ta vì anh ta biết chúng. Điều này biểu hiện mối liên quan mật thiết sâu thẳm hơn là sở hữu một món đồ vật.

Con cái không là vật sở hữu của cha mẹ; vợ chồng không là sở hữu của một người khác. Nhưng họ thuộc về nhau theo chiều tâm linh sâu thẳm hơn là sở hữu làm chủ một khúc gỗ, một miếng đất. Con cái thuộc về cha mẹ, nhưng dẫu vậy chúng vẫn là thụ tạo tự do của Thiên Chúa tạo dựng. Đời sống mỗi người con có một sứ mệnh riêng, có một điều mới riêng, có một bản vị riêng trước mặt Thiên Chúa.

Con cái cha mẹ thuộc về nhau không phải như vật sở hữu, nhưng có trách nhiệm với nhau. Họ thuộc về nhau trong tự do và trong tình yêu thương cho nhau.

- Động lực thứ tư của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự hiệp nhất nên một "Ta còn có những chiên khác không thuộc về đàn này. Ta cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử. (10,16).

Chúa Giêsu, sau khi sống lại, sai các Tông đồ đi rao giảng không chỉ nghĩ đến những con chiên lạc đàn ở Israel, nhưng đến tất cả mọi người: “Anh em là nhân chứng cho Thầy ở Giêrusalem, toàn miền Giudea, Samaria và tới tận cùng biên cương trái đất" (Cv 1,8)

Lý do sâu thẳm của sứ mạng sai đi rao giảng tập trung ở điểm: Chỉ có một đàn chiên.. Ngôi Lời (Logos) đã thành người qua Chúa Giêsu, là người chăn chiên của hết mọi người. Tất cả mọi người được tạo thành do Lời của Thiên Chúa. Cho dù họ có tản mát khắp nơi, nhưng vẫn là một phát xuất từ nơi Thiên Chúa và rồi lại quy tụ về nơi Ngài. Trong Ngôi Lời (Logos) loài người có thể quy tụ trở nên một, đấng là người chăn chiên đích thực, đấng đã làm người hy sinh hiến mạng sống, và đã trao tặng sự sống dồi dào.

Hình ảnh người chăn chiên từ thời xa xưa, vào thế kỷ thứ 3 đã ăn sâu đậm nét vào đời sống Kitô giáo. Hình ảnh này thân thương quen thuộc trong đời sống ở thành thị lẫn thôn quê. Kitô giáo đã tìm thấy hình ảnh này nơi Thánh vịnh 23: “Chúa là mục tử. Nơi Ngài tôi không còn thiếu gì. Người dẫn tôi ra đồng cỏ xanh tươi. Người dẫn tôi đi qua thung lũng tối tăm hiểm nguy...".

Nơi Chúa Giêsu Kitô họ nhận ra hình ảnh người chăn chiên nhân lành, người trong đời sống đã trải qua những thung lũng tối tăm. Người chăn chiên đó đã trải qua đêm đen tối sự chết, người chăn chiên biết đường đi qua đêm tối sự chết, không bỏ ai một mình đơn cô, nhưng dẫn đưa đến đồng cỏ sự sống xanh tươi, nơi có ánh sáng bình an..

Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cũng không quên dụ ngôn người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. Khi tìm thấy, anh ta vác bế nó trên vai đưa trở về nhà. Với các Giáo phụ hai hình ảnh này đan bện vào nhau: người chăn chiên lên đường đi tìm con chiên lạc đàn là chính Ngôi Lời, và con chiên lạc bồng bế trên vai đưa về nhà là loài người, mà Ngài đón nhận.

Qua nhập thể làm người và qua cái chết trên thánh gía, Chúa Giêsu đã bồng ẵm con chiên lạc - là loài người, trở về nhà. Ngôi Lời đã thành người. Ngài là người chăn chiên và bồng bế con chiên, cùng là người theo sát cuộc sống con người trần gian qua mạo gai và sa mạc đời sống. Nhờ được Ngài chấp nhận bồng ẵm chúng ta trở về nhà. Ngài đã hy sinh mạng sống cho chúng ta. Ngài chính là sự sống." (Joseph Ratzinger- Benedickt XVI., Jesus von Nazareth, I., 2007 Verlag Herder, Freiburg im Bresgau, 8. Kapitel - Der Hirte, S. 317 - 331)

 

79.Chúa Nhật Chúa Chiên Lành

Các em vừa nghe đọc Tin Mừng của thánh Gioan, nhưng bây giờ, thầy chỉ chọn một câu để chia sẻ với các em thôi. Và để các em nhớ và thuộc câu này, thầy mời gọi các em cùng đọc với thầy: "Con chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta".

1. Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, thánh Gioan có nhắc đến tên một con vật, con đó là con gì? TL: Chiên. Các em biết, hôm nay là Chúa Nhật IV Phục sinh, còn có tên gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chúa dùng hình ảnh quen thuộc của người Do Thái là con chiên và người chăn chiên để nói lên Chúa luôn yêu thương và quan tâm chăm sóc các em trong cuộc sống hằng ngày. Chúa thì thương lo cho mình, còn mình là thiếu nhi phải đáp lại thế nào đây?

Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, Chúa dạy mình đáp lại bằng cách nghe và theo Chúa, theo thầy, cụ thể qua việc đến nhà thờ học giáo lý mỗi Chúa Nhật.

2. Ở đây, các em học giáo lý lúc mấy giờ, thứ mấy? Học giáo lý chính là theo Chúa và nghe Chúa. Thế nhưng, đang lúc các em học giáo lý, có những bạn khác không nghe theo tiếng gọi của Chúa mà theo những tiếng khác để đi chơi game, đi đá banh, đi đám cưới với bố mẹ, đi siêu thị với người thân... Còn cũng có những em tốt hơn chút, cũng đi học giáo lý, nhưng lúc dì hay giáo lý viên cắt nghĩa giáo lý, em đánh cờ carô với bạn, em thọt léc bạn bên cạnh, em ngồi ngủ, hoặc lo ra nghĩ chuyện đâu đâu đó. Đó là những hành động cho thấy em hỏng muốn nghe tiếng Chúa.

Các em thân mến! Lý do các em không muốn đi học giáo lý và chơi giỡn trong giờ giáo lý vì mình chưa thấy sự quan trọng của việc học giáo lý. Thầy nói cho em biết học giáo lý quan trọng thế nào qua bài cám ơn của một em rước lễ lần đầu ở họ đạo thầy: " Sau khi rước lễ lần đầu xong, một em thiếu nhi đứng giữa nhà thờ đọc bài cám ơn, rất đông người trong nhà thờ đang lắng nghe, sau khi cám ơn Cha sở, các giáo lý viên, em bắt đầu cám ơn cha mẹ em: Kính thưa cha mẹ, cha mẹ thương con nhiều, con không biết cha thương con đến mức nào nhưng con hiểu được tình thương bao la của mẹ qua những lần trời mưa to,mẹ vẫn mặc áo mưa, chạy xe đạp chở con đến nhà thờ để học giáo lý. Trong những bước đi đầu đời của con đến với Chúa, mẹ đã ân cần quan tâm đưa đón, thì con tin rằng mẹ sẽ là chỗ dựa đức tin vững chắc cho cuộc đời của con sau này". Và khi em đọc đến đó, người ta thấy nhiều giọt nước mắt đang lăn dài trên má của các bà mẹ tham dự lễ ngày hôm đó.

Các em thiếu nhi thân mến, không cần nói nhiều, trời mưa mà mẹ vẫn chở em đi học giáo lý cho thấy việc học giáo lý cần hơn, quan trọng hơn việc chơi game, đi đá banh, đi siêu thị, đi học thêm. Vì học giáo lý làø nghe tiếng Chúa, là đi theo Chúa mà.

Kính thưa OBACE! Trời mưa, một bà mẹ nhà quê chở con đi học giáo lý, OBACE thấy có dại dột quá không? Dại hay không thì chưa biết nhưng bà hiểu được đúng đắn rằng dù con là do mình sinh ra nhưng thực sự nó là con cái Thiên Chúa, nó phải cần được học giáo lý để biết cha nó là ai và học giáo lý để biết sống làm sao mai này về hưởng phước với cha nó. Đến giờ con học giáo lý, nó đòi đi học thêm, mình là cha là mẹ chiều nó, sợ nó học thua các bạn. Sau này, nó có thể thành tài đó, nhưng nó không biết cách làm con Chúa, không biết cách sống đạo cho tử tế, mất phần rỗi linh hồn, trách nhiệm nó, bậc làm cha làm mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa. Còn ngược lại, nếu mình biết quan tâm cho con cái đi học giáo lý đàng hoàng, nó học biết mến Chúa yêu người, nó biết hiếu thảo với cha mẹ, người được hưởng nhờ đầu tiên là OBACE. Do vậy, để đáp lại Lời Chúa hôm nay giúp trẻ nghe và theo Chúa, Xin OBACE dù bận việc đến đâu cũng phải cố gắng sắp xếp đưa con mình đến nhà thờ học giáo lý. Rồi quan tâm xem nó có đi học hay trốn học đi chơi. Nó đi học về, hỏi xem nó học được những gì. Dặn nó học bài, kêu nó trả bài cho mình nghe. OBACE tưởng đâu chuyện mình lo cho con đầy đủ cái ăn, cái mặc, chuyện học ở trường là làm tròn bổn phận làm cha làm mẹ, chưa đâu, đó chỉ là làm cái chuyện phụ. Lo cho con cái học giáo lý biết Chúa, để nó sau này sống tốt mới là bổn phận chính yếu Chúa muốn các bậc cha mẹ cộng tác với Ngài.

Kính thưa OBACE! Hôm nay là ngày Giáo Hội dành đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. OBACE mong ước cho con mình trở thành linh mục, tu sĩ thì xin từ bây giờ, lúc con còn nhỏ, hãy cầu nguyện cho nó. Và hãy cố ý dâng cho Chúa mơ ước này ngay lúc OBACE chở nó đi học giáo lý đó. Đang lúc chúng ta chở con đi học giáo lý cũng là lúc chúng ta đang ươm mầm ơn gọi cho con đó thưa OBACE. Amen.

 

80.Đức Giêsu, Vị Mục Tử sự sống

(Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Minh Chánh)

Trong khuôn khổ trang Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, sẽ giúp chúng ta xác định rất rõ về sứ mạng của Đức Giêsu tại trần gian, trong tư cách là Mục Tử. Vâng Chúa ở cùng chúng ta không gì khác hơn là ban cho chúng ta sự sống đời đời (x. Ga10,3-28).

Sự sống là lý do duy nhất để Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành đến với con người. Đọc xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng, chúng ta rất dễ cảm nhận về vai trò Mục Tử của Đức Giêsu tại trần gian:

1/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử phục vụ sự sống:

Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, nên dù cuộc sống có lầm than vất vả, Chúa luôn nâng đỡ và chạnh lòng thương chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta. Hai phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều đó là bằng chứng nói lên tình thương của Đức Giêsu Mục Tử đối với đoàn chiên của Ngài:

Lần thứ nhất, khi nhìn thấy đoàn người đông đảo theo mình, Đức Giêsu chạnh lòng thương họ. Và với năm cái bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con ăn no nê và dư thừa mười hai giỏ đầy (x, Mt14,13-21).

Lần thứ hai, lại một đám đông người theo Chúa không có gì ăn. Chúa đã chạnh lòng thương, vì đã ba ngày họ sống trong cảnh đói khát cũng vì theo Chúa. Rồi từ bảy chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã hoá ra nhiều để cung cấp cho khoảng bốn ngàn người ăn no nê và con dư thừa được bảy giỏ (x, Mc 8,1-10).

Như vậy, với hai phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì đó cũng là lý do rất chính đáng để chúng ta cảm phục con tim yêu thương của Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Ngài đến để yêu thương chăm sóc từng con chiên, để phục vụ sự sống cho đoàn chiên. Nhờ vậy đoàn chiên của Chúa sẽ được sống và tăng trưởng. Thế nhưng Đức Giêsu còn là Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên của mình

2/ Đức Giêsu Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên:

Trong đoàn chiên của Chúa không phải ai cũng khoẻ mạnh, không phải ai cũng dồi dào sức sống. Ngược lại có những chiên đau yếu bệnh tật, Đức Giêsu Mục Tử rất cảm thông, nâng đỡ và quan tâm đối với những hoàn cảnh riêng biệt này, nhờ đó sự sống của những chiên này sẽ được phục hồi nguyên vẹn.

Trong thời gian công khai rao giảng Tin Mừng, thì cũng là thời gian Chúa Giêsu cứu chữa để phục hồi những chiên đau yếu: Ai câm điếc thì Chúa chữa cho nói và nghe được, ai mù loà thì Ngài cho sáng mắt, ai què quặt thì Chúa chữa để có những bước đi vững mạnh. Và bất cứ chứng bệnh gì, nếu ai gặp được Chúa với tất cả lòng tin, Ngài sẽ đặt tay chữa lành ngay tức khắc (x, Lc 4,40-41).

Đức Giêsu, Vị Mục Tử không những Ngài phục hồi sự sống nơi thân xác của từng con chiên, nhưng Ngài còn phục hồi sự sống tâm linh cho các chiên của mình: Đức Giêsu đã từng trục xuất ma quỷ ra khỏi những ai mà chúng đã ám hại. Ngài rất nhiều lần tha thứ tội lỗi cho những người mà cuộc sống quá khứ của họ đã bóp nghẹt sự tăng trưởng đời sống tâm linh, nhờ đó mà họ sẽ có đời sống mới trong Ngài. Kinh nghiệm từ lần đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu Mục Tử của Matthêu, Giakêu, hay người phụ nữ tội lỗi đã xức dầu thơm cho Chúa khi Ngài dùng bữa tại nhà một người thuộc nhóm Pharisêu..., thì đó cũng là thời gian in đậm dấu ấn lòng nhân từ của Đức Giêsu nơi những con người này. Dấu ấn nhân từ ấy đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống quá khứ của họ, từ đây họ sẽ vươn lên một cuộc sống tương lai theo thánh ý Chúa, sau khi đã được Chúa phục hồi sự sống bằng ơn tha thứ.

Khởi đầu từ hình ảnh Vị Mục Tử phục vụ sự sống, rồi Vị Mục Tử ấy còn là người phục hồi sự sống cho đoàn chiên. Bao nhiêu việc làm ấy, người Mục Tử mang tên là Giêsu vẫn chưa hài lòng với sứ vụ yêu thương phục vụ trong thế gian. Vì đỉnh cao sứ vụ Mục Tử của Đức Giêsu là khi Ngài tự trao ban sự sống của mình cho đoàn chiên.

3/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử trao ban sự sống:

Đức Giêsu đã nói: "Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga10,11). Như vậy, Đức Giêsu đến trần gian không phải tìm sự sống cho mình, nhưng Ngài tìm sự sống cho đoàn chiên. Sự sống Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên không phải là sự sống tầm thường hay tạm bợ, cũng không phải là sự sống giả tạo hay thiếu phẩm chất. Sự sống mà Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên đó là sự sống muôn đời. Đó chính là lý do mà Chúa đến với chúng ta.

Vì thế trong Bữa Tiệc Ly trước khi chịu chết, Đức Giêsu Mục Tử đã trao ban chính sự sống của Ngài cho chúng ta, dưới hình bánh và hình rượu. Khi Chúa cầm tấm bành và cầm chén rượu nho trên tay và nói: Này là mình Thầy... Này là chén máu Thầy..., thì đó chính là giây phút Ngài trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài, Ngài đặt sự sống của chúng ta trên bản thân Ngài, Ngài đã trở nên người tôi tớ để phục vụ sự sống cho chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ được sống dồi dào. Sống dồi dào đó là cuộc sống phải được nuôi dưỡng bằng chính Máu Thịt của chính Đức Giêsu Mục Tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Vì Chúa đã nói: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống laị vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống" (Ga 6,54-55).

Chiêm ngưỡng hình ảnh của Đức Giêsu Mục Tử, thì đó cũng là mời gọi chúng ta hãy sống những tâm tình như Ngài.

4/ Sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu:

Chúa Giêsu Mục Tử luôn đứng về sự sống, luôn bênh vực sự sống, luôn bảo vệ sự sống. Ngài mời gọi chúng ta là những người có Tôn giáo, những người có Đức tin cũng theo Ngài trên mọi nẻo đường để bênh vực sự sống. Vì Chúa không hề muốn đau khổ và sự chết, Chúa không bao giờ muốn gieo cái chết ở khắp mọi nơi: Như những ai lấy danh Thiên Chúa, danh Tôn giáo để khủng bố nổ bom tự sát làm chết 180 người vô tội, như tại Iraq vào trung tuần tháng tư vừa qua. Chúa cũng không bao giờ muốn vì sự kỳ thị Tôn giáo mà một số người Hồi giáo đã cắt cổ ba người làm việc ở một nhà in Kitô giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 19/4/2007. hay tại Pakistan,hay quân Hồi giáo Hizbul đã chặt đầu anh Manzoor Ahmad Chad 33 tuổi, sau đó chúng đã để đầu anh trong một Đền thờ Hồi giáo vào ngày 14/4/2007 vừa qua...

Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa luôn mong ước con người hãy lấy tình yêu mà đối sử với nhau. Chúa luôn mong ước con người hãy noi gương Chúa gieo nền văn minh sự sống trên mọi nẻo đường của cuộc đời, Chúa luôn mong ước con người hãy sống sứ vụ mục tử của Ngài là bảo vệ sự sống cho nhau.

Như vậy, khi chúng ta biết hy sinh chính mình để chạnh lòng thương nâng đỡ những người đói khát, những người đau yếu, biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Thì đó chính là lúc chúng ta đang sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu.

Và khi chúng ta biết bảo vệ và bênh vực Giáo Huấn về sự sống của Giáo Hội, biết thực hành nghiêm túc và tránh xa những gì làm tổn thương và nguy hại đến Giáo Huấn ấy, thì đó cũng là lúc chúng ta đang trở thành chứng nhân biết bảo vệ sự sống cho nhau. Vì sự sống con người là do Chúa ban, chính Chúa làm chủ sự sống ấy. Con người không được phép dùng sự tự do của mình để huỷ diệt sự sống, để gieo rắc nền văn minh sự chết trong môi trường mình đang sống.

Lạy Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin cho đời sống chúng con luôn chiếu toả hình ảnh Người Mục Tử của Chúa, luôn biết xây dựng và gieo rắc nền văn minh sự sống khởi sự từ chính cá nhân, trong gia đình và trong cộng đồng nhân loại chúng con. Amen.

 

81.Mục tử nhân từ - Lm. Minh Vận

Trong các hang Toại Đạo tại Roma, ngày nay du khách còn thấy nhiều bức tranh vẽ trên tường vách về Chúa Kitô và các hình ảnh trong Sách Thánh; nhưng có một hình ảnh thời danh và hấp dẫn nhất, đó là hình ảnh Chúa Kitô, vị mục tử hiền lành, âu yếm khoác con chiên trên vai, với dung mạo nhân từ khả ái.

I. CHÚNG TA LÀ ĐOÀN CHIÊN CHÚA

Trong Cựu Ước, Đức Giavê tự xưng là Mục Tử chăn dắt đoàn chiên Israel; trong Tân Ước, Chúa Kitô cũng tự xưng Ngài là Chúa Chiên Lành với dụ ngôn con chiên lạc. Ngài đã tỏ tình thương yêu đoàn chiên đến hiến mạng sống vì đoàn chiên. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa còn tự xưng mình là cửa chuồng chiên.

Chúng ta là đoàn chiên Chúa, chính Thánh Phêrô Tông Đồ đã khuyên: "Xưa kia anh chị em như những con chiên lạc, giờ đây anh chị em đã trở về cùng vị Mục Tử và Đấng canh giữ linh hồn anh chị em. Chúa Kitô là cửa chuồng chiên, cửa duy nhất và cần thiết". Còn chúng ta là đoàn chiên Chúa. Chúng ta muốn được cứu rỗi, chúng ta phải qua cửa là Chúa Kitô. Chuồng chiên chính là Giáo Hội Công Giáo Chúa Kitô đã thiết lập. Công Đồng Vaticanô II đã dạy: "Giáo Hội là chuồng chiên, mà Chúa Kitô là cửa vào duy nhất và cần thiết. Giáo Hội là Đoàn Chiên mà Chúa Kitô là Mục Tử. Tuy được các mục tử loài người chăn dắt, các chiên ấy luôn được chính Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Từ và Thủ Lãnh các mục tử dẫn dắt và nuôi dưỡng, Ngài đã phó mình vì Đoàn Chiên" (G. H. # 5).

II. CHÚA KITÔ, GƯƠNG MẪU ĐOÀN CHIÊN

Thánh Phêrô nhắn nhủ chúng ta: "Chúa Kitô chịu đau khổ vì chúng ta, lưu lại cho chúng ta tấm gương để chúng ta theo vết chân Người". Ngài còn nhấn mạnh hơn: "Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại. Bị hành hạ, Người không ngăm đe. Chính người đã gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta. Để khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta được sống cho sự công chính".

Chúa Kitô là Thủ Lãnh, không như các biệt phái và thầy thông giáo xưa, cũng không như các vị lãnh tụ xã hội ngày nay, họ nói mà không làm; chồng chất những gánh nặng và lề luật khắt khe trên người khác mà chính họ lại không tuân giữ, không thèm động tay vào. Trái lại, Chúa truyền dạy và Chúa đã làm, tự đặt mình như mẫu gương cho chúng ta noi theo bắt chước khi kêu gọi chúng ta: "Thầy đã làm gương để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm". Chúa Kitô, Mục Tử duy nhất của chúng ta muốn chúng ta tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Ngài, như chính Ngài đã tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa Cha. Chúa Kitô với tấm lòng người con thảo hiếu, Ngài đã thưa lên với Chúa Cha khi đến trần gian: "Lạy Cha, này Con xin đến để thực thi thánh ý Cha" (Heb 10:7).

III. ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI CHỦ CHĂN

Chúng ta là những con chiên trong Đoàn Chiên của Chúa Kitô, Chúa là Mục Tử, nhưng chúng ta đã biết lắng nghe và thực thi theo thánh ý Chúa, đúng với tư cách là những con chiên ngoan thảo nhận biết và vâng theo tiếng vị Mục Tử chưa? Vì, đã là những con chiên ngoan thảo luôn biết sẵn sàng lắng nghe và đi theo tiếng gọi của Chủ Chăn, như Chúa đã dạy: "Ta nhận biết các chiên của Ta và các chiên của Ta nhận biết Ta".

Chiên phải nghe theo tiếng Chủ Chăn, không nghe theo tiếng người lạ. Nhưng trong thực tế, nhiều người trong chúng ta đã rất khó nghe tiếng Chúa; trái lại, thích nghe theo những luận điệu đường mật của kẻ khác, vì nó hợp với bản tính tự nhiên, mặc dầu trái với lương tâm chân chính của chúng ta, trái với luật Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Có những người còn phàn nàn kêu trách: "Thời buổi văn minh mà, Giáo Hội sao mà khắc khe quá!"

Chiên phải bước theo vết chân và đường lối Chủ Chăn, không đi theo người lạ; trái lại, còn phải trốn tránh chúng nữa. Nếu chúng ta không trốn tránh những người luôn tỏ ra những luận điệu đả kích, những lý thuyết chống đối trái nghịch với các giáo huấn và đường lối của Giáo Hội, bọn họ thường hay bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, một ngày kia chúng ta cũng sẽ bị bọn họ quyến rũ và sẽ mắc mưu của họ. Chúng ta sẽ bị gục ngã theo họ, sẽ mất dần ý thức tội lỗi, để rồi cũng sẽ vùi dập lương tâm, theo con đường trụy lạc như bọn họ.

Kết Luận

Là con cái của Chúa trong Đoàn Chiên Chúa Kitô, chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Chúng ta đã luôn biết lắng nghe và thực thi các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa chưa? Thánh ý Chúa luôn được tỏ ra nơi tiếng lương tâm chân chính, nơi chủ ý của các vị đại diện Chúa, nơi luật lệ và các giáo huấn của Giáo Hội, nơi Lời Chúa trong Thánh Kinh.

Lạy Mẹ, Mẹ là Đấng đã được Chúa khen ngợi: "Hạnh phúc hơn nữa cho Mẹ, vì Mẹ đã luôn lắng nghe và thực thi Lời Thiên Chúa". Xin Mẹ giúp chúng con noi theo gương Mẹ, luôn suy niệm và sống Lời Chúa.

 

82.Chứng nhân mới - Trần Quang Huy Khanh

Nghe-Thấy-Theo. Đó là 3 yếu tố quan trọng trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu, đặc biệt, là những chứng nhân của thời đại chúng ta đang sống. Người tông đồ hay chứng nhân cho Chúa Giêsu hôm nay nếu thiếu những yếu tố này sẽ trở thành kệch cỡm, giả hình và thiếu hấp dẫn. Đức Gioan Phaolô II đã nhận xét về con người chứng nhân của thời đại này, và theo Ngài, thì thế giới hôm nay không thiếu những nhà giảng thuyết, nhưng thiếu những chứng nhân.

Nhận xét trên đến từ phản ảnh trung thực cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Ngài đến trong trần gian, sống giữa đời, ẩn dật và suy niệm đúng 30 năm. Ba mươi năm cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa Cha. Đó cũng là 30 năm Ngài nhìn thấy Chúa Cha, và Chúa Cha nhìn thấy Ngài: “ChaTa và Ta là một” (Gioan 10:30). Và sau khi đã nghe tiếng Chúa Cha, hiểu được ý của Chúa Cha, Ngài đã lên đường hành đạo. Ba năm rao giảng Tin Mừng, để rồi kết thúc bằng thảm kịch trên Núi Sọ. Nhờ “nghe-thấy-theo”, Chúa Giêsu đã trở thành căn nguyên Ơn Cứu Độ của nhân loại.

Thật vậy, hình ảnh người chứng nhân của thế kỷ chúng ta đang sống hôm nay cũng chính là hình ảnh mà Chúa Giêsu đã gợi ý, và đã được Thánh ký Gioan ghi lại bằng một hình ảnh quen thuộc: Những con chiên trong một đàn chiên. Những con chiên hiền lành đã nghe, thấy, và đi theo người chăn chiên.

Nghe tiếng Chúa. Điều quan trọng nhất của người chứng nhân là phải nghe được tiếng Chúa. Nếu không nghe và nhận ra được tiếng Ngài, chắc chắn chúng ta không biết Ngài là ai, và điều gì Ngài muốn chúng ta làm. Trong tâm lý phát triển, đứa trẻ khi mở mắt chào đời việc đầu tiên là em nghe được tiếng mẹ. Thính giác hoạt động trước giúp đem em lại gần với mẹ. Do nghe được tiếng mẹ, em tìm được sự săn sóc, tìm được hơi ấm và bầu sữa thơm ngon của mẹ. Người Kitô hữu muốn tìm thấy Chúa Giêsu cũng phải biết nghe và nhận ra tiếng Ngài.

Nhưng làm thế nào để nghe và nhận ra tiếng Chúa, một tiếng nói êm ái, dịu dàng và thân thương như tiếng đập của con tim người mẹ hiền, như tiếng thì thầm của đôi tình nhân, và như tiếng gió thoảng của Thần Khí Thiên Chúa thổi qua trong cuộc đời của mỗi người. Đôi lúc tiếng ấy cũng vang vọng đâu đó trong những tiếng nổ long trời, lở đất của bom đạn, của chết chóc và máu lửa. Và cũng đôi lúc, tiếng ấy lại nghe thấy trong những lao đao, bệnh tật, nghèo túng, và những khắc nghiệt của kiếp người. Tóm lại, tiếng Chúa vang vọng khắp đó đây và trong rất nhiều cảnh ngộ của cuộc đời. Làm thế nào để nghe được những tiếng đó. Cầu nguyện, thinh lặng, và khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng đã nghe được tiếng Cha của Ngài trong âm thầm và cầu nguyện dưới mái nhà Nagiarét.

Sau khi đã nhận ra tiếng mẹ, bước kế tiếp là em bé nhìn rõ mẹ, phân biệt được mẹ với người lạ. Từ đó, em chỉ hạnh phúc khi nhìn mẹ, ngược lai, em hoảng sợ và khiếp đảm khi nhìn những người khác không phải là mẹ. Người Kitô hữu, sau khi nghe và nhận được tiếng Chúa, họ còn phải nhận diện được Ngài, cũng như ở trong tầm nhìn của Ngài. Họ không được đi xa khỏi tầm nhìn Ngài đến độ Ngài không nhìn ra họ, vì làm như vậy họ sẽ bị lạc đường: “Ta biết chiên Ta và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27).

Như hành động nghe tiếng Ngài, người Kitô hữu lúc này phải nhìn được Ngài qua từng nhân vật, từng cảnh vật, và từng biến cố cuộc đời. Họ phải có cái nhìn xuyên thấu bằng cặp mắt đức tin để khám phá ra dung nhan Ngài ẩn hiện chung quanh mình qua những người mình gặp gỡ, để thương yêu, tha thứ và giúp đỡ; cũng như qua những biến cố mà họ phải đối diện trong cuộc sống để không thất đảm, hốt hoảng và mất niềm tin.

Trong vai trò chứng nhân, người Kitô hữu không những chỉ nói về Chúa Giêsu, mà còn phải biết tường tận Ngài là ai, hình dáng, và ngôn ngữ Ngài như thế nào. Vì người chứng nhân của thời đại mới không chỉ nói về Chúa Giêsu, viết về Chúa Giêsu, mà còn sống đúng như những gì mình đã nghe và đã thấy nơi Ngài. Kết quả của đường lối chứng nhân này sẽ thu hút người nghe vì họ tin rằng họ đang nghe những gì mà người nói với họ đã xác tín và hành động như vậy.

“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27). Đặc tính trổi vượt nhất của người chứng nhân là sống và làm chứng cho những gì mình nói. Các Tông Đồ xưa là những người đã thấy, đã nghe, và đã sống những gì các Ngài rao giảng. Họ là những người không những thấy những vết đinh nơi tay chân và vết đâm nơi cạnh sườn Chúa. Hơn thế nữa, như Tôma, họ đã xỏ ngón tay vào những vết đinh, và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa, để rồi thâm tín và thốt lên: “Lậy Chúa tôi. Lậy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28).

Nghe được tiếng Chúa, nhìn thấy Chúa, sống chứng nhân những gì mình đã nghe và đã thấy. Có lẽ trong đời sống Kitô hữu, đây là điều khó khăn nhất nhưng cũng quan trọng nhất. Cũng như trong đời sống chứng nhân, đây là điều thực hành khó nhất nhưng mang lại hoa trái nhất. Vì khi nói về Chúa Giêsu, người nghe phần đông sẽ không hiểu gì và cũng chẳng mường tượng ra Ngài là ai. Nhưng nếu người chứng nhân minh chứng cho họ thấy bằng hành động của mình Chúa Giêsu là ai, lập tức những lời nói của người chứng nhân sẽ có ảnh hưởng rất rõ ràng.

Chúa Giêsu biết Ngài sắp về cùng Chúa Cha. Ngài đã chuẩn bị cho các Tông Đồ, để các ông vào đời và làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ. Ngài biết sứ vụ này không dễ dàng, vì các ông sẽ phải gặp nhiều thử thách đến từ việc cứng lòng tin của con người, nhất là từ những cám dỗ của ma quỉ. Chính vì thế, Ngài đã hiện ra với các ông, và như lần này, Ngài đã dậy các ông về một phương thức truyền giáo thiết thực với tâm lý con người, đó là “nghe-thấy-theo”. Ngài muốn các ông cũng như những ai sau này sẽ làm chứng nhân cho Ngài phải hiểu rằng chính họ là người trước hết phải nghe được tiếng Ngài, biết được Ngài, và nhất là sống với Ngài. Như vậy, từ hôm nay, mỗi khi tôi gặp những khó khăn, những người làm cho tôi khó chịu, và nhất là những bất trắc trong cuộc sống, tôi phải dừng lại ít giây phút để hỏi mình: “Chúa Giêsu đó có phải không? Ngài đang muốn nói với tôi điều gì? Và Ngài muốn tôi làm gì trong vai trò chứng nhân cho Ngài giữa dòng đời hôm nay?”

 

83.Quên mình- Nguyễn Kim Thanh

Hình ảnh người sĩ quan hải quân trong trận chiến chống lại kẻ thù đến xâm chiếm lãnh hải của tổ quốc. Xin được kể lại để ca ngợi tấm gương một con người thủ lãnh. Nó còn là gương sống động của người lãnh đạo đã dám hy sinh mạng sống mình vì các binh sĩ thuộc quyền, vì tổ quốc quê hương. Biết trước được rằng chiến hạm của ông sẽ bị chìm trong vài giờ vì trúng đạn pháo của địch. Vị sĩ quan chỉ huy đã lập tức điều động, phân tán binh sĩ xuống phao cứu nạn và thoát hiểm an toàn. Còn riêng mình, ông đã can đảm đứng trên boong tầu ở tư thế chào, mặt hướng về tổ quốc. Chiếc tầu chìm xuống lòng biển kéo theo cả vị chỉ huy hào hùng, bất khuất. Ông đã được chính phủ tri ân và ca tụng trên các phương tiện truyền thông. Cả báo chí quốc tế cũng coi cái chết của ông là một mẫu gương can đảm, hy sinh tuyệt vời.

Qua bí tích rửa tội, người tín hữu thật sự trở thành dân riêng của Thiên Chúa, thành những chiên con thuộc đàn chiên của Ngài. Ngài là chủ của đàn chiên. Ngài lo chăm sóc chiên của Ngài: lo tìm đồng cỏ, canh chừng thú dữ, tiên liệu thời tiết khí hậu cho chiên được khoẻ, để ý đến từng con một. Phân loại để chăm sóc đặc biệt những chiên bị thương, yếu bệnh, biếng ăn…

Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta là một thông hiệp hai chiều đối với đàn chiên hạnh phúc, an bình.

Nhìn lại lịch sử các tổ phụ, chúng ta cũng thấy được các tổ phụ có nhiều chiên, vì các ngài là dân du mục. Môi sê đã chăn chiên cho nhạc phụ suốt 40 năm trời. Tiên tri Amos là một người làm nghề chăn chiên. Ngay chính David cũng được chọn ngay sau đàn chiên của mình. Chính các vị vua Do thái cũng được coi như một mục tử, cai trị, cai quản dân như người chăn chiên. Nhà vua có quyền trên đàn chiên, cùng đồng hành với chiên và yêu thương chúng.

Sau thời gian ký thế ngắn ngủi, Chúa đã đặt cho Phêrô làm chủ, lãnh đạo đàn chiên. Trong cuộc “sát hạch” cả thể với Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không”. Chính lúc Phêrô xác quyết tình yêu, Chúa đã trao quyền mục tử cho Phêrô: “Hãy chăn dắt các chiên con của Ta, và hãy chăn dắt chiên mẹ của Ta”. Ngày nay, quyền đó được truyền lại cho các vị giáo hoàng kế vị và các giám mục. Các linh mục là thừa tác viên của các giám mục. Đó chính là việc huấn luyện chủ chiên cho đàn chiên Chúa.

Nhiều nơi trên thế giới hiện nay đang phải đối mặt với nhiều loại thú hoang dã đang có nguy cơ bị diệt chủng. Chúng đang ở mức báo động đỏ bị xoá sổ bởi việc phá rừng, săn bắt. Cho nên cả thế giới đã lên tiếng và bắt tay vào việc bảo vệ các loài thú quý hiếm. Họ phân công trực rừng để bảo vệ chúng, từ việc cung cấp lương thực đến việc chữa trị bệnh tật. Nhiều địa danh mới được gọi là Thảo cầm viên bảo vệ động vật quý hiếm.

Các tín hữu cũng vẫn luôn có nhiều kẻ thù rình rập. Chúng ta gọi chúng: thế gian, xác thịt, ma quỷ. Bảy mối tội đầu nằm sâu chìm trong mỗi con người, chúng vùng lên bất cứ lúc nào, mọi nơi, mọi lúc. Vũ khí bén nhậy mà ma quỷ dễ chiến thắng chúng ta là chính những: Vui, Giận, Hờn, Sợ, Yêu, Ghét, Muốn. Vậy để cho tâm hồn được bình an, để cho cuộc sống mỗi con chiên công giáo được chủ chăn bảo vệ, không vào tầm nhắm của kẻ thù. Chúng ta cần có những điều thiết cần đối với chủ chiên mình như sau: Tin tưởng, Lắng nghe, Đồng hành.

Người chăn chiên luôn nhận biết chiên của mình. Như vị y tá biết rõ bệnh nhân mà cô săn sóc. Họ trở nên cái bóng của nhau. Không quản ngại thời gian, sức khỏe, sẵn sàng hy sinh, nếu cần cả mạng sống mình nữa. Sự thân thiện, gắn bó, gần gũi cũng là chìa khoá cho sự trung thành giữa chủ và chiên. Không thể có quan hệ mật thiết với người khác được, một khi ta vẫn cứ khăng khăng giữ khoảng cách xa lạ, thiếu thân thiện. Người chăn chiên luôn lấy khuôn mẫu của Đức Kitô để sống: Hiền lành, Nhân từ, Nhẫn nại, Hy sinh.

Để trở nên một chủ chiên đúng hiệu và đúng ý Chúa, đòi hỏi người chủ chiên ấy cần sống và hạ quyết tâm thực hành điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm: “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”. Câu nói này phải được khắc ghi đậm nét trong trái tim người mục tử. Hình ảnh hy sinh và xả thân vì thuộc quyền, vì tổ quốc của người sĩ quan hải quân kể trên đã cho chúng ta thấy rõ điều này.

Qua bài tin mừng lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta thấy được cánh đồng truyền giáo đang thật cần thiết. Đòi hỏi cả chủ lẫn chiên không thể ngồi không mà nhìn các linh hồn bị hư mất, sa chìm. Hãy cùng nhau cứu các linh hồn. Hãy hướng tâm hồn lên Chúa, hãy “uỷ lạo” vào kho thiêng trên trời bằng tất cả những gì có thể để viện trợ, tiếp viện cứu các linh hồn. Người mục tử cũng như chiên trong đàn luôn áp dụng Lời Đức Kitô: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng biết Ta”.

Xin Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Giáo hội, là Mẹ các chủ chiên, Mẹ của nhân loại ban cho hết mọi người chúng ta ơn bền đỗ, trung thành với nhiệm vụ được trao. Để xứng đáng lãnh nhận lời hứa của Con Mẹ vì chúng con biết Chúa, và Chúa biết chúng con.

 

84.Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Một hôm có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên tại một trường trung học ở thành phố Chicago của Hoa Kỳ. Khi nói chuyện với một giáo viên từng dạy con trai ông, người bố bỗng rưng rưng hai hàng lệ. Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông ngỏ lời xin lỗi và nói: "Con trai tôi hiện không còn chung sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu quí nó và muốn biết nó hiện học hành ra sao."

Tại sao bị vợ con bỏ.

Ông bố cắt nghĩa lý do tại sao vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Ông là một nhà thầu lo việc xây dựng. Có thời gian ông bận rộn làm việc tới 16 tiếng đồng hồ một ngày. Trong hoàn cảnh đó ông ít khi có giờ gặp gỡ vợ con. Và ông buồn bã nói tiếp:

"Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con mọi thứ mà tôi từng mơ ước trao tặng cho họ. Nhưng vì mải mê công việc làm ăn, tôi không quan tâm tới điều mà các con tôi lấy làm cần thiết hơn cả: đó là chúng cần một người cha thường xuyên gần gũi để yêu thương và nâng đỡ chúng."

Người bố trong câu chuyện nói trên đã rưng rưng hai hàng lệ vì chính ông nêu vấn đề đụng chạm tới bề sâu nơi con người ông. Tình yêu đã là động lực khiến ông chọn kết hôn với một người bạn gái. Hai người đã chung sống đời vợ chồng và đã sinh được bốn người con. Nhưng chỉ vì mải mê công việc làm ăn nên ông đã không dành đủ phần quan tâm cần thiết cho vợ con. Kết quả là vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Họ không còn ở trong tầm tay ông nữa. Ông đau khổ trước sự mất mát quá lớn. Bởi lẽ những con người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập tới vấn đề nơi bề sâu của con người Đức Giêsu. Người không những cho biết những ai thuộc về Người mà còn cho biết chính Người thuộc về ai?

Khởi sự tác giả Gioan đặt ta vào bối cảnh lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, trong đó Đức Giêsu cho thấy chính Người là Vị Cứu Tinh Mêsia (Ga 10, 22-31) và là Con Thiên Chúa (cc. 32-39).

Lễ cung hiến Đền Thờ là dịp để người Do Thái mừng chiến thắng vẻ vang do anh em dòng họ Macabê mang lại. Đó là cuộc chiến thắng để rửa nhục cho Israel. Suốt ba năm (167-164 trước CN) quân Syria đã xâm chiếm lãnh thổ dân Thiên Chúa. Họ đã làm cho Đền Thờ ra ô uế bằng cách dựng tượng thần Ba-an ngay trên bàn thờ nơi dân Israel thường dâng của lễ toàn thiêu cho Giavê Thiên Chúa (1Mcb 1, 54; 2Mcb 6, 1-7). Đầy lòng căm phẫn, tướng Giuđa Macabê đã nổi dậy đánh đuổi quân Syria và thiết lập một bàn thờ mới. Bàn thờ này cùng với Đền Thờ đã được tái cung hiến (1Mcb 4, 41-61) với lễ kỷ niệm được cử hành mỗi năm.

Hiến dâng bản thân làm bàn thờ

Điều mà tác giả Gioan ám chỉ là: chính Đức Giêsu hiến dâng bản thân Người làm bàn thờ. Điều đó Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rất rõ khi nói: Bàn thờ là nơi mà Giáo Hội được quy tụ lại; đó chính là "biểu tượng về Đức Kitô hiện diện giữa cuộc tập họp của những ai tin theo Người: Đức Kitô vừa là lễ vật hy sinh được dâng để ta được giao hoà, đồng thời Người còn là của ăn từ trời cao tự hiến để nuôi ta." (số 1383).

Riêng đoạn Tin Mừng Ga 10, 22-29 cho thấy tột đỉnh của những cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Đây là cuộc tranh cãi chót khiến giới hữu trách Do Thái quyết tâm bắt Đức Giêsu. Màn Tin Mừng này chia làm hai; ở giữa là biến cố người Do Thái toan tính ném đá Đức Giêsu.

C. 22 đặt ta vào bối cảnh của lễ Cung Hiến Đền Thờ vào trung tuần tháng 12, kéo dài 8 ngày.

C. 23 định vị cuộc tranh luận gay cấn diễn ra nơi hàng hiên hình thang khổng lồ bao quanh Đền Thờ Giêrusalem. Hàng hiên này ở phía thung lũng Khê-ron quen gọi là hàng hiên Salomon, có lẽ vì cổ kính nhất nên được kể như do chính vua Salomon xây dựng.

C. 24 nối lại việc Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng Người là Đức Kitô và là Con Người. Những người như chị phụ nữ người Samari (Ga 4, 25-26) hay như anh mù từ thuở mới sinh (Ga 9, 36-37), đều là những cá nhân sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu là vị Thiên Sai. Còn ở đây, ngược lại, Đức Giêsu bị bao vây và bị thách đố do những con người đến với ý đồ để bắt bớ Người mà thôi.

C. 25 Đức Giêsu vạch cho người Do Thái thấy nguồn gốc của mọi sự là CHA. Do đó Người đòi hỏi ai nấy phải bày tỏ một niềm tin tuyệt đối bằng cách thuộc về Người để có thể qui về Cha là nguồn gốc của họ.

C. 26 Khi Đức Giêsu của sách Tin Mừng Gioan nói với người Do Thái rằng "các ông không tin tôi vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi," Người ám chỉ về một cộng đoàn hết sức cụ thể, đó là cộng đoàn Kitô hữu dưới sự chăm sóc của Gioan. Cộng đoàn ấy gắn bó mật thiết với Đức Giêsu và được tách biệt khỏi những người không thuộc về Đức Giêsu. Cộng đoàn ấy biết mình sống dưới sự che chở của Đức Giêsu và của CHA Người, cho nên mọi người trong cộng đoàn đều được an tâm vững dạ.

Thuộc về ai

CC. 27-28 đối chiếu cách ăn ở trung tín của các chiên dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu Mục Tử, ngược hẳn lại với thái độ cứng tin của người Do Thái. Ở đây Đức Giêsu nhắc lại "tính cách thuộc về" của các chiên đối với Người: chúng nghe tiếng Người (Ga 10, 3-16); chính Người biết rõ các chiên của Người (cc. 3, 14); chúng theo Người (cc. 10,4) và Người ban cho chúng sự sống đời đời (10, 9-10).

CC. 29-30 cho thấy các chiên được an toàn dưới sự chăm sóc của Đức Giêsu là vị mục tử nhân hậu như Người đã thưa với Cha "Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất" (Ga 17, 12). Cha là Đấng đã ban chúng cho Người. Vì Người và Chúa Cha là một nên không ai cướp được chúng khỏi Người, bởi lẽ Chúa Cha thì lớn hơn tất cả, nên không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.

C. 31-39 cho thấy giữa bối cảnh thù địch của người Do Thái, Đức Giêsu vẫn tiếp tục tự mạc khải và tự hiến mình cho họ và cho mọi người:

- Chính Chúa Cha thánh hiến Người và sai Người đến thế gian (c.36). Thân Thể Đức Kitô phục sinh chính là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho loài người (Ga 1, 14). Đó là nơi loài người có thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và trong Sự Thật (Ga 4,23-24). Cho nên Đức Kitô mới thực sự là Đền Thờ được cung hiến cho Thiên Chúa một cách hoàn hảo và trọn vẹn.

- Đức Kitô đòi mọi người tin vào các việc Người làm (c.38). Các việc ấy bao gồm toàn bộ công trình cứu độ do Người thực hiện: Người đến là để mạc khải cho nhân loại biết Chúa Cha; nơi Người chính Chúa Cha cũng tự mạc khải (c. 38).

Tất cả được nên một

Vậy bài Tin Mừng hôm nay tuy chỉ là một đoạn văn ngắn nhưng đã là một bước chuẩn bị cho lời cầu xin nơi bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu thưa với Chúa Cha: "Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến" (Ga 17, 19). Và trong bữa Tiệc Ly ấy, Đức Giêsu còn cho biết Người không chỉ cầu xin cho Mười Hai tông đồ mà thôi "nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như, lạy CHA, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta." (c. 20-21).

Trở lại với người bố rưng rưng hai hàng lệ trong câu chuyện nói trên. Người bố ấy đau khổ vì vợ ông và bốn con ông là những người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa! Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói tới mối tương quan thâm sâu là mối tương quan khiến cho người này cảm thấy mình thuộc về người kia, nhưng với Đức Giêsu mối tương quan ấy có cơ sở thực là vững vàng:

- Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êdêkien đã từng mô tả Giavê Thiên Chúa là vị Mục Tử lý tưởng: "Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta? Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ bồi dưỡng; con nào mập béo, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng." (Ed 34, 15-16). Trong Tin Mừng của Gioan, chính Đức Giêsu tự mô tả mình là vị Mục Tử lý tưởng đó với điều đặc sắc là: Người biết các chiên của Người để chăm sóc và yêu thương chúng vì chúng thuộc về Người; chính Người ban cho chiên của Người sự sống đời đời (c. 28). Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

Mối tương quan giữa Đức Kitô và các chiên của Người thực sự vững vàng đến nỗi Người khẳng định rằng "không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (c. 28). Lý do "vì Tôi và Chúa Cha là một" (c. 30) mà Chúa Cha "lớn hơn tất cả" thì còn có ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha đâu!

Một số câu hỏi gợi ý

1. Bạn nghĩ điều gì có thể thực sự an ủi người bố đau khổ trong câu chuyện nói trên: có phải việc ông được biết con ông học hành ra sao nơi học đường? Hay việc ông được chung sống trở lại với vợ con ông? Hay bạn cảm thấy chưa được cung cấp đủ tin tức về người bố đau khổ nói trên? Nhưng dựa theo bài Tin Mừng hôm nay, bạn có thể nói gì với người bố đó nếu bạn được yêu cầu và nếu bạn biết rõ người đó có chung một đức tin Kitô giáo với bạn?

2. Bạn nghĩ gì về câu nói của Chúa Giêsu áp dụng với trường hợp bạn khi Người nói "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời"? (cc.27-28) Điều gì bạn thấy là tâm đắc nhất trong câu nói đó của Chúa Giêsu?

 

85.Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Trong lĩnh vực Y học ngày nay, người ta phát hiện về khả năng nghe biết của thai nhi ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ.

Có những thí nghiệm gần đây cho thấy: một bà mẹ mang thai, hai vợ chồng đặt tên cho con của mình ngay từ khi siêu âm và biết nó là con trai hay con gái. Khi đã đặt tên cho con, ông bố hằng ngày trước khi đi làm hoặc đi đâu về đều gọi tên của bé. Rồi một ngày nọ, họ cho rất nhiều người đàn ông đi qua và cất tiếng gọi. Bé vẫn nằm im trong dạ mẹ. Nhưng đến lượt bố của em, ông cất tiếng gọi, vừa dứt lời, em đã ọ ẹ và chân tay vẫy đạp trong bụng mẹ. Quả thật là một điều kỳ diệu. Thật vậy, cũng tương tự, ngày nay, người ta muốn cho con của mình sau này làm gì thì các bà mẹ gợi hứng cho chúng ngay từ khi bé còn trong bụng mình bằng những hình ảnh hay hành động hoặc thính giác của bà mẹ hằng ngày.

Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành được khởi đi từ thời Cựu Ước: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ.” (Tv 23,1-4) Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel. Người yêu thương và chăn dắt dân của Người. Hình ảnh người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, nhưng thật đáng buồn vì các vua chúa thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò mục tử của mình mà lại còn đi ngược lại. Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng.” (Ez 34,2-4.9-10.23)

Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi.”

Vào thời Chúa Giêsu, người ta thường hay nuôi chiên. Mỗi đàn chiên thì đều có mục tử, tức người chăn chiên. Người chăn chiên thường dẫn chiên đi ăn trong hoang địa. Tối về, họ lùa chiên vào nơi quy định. Tuy nhiên, cũng có thể nhiều đàn chiên ở cùng một chỗ, vì thế có sự lẫn lộn; nên chủ đàn chiên nào thì có ký hiệu riêng của mình, và khi họ cất tiếng thì tất cả các chiên của họ sẽ đi theo. Người mục tử tốt là người biết chiên của mình, biết rõ từng con một, để chăm lo cho chúng. Người mục tử tốt cũng là người biết dẫn chiên của mình đến những vùng cỏ non, có nhiều nước, để cho chiên thoả thuê ăn uống hầu được to béo, khoẻ mạnh.

Chúa Giêsu đã tự nhận mình chính là Mục Tử Nhân Lành. “Ngài đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Khác hẳn với hình ảnh mục tử trong Cựu Ước nơi các vị vua.

Thật không có gì đau khổ cho bằng trong cuộc sống ta không được ai biết đến. Và cũng thật bất hạnh khi trong các mối tương quan ta không được ai tôn trọng và tin tưởng nữa. Thấu hiểu được điều đó, Chúa Giêsu đã dùng động từ “biết” để diễn tả một mối tương quan thân mật giữa chủ chiên và đàn chiên. “Biết” theo nghĩa Kinh Thánh không chỉ là một sinh hoạt thuần tuý tri thức hay văn hoá, mà “biết ở đây còn là sự gắn bó và yêu thương”. Chúa Giêsu biết từng con chiên đồng nghĩa với việc Ngài yêu thương từng con chiên một. Ngài cũng biết tên của từng con và gọi chúng khi cần, ấy là Ngài đang đi vào sự hiện hữu của từng con chiên, và ngược lại. Với Ngài, từng con chiên là một hiện hữu duy nhất trước mặt Ngài. Vì thế, Ngài luôn coi trọng từng con một, đến nỗi Ngài nói: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha; Tôi và Cha tôi là một.” Thật hạnh phúc cho chúng ta vì có được Vị Mục Tử tuyệt vời là chính Chúa Giêsu.

Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ.

Tại sao phải cầu nguyện cho mục tử? Thưa vì các ngài cũng chính là mục tử trong Giáo Hội, thay mặt Chúa để dẫn dắt dân của Người. Chúng ta cầu nguyện cho các ngài hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, biết từng con chiên để: chăm lo cho từng con chiên. Con chiên nào bị thương thì băng bó, con nào bị ốm thì lo thuốc thang, con nào đi lạc thì tìm về, con nào có nguy cơ bị thú dữ ăn thịt thì bảo vệ, con nào bị bắt thì liều mạng để cứu chúng. Được như thế, các ngài quả là mục tử nhân lành, đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Các ngài là những mục tử như lòng Chúa và Giáo Hội mong ước.

Ngoài việc cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ, Giáo Hội đặc biệt hướng về các bạn trẻ. Các bạn là tương lai của xã hội và là niềm hy vọng của Giáo Hội. Giáo Hội đang trông chờ ở nơi các bạn. Giáo Hội cũng hy vọng các bạn sẽ trở thành những linh mục và tu sĩ tốt lành hoạ lại chân dung của Vị Mục Tử Tối cao là Chúa Giêsu.

Quả thật, hơn bao giờ hết, chúng ta đang sống trong một xã hội có biết bao lựa chọn, và đôi khi có những chỉ dẫn hay thông tin cũng như quả quyết sai lầm. Hoặc nói theo ngôn ngữ hình tượng: “Chân lý nửa vời”. Trong một xã hội như thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp, một chân lý tuyệt đối, để phục vụ con người ngày hôm nay, nhằm đem lại cho họ niềm hy vọng. Nhưng điều quan trọng là làm sao để các bạn nhận ra được tiếng Chúa gọi và chọn các bạn vào trong vườn nho Giáo Hội để phục vụ trong vai trò là mục tử của Chúa? Thưa Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi 2013 đã vạch ra cho các bạn, ngài viết: “Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta.” Đúng vậy, muốn hiểu được ai thì phải biết và có kinh nghiệm về người đó. Có thế, ta mới dễ nhận ra và đi theo ý của người mà mình yêu mến.

Trong thế giới đang sôi động về mọi mặt, nhưng lời mời gọi “hãy theo Thầy” vẫn được vang vọng nơi mỗi chúng ta ngay trong những cuồng nhiệt của cuộc sống. Lời bài hát, mà chúng ta vẫn thường nghe trong mỗi dịp lễ Chúa Chiên Lành hay trong các dịp lễ về Tận hiến của tác giả Nguyễn Duy Vi: “Chúa là Mục Tử, Người dẫn lối chỉ đường cho con đi, đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ tươi rợn đồng xanh, con no thoả không bao giờ khát nữa, cánh tay Người đưa, gậy người dẫn yên lòng”, gợi lại cho chúng ta hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành, cũng như giúp chúng ta thêm xác tín vào Vị Mục Tử Nhân Lành; đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhạy bén, can đảm để phác hoạ chân dung Vị Mục Tử Nhân Lành, là chính Chúa Giêsu, ngay trong chính cuộc đời chúng ta.

Để kết thúc bài suy niệm này, tưởng cũng nên mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắn gửi các bạn trẻ:

“Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô. Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên những con đường có tính đòi hỏi, can đảm sống đức ái và quảng đại dấn thân. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban, các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu, và các con sẽ học để “sẵn sàng đưa ra câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (1 Pr 3,15).”

 

home Mục lục Lưu trữ