Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1371374

ƠN PHỤC SINH

Ơn Phục Sinh - Lm. Thu Băng, CMC

Hàng năm chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng đại lễ Phục sinh, mừng biến cố Chúa Kittô sống lại để phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa tử. Đây là dịp tốt để chúng ta suy tư về sự phục sinh của mình. Mỗi người chúng ta có hai biến cố phục sinh: Phục sinh với Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy và phục sinh viên mãn trong ngày chúng ta cùng sống lại trong vinh quang.

1. Phục sinh trong Bí Tích Rừa tội.

Thực vậy, khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta được phục hồi ơn làm con Thiên Chúa, được quyền hưởng gia nghiệp nước trời, được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Ơn Phục sinh này là cửa ngõ đón nhận chúng ta vào nhà Giáo hội, được biến đổi từ con người không có ơn nghĩa Chúa, đến tình trạng làm con, được gọi Chúa là Cha và được toàn thể các thánh trên trời và mọi phần tử Giáo hội trần gian là anh chị em. Cũng qua Bí tích này chúng ta được hiệp nhập với mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, được thừa hưởng kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội, được có khả năng làm việc lành đáng thưởng công và có một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần (Glcg.1262). Chúng ta có thường xuyên cảm tạ Chúa vì ơn trọng này không?

2. Phục sinh trong Bí Tích hòa giải:

Lại nữa, qua Bí tích Hòa giải, chúng ta được ơn trở về mỗi khi chúng ta dại dột phạm tội mất lòng Chúa. Nhờ Bí Tích này, chúng ta không những được làm hòa với Thiên Chúa, mà lại còn được thêm ơn thánh để bền lòng chiến đấu với những cơn thử thách mới. Như thế mỗi lần lãnh nhận Bí tích Hòa giải lại là một lần chúng ta cử hành lễ Phục sinh, tái diễn việc sống lại từ cõi chết tinh thần.

3. Phục sinh trong ngày tận thế.

Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng vững vàng "xác loài người sống lại để hưởng vui sự sống đời sau". Điều này chứng tỏ chúng ta đang mong đợi một cuộc sống mới vĩnh cửu, mà Thiên Chúa vĩnh viễn ban lại cho chúng ta sự phục sinh bất diệt của thân xác, một cuộc sống lại kỳ diệu giống như cuộc sống lại với thân xác vinh quang của Đức Kitô, một thân xác linh thánh vượt trên cả vật chất.

Lễ Phục sinh thật là một cơ hội quí báu và thích hợp để chúng ta hướng về gia đình thiên quốc, hướng về sự sống vĩnh cửu quê trời. Khi nhắc lại cho mình tới nơi hạnh phúc ấy, chúng ta nhắc lại trách nhiệm của mình là làm sao sống xứng đáng với nghĩa vụ làm con dân nước trời? Phải sống theo lời mời gọi "trọn hảo hơn" của tin mừng. Không chỉ làm lợi cho cuộc đời trần thế, mà phải dành dụm cho sự sống ngày sau "Hãy lợi dụng của đời này mà mua lấy nước thiên đàng". Chúng ta hãy kiểm xem trong gia đình ai là người khao khát tìm kiếm sự sống lại? Ai là người biết đặt nước Thiên Chúa trên tất cả những lo lắng trần thế?

Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Phục sinh chúc lành cho gia đình anh chị em và ban cho chúng ta ơn biết lợi dụng mùa thánh thiện này để nhớ đến ơn cứu sống Chúa Phục sinh dành cho chúng ta.

 

71. Ngôi mộ trống - Ts.Trần Duyệt

Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”. Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ, oan kiên và tất tưởi của cuộc sống. Quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ, phản kháng, và bản án bất công đã đưa Ngài đến cái chết. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con” (Mt 27:46). Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Hãy ngủ yên.

Câu chuyện tưởng đã yên, nhưng mới sáng ngày thứ nhất trong tuần đã bị khua động trở lại. Ngài đã không ngủ yên. Ngài đã chỗi dậy và ra khỏi mồ. Maria Mađalêna và một số phụ nữ đã phát hiện ra rằng ngôi mộ đã trở thành trống rỗng, và thân xác Giêsu đã không còn trong đó nữa. Thế là một lần nữa, những thiếu phụ này lại bị xúc động và sợ hãi: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâu” (Gio 20:2). Điều này cũng làm cho các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, càng thêm hoang mang sợ hãi hơn. Phêrô và Gioan cũng đã bị lôi cuốn, và muốn tìm ra sự thật.

Những nhân chứng ấy không ai khác là Maria Mađalêna và một số phụ nữ, Phêrô và Gioan, những người mà liên hệ mật thiết với Đức Kitô đã được nói đến nhiều trong Tin Mừng (x Gio 20:1-10).

Thời gian là buổi sáng phục sinh, khi mà người, vật còn đang ngái ngủ. Khi ánh bình minh vừa ló rạng. Vào thời điểm ấy, ta mường tượng các phụ nữ kia đang âm thầm và lặng lẽ bước đi trong sương mai, và những con gió thoảng buổi sáng đang làm họ se lạnh. Những cơn gió mát, nhẹ nhàng và thoang thoảng.

Không gian là ngôi mộ trống bên triền đồi Golgotha. Nơi mà buổi chiều thứ Sáu thảm sầu, một tử thi đã được chôn cất vội vàng.

Và Chúa Giêsu đã sống lại. Biến cố này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin này, và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin này. Nhưng đối với những người như chúng ta, những chứng từ ấy phải chăng vẫn còn là một nghi vấn! Và những chứng từ ấy có nghĩa gì trong cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu?

Có cần phải tình cảm và xúc động như Maria Mađalêna và những phụ nữ đã có mặt trong buổi sáng phục sinh không: “Thưa ông, nếu ông mang Ngài đi đâu, xin làm ơn chỉ cho tôi chỗ ông đã đặt Ngài để nhận Ngài lại” (Gio 20:15).

Cuộc sống đạo, cuộc sống tâm linh đôi lúc cũng cần được nuôi dưỡng bởi những động lực và thôi thúc tình cảm như thế. Có lúc chúng ta cần phải xúc động khi tham dự những nghi lễ sốt sắng. Cũng có lúc chúng ta cần phải để lòng mình lắng đọng khi gối quì một mình trong thinh lặng tại một góc của giáo đường. Và cũng có lúc chúng ta phải để cho lòng mình thổn thức một niềm cảm xúc trước những vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thiên Chúa qua những người, những vật, mà chúng ta đụng chạm tới.

Có cần phải hăm hở và nhiệt tình như Phêrô, như Gioan đã nhanh chân chạy ra mộ để tìm ra những dấu hiệu của cuộc phục sinh không: “Phêrô và môn đệ kia bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Ông không vào trong nhưng cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất” (Gio 20:3-5).

Đời nội tâm nếu chỉ dựa vào những rung động của tình cảm sẽ dễ trở thành mê tín, dị đoan, nhìn Chúa Giêsu mà lại tưởng là người làm vườn. Hoặc ngược lại, nhìn người làm vườn mà lại cho là Chúa Giêsu, như trường hợp của Maria Mađalêna. Niềm tin, ngoài những yếu tố tình cảm cũng đòi hỏi những dấu hiệu khả tín và dựa vào những lý luận hợp lý. Có lẽ vì phản ứng tự nhiên ấy mà cả Phêrô lẫn Gioan đã hăm hở chạy ra mộ.

Nhưng có lẽ ít ai để ý và dành cho ngôi mộ trống kia một chỗ xứng hợp trong biến cố phục sinh. Phải chi ngôi mộ ấy đã bị phá hủy ngay đêm thứ Sáu do lính của La Mã thì mọi chuyện đã đổi chiều. Hoặc phải chăng đám lính canh của các Thượng Tế gửi tới vẫn còn đang thức khi nhóm phụ nữ đến mộ thì sự việc cũng lại khác hẳn. Nhưng ngôi mộ mà xác thân của Giêsu đã được mai táng, và từ ngôi mộ ấy, Chúa đã sống lại vẫn còn đó, trống vắng, và lạnh lùng. Người ta chỉ tìm được những giây băng, vải cuốn, và khăn liện. Chính vì vậy nên nó đã trở thành một dấu chỉ đầy ý nghĩa của biến cố phục sinh.

Ngôi mộ trống cho ta một ý niệm về thái độ dứt khoát với quá khứ. Đức Kitô đã để lại tất cả những gì thuộc về thế giới kẻ chết như khăn liệm và băng quấn lại cho thế giới của sự chết. Ngài đã ra khỏi mộ và không trở lại. Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc vẫn cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của phục sinh.

Ngôi mộ trống còn là một dấu chỉ để con người suy về quá khứ. Một quá khứ với những đa mê và dục vọng. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không ngoái nhìn lại quá khứ và không nên tiếc nuối những gì mình đã bỏ lại. Nếu Thiên Chúa có nhìn đến ta lúc này, thì Ngài sẽ nhìn thấy một tinh thần vượt thoát từ mồ sâu tội lỗi. Và nếu con người có nhìn đến ta, thì họ sẽ chỉ thấy một chiếc khăn liệm gói trọn quá khứ, và hiện tại là sự đổi mới hoàn toàn.

Không luyến tiếc, không ngoảnh mặt lại với quá khứ, nhất là quá khứ từng làm cho con người hư hỏng và sa lầy trong vòng tội lụy, là thái độ mà Chúa Giêsu Phục Sinh muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu. Họ cần phải dứt khoát với quá khứ ấy, nếu muốn cùng Ngài phục sinh như Tông Đồ Phaolô đã khẳng định: “Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinh” (Rom 6:5).

Cuộc đời và cuộc sống mỗi Kitô hữu cũng phải như ngôi mộ trống ngày phục sinh. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, và sự sống lại của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Để được thế, trước hết ngôi mộ tâm linh này phải đĩn nhận Chúa Giêsu Tử Giá bằng những chứng từ cuộc sống, và để Ngài làm cho nở hoa, phục sinh trong quyền lực Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi có ai nhìn vào ngôi mộ tâm linh ấy, tức là linh hồn của mỗi Kitô hữu, họ sẽ khám phá ra không phải là những người giầu tình cảm đạo đức, những người thông thạo giáo lý, hiểu biết; nhưng hơn thế, họ nhận ra một Chúa Giêsu phục sinh và vinh hiển.

Ngôi mộ trống vẫn không nói nhiều. Ngôi mộ trống cũng vẫn im lìm một chỗ không di chuyển. Và ngôi mộ trống cũng vẫn chỉ là một ngôi mộ trống. Nhưng hình ảnh của nó gắn liền với buổi sáng phục sinh, với Maria Mađalêna, với Phêrô và Gioan, và tất cả những ai đang tin vào Con Thiên Chúa - Đấng xóa tội trần gian - đã chịu cực hình thập giá, và được mai táng trong đó. Và cũng từ ngôi mộ ấy, Ngài phục sinh vinh hiển.

Cuộc đời tôi, cuộc hành trình tâm linh của tôi cũng cần phải giống như ngôi mộ trống kia, để tất cả những ai tò mò nhìn vào cũng nhận ra Chúa đã phục sinh.

 

72. Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng

Tại sao Chúa hiện ra với Mai Đệ Liên trước các tông đồ?

Dân tộc nào cũng có những câu chuyện thần thoại, càng thần thoại nếu trí tưởng tượng của họ càng giàu. Tuy nhiên câu chuyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình sống lại, là một câu chuyện khó tin, vượt sức tưởng tượng của loài người. Đối với những người không tin, thì đó chỉ là một câu chuyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu chuyện Đấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các tiên tri loan báo cả ngàn năm trước, và chính Chúa cứu thế cũng tự loan báo. Để tẩy chay lời tiên tri về việc Đấng cứu thế phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã sai quân lính canh mộ Chúa hầu tránh cái âm mưu có thể xẩy ra do môn đệ lấy trộm xác Chúa, rồi phao tin là Thày mình đã sống lại.

Việc Chúa phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng đáng kể trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên cả thành Giêrusalem đều mê ngủ trước biến cố phục sinh của Chúa, và mọi sinh hoạt trong thành đều diễn ra bình thường. Còn các môn đệ Chúa thì hoang mang, không biết đâu là thực hư. Tất cả họ đều bị khủng hoảng trầm trọng, không con hi vọng gì nữa. Tâm trí họ bị rối loạn vì những khiếp sợ và bực mình. Họ khiếp sợ vì người Do Thái bách hại. Họ bực mình vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng.

Chỉ có bà Maria Mađalêna, có tên Việt là Mai Đệ Liên, là người đầu tiên đã xuất hiện đi ra khỏi nơi trú ẩn để tìm Chúa. Bà ta quá sầu khổ về cảnh đóng đinh của Thày mình, nên khi thấy mồ trống, bà ta không còn nghĩ gì khác, mà chỉ nghĩ về việc người ta đã lấy trộm xác Chúa. Mađalêna là người đầu tiên thấy Chúa sống lại, nhưng không nhận ra Người. Bà tưởng đó là người làm vườn cho tới khi Chúa gọi bà bằng tên Maria (Ga 20:16). Đến đây bà vội vã đi về kể cho Phê-rô và Gio-an là xác Chúa không còn ở trong mồ nữa.

Thật là một điều khó tin khi Mađalêna được coi là người đầu tiên loan báo tin mừng Chúa sống lại. Tuy bà ta không ý thức được rằng mình đã được chọn để loan báo cho hoàn cầu việc Chúa phục sinh. Làm sao Chúa hiện ra với bà, một người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối, trước khi hiện ra với các môn đệ? Đó là vì bà đã ra viếng mộ Chúa trước tiên.

Cuối Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay được thêm một ý tưởng rất quan trọng: Trước đó họ chưa hiểu rằng, theo Thánh kinh, Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Ga 9:20). Chính ông Phêrô đã không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Việc đối diện với Chúa phục sinh đã đổi hẳn tất cả. Bây giờ họ thấy, và họ tin. Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay ghi lại: Trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại (Cv 10: 41).

Cũng như các tông đồ, cũng như Mađalêna, ta cũng có những lần hồ nghi về việc Chúa sống lại. Có những khi ta cảm thấy những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối bao phủ. Ta cảm thấy như là Chúa đi vắng, và không còn gì để bám víu. Tuy nhiên cũng như Mađalêna, cũng như Phêrô và Gio-an, ta vẫn phải đi tìm Chúa, ngay cả khi ta cảm thấy khó tin vào Chúa. Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong đời sống hằng ngày. Ta sẽ khó lòng tìm thấy Chúa nếu ta quá bận tâm lo lắng về những sự vật trần thế, nếu ta mê đắm theo đuổi những chuyện viển vông.

Phục sinh là thời giờ mà ta phải tìm ra câu trả lời cho những thắc mắc và khắc khoải của loài người:

* Ta đang tìm kiếm những gì?

* Có phải ta tìm Chúa và sự công chính của Nước Người hay không?

* Cái lẽ sống và cùng đích của đời sống ta là gì?

* Đâu là chỗ ta có thể bám víu khi mất đi của cải và người thân yêu?

* Ai là người có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn?

* Và ai là người có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc sống?

 

73. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.

NGÔI MỘ TRỐNG (16,1-8)

Khi đọc lại trình thuật này, một lần nữa ta cảm thấy đang đọc một bản tường thuật trực tiếp về một người đang sống. Như ta đã thấy, rõ ràng Maccô không phải là một phóng viên chuyên nghiệp, dù văn phong của ông rất sôi động, những tường thuật của ông không mang dáng vẻ gì là trực tiếp cả. Bằng những nét cụ thể, ông muốn truyền thông cho cộng đoàn Kitô hữu một kinh nghiệm về niềm tin sâu xa và chín chắn: đó là một quá trình 40 năm suy niệm (từ năm 30-70). Từ những nhận định này, ta phải hết sức lưu ý đến sứ điệp Maccô muốn nhắn gửi trong trình thuật này, qua những chi tiết ông viết lại.

Sau ngày Sabbat, mọi sự trở lại bình thường (c.1). Bối cảnh thời gian là chiều tối thứ bảy, khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên nền trời, báo hiệu ngày lễ nghỉ thánh đã hết. Trước khi trời tối hẳn, các cửa hiệu đều mở cửa bán hàng lại. Người Do Thái có tính lo. Chính vì vậy mà ba phụ nữ chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết (15,40) đã lo lắng đi mua dầu thơm để tẩm xác Chúa Giêsu (công việc đáng lẽ phải được làm hôm trước đó). Đây không phải là ướp xác đúng nghĩa theo cách thức người Ai Cập, nhưng chỉ là xức hương liệu lên thi thể theo tập tục người Do Thái (Ga 19,40). Bằng lối tương phản mà Maccô rất sở trường, bóng tối của sự chết (15,33-34) được đặt song song với ánh sáng của một ngày mới (c.2). Ở đây tác giả Tin Mừng đã quy tụ mọi biểu hiệu tượng trưng cho việc khai sinh một thời đại mới. Nó ám chỉ rõ rệt đến buổi sáng đầu tiên của cuộc Sáng thế (St 1,3-5): đó là khởi nguyên cho một thế giới mới vừa xuất hiên. “Ngày thứ nhất trong tuần”, sau ngày hưu lễ Sabbat của người Do Thái, nay sẽ trở thành “ngày Chúa nhật”, dies dominica, “ngày của Chúa” Phục Sinh.

Buổi bình mình mới này xuất hiện trước cả các phụ nữ, những bà vẫn canh cánh mối bận tâm là phải đến cho bằng được để tỏ lòng với Người đã chết hôm trước. Câu hỏi các bà đặt ra khá vô duyên và muộn màng (c.3); hẳn các bà đã biết rằng cần hai hoặc ba người đàn ông mới vần nổi tảng đá rất nặng ra khỏi cửa mồ. Nhưng ở đây tác giả lại không hề chú trọng đến tâm lý nhân vật. Mối lo lắng của các bà là nhằm làm nổi bật nỗi ngạc nhiên xảy ra sau đó: các bà phát giác ra rằng tảng đá mà các bà lo lắng không thể lăn nổi nay đã được vần ra rồi (c.4). “Một bàn tay vô hình” mạnh mẽ phi thường đã thực hiện việc này. Trong văn bản Hy Lạp, người ta đọc thấy câu này: “Hòn đá đã bị lăn đi”. Lối dùng theo thể thụ động này diễn tả hành động của chính Thiên Chúa, tuy không nói rõ tên Ngài ra (x.Mt 28,2): Thiên thần của Chúa, đấng thay thế Ngài, đã lăn tảng đá. Sự kiện cửa mồ được mở ra mới chỉ là điều ngạc nhiên đầu tiên. Một sự thể đáng ngạc nhiên khác quan trọng hơn nhiều, đang chờ đợi các bà: các bà nhìn thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc toàn đồ trắng (c.5a). Cảnh tượng này làm cho độc giả ngày nay phải suy nghĩ. Việc một kẻ ăn mặc như thế, ngồi ở đấy, nơi chôn kẻ chết có ý nghĩa gì? Người ta nghĩ ngay đến chàng trai trẻ khi Chúa Giêsu bị bắt, đã quăng tấm vải choàng đi hầu dễ bề tẩu thoát (tấm vải=vải liệm chăng?) (14,51-52). Hơn nữa, người thanh niên “ngồi bên phải”… Đó là vị trí danh dự như người Kitô hữu hằng coi Chúa Giêsu vinh quang “ngự bên hữu” Chúa Cha (x.16-19b). Sau cùng, “mặc áo trắng” cũng như khi Chúa Giêsu biến hình các môn đệ thấy Ngài cũng mặc như vậy (9,3). Hầu như mọi sự kiện này đều khiến ta nghĩ rằng chính Chúa Giêsu “xuất hiện”! Nhưng tác giả Tin Mừng không cho là như thế. Và truyền thống Tin Mừng ở trình thuật này lại cho rằng đó là một hoặc hai Thiên thần (Mt 28,2b-3; Lc 24,4; Ga 20,12). Thiên thần là “sứ giả” của Thiên Chúa, là đấng thay thế Thiên Chúa vô hình. Sự xuất hiện của Thiên thần ở đây có nghĩa rằng sứ điệp các vị loan báo không phải là của loài người, mà đến từ Thiên Chúa. Thực vậy, người thanh niên loan báo Tin Mừng vượt khỏi trí khôn loài người (c.6b). Sứ điệp này mang một sắc thái hết sức mâu thuẫn: kẻ bị đóng đinh nay đã Phục Sinh. Kẻ bị chết đi, chết tàn nhẫn bằng khổ hình thập giá nay đã trở về cõi sống: Ngài là Đấng Hằng Sống! Đây chính là sứ điệp “Vượt Qua” mà các Tông đồ đã loan báo cho muôn dân (. Cv 2,22-36; 3,12-20 v.v…). Sự bối rối của các phụ nữ biểu lộ mối xúc động tôn giáo sâu xa khi đứng trước cõi siêu nhiên. Từ ngữ “hoảng sợ” (c.5) rất mãnh liệt và chỉ riêng Maccô dùng. Maccô luôn nhấn mạnh đến vực thẳm cách biệt giữa nhân loại và Thiên Chúa (x. 1,27; 9,15; 10,24a). Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng sự chết phải được công bố. Bởi vậy các bà được khuyên nhủ phải thông báo cho các môn đệ, nhất là Phêrô (c.7). Mọi Tông đồ đều được nhắn bảo tập trung về Galilê, ở đó Đấng Phục Sinh sẽ gặp lại họ và Ngài sẽ tới đó trước họ. Thế nghĩa là gì? Miền Galilê ở mãi phía bắc Palestin, là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của mình (1,14-15), nơi Ngài dong duổi khá lâu trước khi lên Giêrusalem (9,30). Tác giả đã nhận định Galilê là môi trường điển hình cho việc tương giao Do Thái ngoại giáo, tượng trưng sự cởi mở đối với toàn thế giới. Bởi thế các môn đệ được mời gọi nhóm họp lại sau lưng Đức Giêsu Phục Sinh để chuẩn bị cho một sứ mạng rao truyền mới.

Như vậy các phụ nữ là những người được ký thác cho một chương trình tuyệt vời: phục hồi Tin Mừng với một sức mạnh mới mẻ.

Ta biết thêm gì nữa? Các bà chạy trốn, lòng đầy sợ hãi, mà chẳng thông báo cho ai cả (c.8). Thái độ này khiến ta ngỡ ngàng. Và càng làm độc giả phải suy nghĩ đắn đo hơn khi biết rằng Maccô đã kết thúc tác phẩm của mình ở đây (ở câu 8). Các nhà chuyên môn đều đồng ý như thế. Phần nối tiếp sau đó (16,9-20), đoạn kết, không phải là văn phong của Maccô. Đó chỉ là một bản “phụ lục” thêm vào tác phẩm để tránh cho nó khỏi bị kết thúc đột ngột, đồng thời mang lại một chung cục có hậu hơn.

Bởi vậy ta cần tìm hiểu tại sao Tin Mừng Maccô nguyên thủy lại kết thúc với việc các phụ nữ sợ hãi, bỏ trốn và câm lặng như thế. Trước hết, nỗi lo sợ. Văn bản Tin Mừng ghi rằng các bà “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía”. Maccô bao giờ cũng trung thành từ đầu tới cuối khi nói đến khía cạnh này trong tác phẩm: khi chứng kiến các biểu lộ của Thiên Chúa con người bị hoảng loạn cực độ. Đó là trường hợp của đám đông dân chúng (2,12), của các môn đệ khi họ chứng kiến phép lạ của Thầy mình (5,42b; 6,50). Do vậy lẽ nào các phụ nữ lại không hoảng sợ và run rẩy khi được loan báo về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu?

Kế đến là sự im lặng. Việc các phụ nữ không nói gì với ai cả còn chướng hơn việc họ đã nhận lãnh một sứ điệp phải truyền đạt (c.7). Và nếu quả thực các bà không truyền đạt lại –như các tác giả Tin Mừng cũng công nhận (Mt 28,8; Lc 24,9; Ga 20,2-18) ắt hẳn các Tông đồ cũng không thể biết gì cả… rồi chúng ta cũng vậy! Không biết gì! Nhưng ngay cả thái độ im lặng của các bà cũng đã ăn sâu vào máu thịt của Maccô. Ta thấy rằng các lời mặc khải mầu nhiệm Chúa Giêsu đã nhiều phen khiến bạn hữu Ngài hoàn toàn không hiểu gì. (Họ không dám hỏi lại Ngài 9,32). Do đó không lạ gì thái độ sợ hãi và câm lặng của các phụ nữ khi nhận được tin quá sức tưởng tượng rằng Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại. Tin Mừng “Chúa Kitô đã Phục Sinh” bao giờ cũng là một tin khó rao truyền nhất, bởi lẽ hoàn toàn ngược với lý trí.

Đoạn cuối này của Tin Mừng Maccô hẳn làm cho ta phải kinh ngạc. Ta phải hết sức lưu ý chuyện cửa mồ được “mở ra” và sứ điệp của Thiên Chúa giao cho ta chỉ được đón nhận với một đức tin trần trụi như thế này: chứng minh là “kinh nghiệm sống” của những kẻ đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài.

 

74. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.

CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI (Ga 20,1-9)

Những lần hiện ra (20,1-29)

Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó (cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hóa các kinh nghiệm về đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào Người (20,20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.

Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hóa toàn bộ quá trình của Chúa Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.

Bà Maria Macđala, ông Simon Phêrô và người Môn Đệ Kia (cc. 1-18)

Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật: bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy “băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin” (c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.

NGÔI MỘ TRỐNG (cc.1-2)

Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có hai bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10). Gioan chọn xây dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và kéo dài tang lễ (như đã xảy ra trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.

HAI MÔN ĐỆ (cc.3-10)

Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn và ân cần lớn hơn chăng?), sau đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm hoặc trật tự các đồ này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn so có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.

 

75. Chú giải của Noel Quesson (Mc 16,1-8).

Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô" trong Đêm canh thức này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.

Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.

Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các "người nữ". Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết của Người trên đồi Golgotha... còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc 14,50-15,50).

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn. Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.

Tôi ngắm nhìn những "phụ nữ tẩm xác", tay bê nặng những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước đường phiêu lưu của "Đức Giêsu Nagiaret"... thể hiện những bổn phận yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.

Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.

Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.

Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia...

Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo thành rưới, một kỷ niệm mới.

Các bà vừa đi vừa bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây:" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.

Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã ghi nhận. "Tảng đá đã được lăn ra". Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự ngăn cách con người với sự Phục sinh... được coi như một sự kiện không thể có được... ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?". Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.

Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.

Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của Matthêu, vì không nói đến "thiên thần", đến “đất rung chuyển" đến tia chớp sáng"... nhưng chỉ đề cập đến một "người thanh niên". Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu "tả vẽ" về biến cố Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu "trắng" luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối... đó là màu của vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô đã nói đến "một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng được như vậy" (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu "trắng" luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is 1,18; Kh 7,14-19,1-14).

Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ!".

Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về Thiên Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông (exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như không người “Caphacnaum đã kinh ngạc" trước sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).

Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói: “Các ngươi đừng sợ".

Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng nghĩa của Đức Giêsu... Nhưng chỉ ghi một "Lời" mạc khải, qua một thiên sứ, nói lên “đức tin", một trong những điểm của "kinh Tín Kính" ta vẫn đọc.

Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.

Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô, Ngày thứ ba, Người đã sống lại"

Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv 2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.

Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, "người Nagiaret", kẻ "bị đóng đinh", Đức Giêsu của lịch sử.

Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.

Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh

Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?

Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô như thế này: "Người sẽ đến Galilê trước các ông".

Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ" nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến "mồ táng" đó. Cả Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: "Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mc 14,28). Chàng "thanh niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn" cũng như hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’

Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại Giêrusalem.

Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.

Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc mới chung quanh Phêrô, thời của những "dấu chỉ" mới, thời của Tin Mừng: Giáo Hội khởi sự... và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng Người". Đó là một lệnh lên đường.

Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với Phêrô. Hãy trở lại Galilê.

Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.

Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận. Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người còn sống.

Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!

Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.

Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà vội rời gót khỏi nơi đó.

Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.

Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.

“Run lẩy bẩy" (tromos) và “ngây ngất xuất thần" (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Maccô đã nhấn mạnh đến "bí mật" che giấu căn tính đích thực của Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa", Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ "im lặng" và "chẳng nói gì với ai": Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại, luôn gây bối rối.

Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên, một sự "hiển nhiên tuyệt đối” một sự "ổn định hoàn toàn", thì sẽ gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.

 

home Mục lục Lưu trữ