Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1364519

PHÁT QUANG LỘ TRÌNH LÊN THIÊN ĐÀNG

Phát quang lộ trình lên thiên đàng.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Trước khi đường siêu tốc có thể xây dựng, toàn thể những công nhân phải làm sạch con đường. Đôi khi những cây cối phải được cắt bỏ, những hòn đá phải được di chuyển đi và những ngọn đồi phải được san cho bằng. Bất cứ những cái gì cản trở trên con đường xa lộ đều phải được chuyển đi.

Chúa Giêsu có một điều gì giống như thế, khi Ngài mời gọi mọi người trở nên môn đệ của Ngài. Ngài trông đợi họ chuyển đi tất cả những gì cản trở trong cuộc sống của họ trên con đường theo Người. Lời tuyên bố khó hiểu của Ngài: “Hãy để cho kẻ chết chôn kẻ chết”. Không có nghĩa là Ngài chống đối việc chôn cất những người thân yêu của chúng ta. Một ý nghĩa khi Ngài tuyên bố, có nghĩa là những ai loại bỏ Người thì cũng giống như những người chết kể từ khi họ loại trừ Chúa của sự sống, nhưng đó cũng là cách mà Chúa Giêsu nói, là chúng ta phải quyết định không có gì quan trọng hơn việc trung thành với Người.

Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay miêu tả một thời kỳ của Cựu Ước, qua đó một con người đã phải làm một quyết định. Cái áo choàng của Êlia là một biểu hiệu chức vụ tiên tri của người. Khi ông khoác nó lên cho Êlisa, ngài muốn mời gọi Êlisa kế tục ông như là một tiên tri trong Israel. Êlisa có vẻ do dự mất một lúc. Ông ấy đã nghĩ về cha mẹ của mình. Ông ta đã làm gì? Sự tự do đã cho phép ông làm một quyết định riêng cho chính mình. Một quyết định mạnh mẽ đã bùng cháy bên trong trái tim ông. Ông đã giết bò, chẻ cày ra làm củi để nướng bò. Điều đó có nghĩa là ông đã từ bỏ những gì có ý nghĩa cho đời sống của ông. Ông đã gặp mọi người để từ biệt họ, bỏ mọi sự để đi theo Êlia. Chúng ta phải nói rằng ông đã thiêu cháy cái cầu đằng sau mình.

Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta làm cùng một công việc như thế để đi theo Người cách cởi mở. Tại phép rửa Ngài đã đặt một áo trắng trên chúng ta. Đó là một biểu tượng có nghĩa chúng ta là một dân mới với một đời sống mới, một đời sống của sự tự do thật. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta phải giải phóng tất cả những chướng ngại để làm viên mãn ơn gọi làm môn đệ của chúng ta nhưng sự tự do là một thực tại phức tạp. Chúng ta sống trong một xã hội tự do nhưng những ngày này chúng ta làm chứng phải chịu đựng sự lạm dụng tự do, xã hội chúng ta đã thần thánh hóa câu, sự”tự do chọn lựa”, điều đó có đúng không khi chọn lựa phá thai, tước đoạt quyền được sống của kẻ khác. Thật sự một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ngày xưa đã tuyên bố như giáo điều; “Sự tự do chọn lựa là nền tảng nhất của con người”. Ông ta sai –một cái sai chết người. Ý kiến của ông ta về sự tự do thì không phải những gì Chúa Giêsu đã dự định cho chúng ta.

Loại tự do mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta là vì tình yêu. Chúa Giêsu không cưỡng bách chúng ta làm môn đệ của Người, dâng hiến cho Người, để yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người. Ngài ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa bởi vì tình yêu mà bị cưỡng bách thì không phải là tình yêu nữa.

Trung thành với những ý tưởng của Chúa Giêsu là Thánh Phaolô, đấng đã dạy chúng ta rằng;”Chúng ta đã được kêu gọi để sống trong sự tự do nhưng không phải sự tự do để tháo thứ cho xác thịt”. Sự tự do tháo thứ này thật sự là một nô lệ. Nếu chúng ta nghiện rượu, chúng ta sống tình dục không hợp pháp, chúng ta tham lam hoặc giận dữ, thì chúng ta không tự do. Những vấn đề nhu cầu không bị chôn vùi đâu. Khi chúng ta cho phép môt thói quen lớn lên, một tính kiêu ngạo hoặc một tính ích kỷ điều khiển chúng ta, chúng ta đang lạm dụng sự tự do của chúng ta. Tội lỗi là một thứ nô lệ và đối đầu với tự do.

Trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta, chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu đã trả một giá đắt cho sự tự do của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng Thánh Giá và sự Phục Sinh của Người, Ngài đã thiết lập sự tự do cho chúng ta”. Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, để với ý chí tự do chúng ta có thể yêu mến Người một cách cởi mở.

 

21. Chiếc bị

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace). Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.

“Hôm ấy, tôi đang mê mãi bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời. Tôi vội vã đi theo.

Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.

Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.

Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,

Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.

Chân kéo lê trên một quãng đường dài.

Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.

Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.

Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.

Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,

Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.

Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,

Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.

Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.

Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi.

Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.

Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.

Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,

Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.

Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.

Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.

Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,

Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi”.

Anh chị em thân mến,

Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân. Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp. Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:

Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy”. Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu”. Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ”, và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ. Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thất tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy. Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ. Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.

Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi”. Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã. Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa”. Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngòai Nước Trời. Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì. Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.

Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện: “Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã”. Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã. Ông Êlia đồng ý ngay. Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước. Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu hti2 khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau. Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được. Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.

Thưa anh chị em,

Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.

Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ. Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi. Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà kh“Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”. Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời. Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy. Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.

Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình. Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa? Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi. Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3,7-13).

Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo. Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn. Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình. Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa. Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.

Việc tham dự tích cưc và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.

 

22. Tự do – Lm. An Hạ

Khát vọng tự do rất mãnh liệt trong tâm hồn con người. Nhưng đâu là tự do đích thực của người môn đệ Chúa Kitô?

MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC

Làm sao tìm được chân chung đích thực của người môn đệ Chúa Kitô? Câu trả lời nằm gọn trong Tin Mừng hôm nay. Môn đệ phải phản ánh hình ảnh Thày. Nếu Thày “nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9:51), môn đệ cũng phải có một gương mặt quả cảm như thế. Nhưng làm sao có thể thênh thang trên thiên lộ như vậy, nếu Thày không phải là con người tự do? Từ tinh thần cho đến lối sống, Thày không bị hoàn cảnh hay con người chi phối.

Tận thâm tâm, Thày không bị đam mê khuấy đục. Thất tình không thể lung lạc tinh thần Người. Dù bị dân làng Samari lạnh nhạt, Thày cũng không màng. Khác hẳn các môn đệ, Thày không muốn khiến lửa thiêu hủy dân làng Samari. Trái lại, “Đức Giêsu quay lại quở mắng” (Lc 9:55). Nhờ đó, các môn đệ mới thấy rõ tất cả giới hạn của lòng mình. Họ không thể bắt chước ngôn sứ Êlia khiến lửa từ trời đốt cháy quân thù (2 V 1:10,12). Người không muốn người môn đệ nuôi mối hận thù hay tìm cách ăn miếng trả miếng. Trái lại phải “yêu thương kẻ thù” (Mt 5:44). Dù bị ghét bỏ và khinh dể, Người cũng như giả điếc làm ngơ. Tim Người không bao giờ sôi sục niềm ân oán. Đó là một tinh thần tự do tuyệt đối. Tinh thần đó sẽ tạo nên những giá trị lớn lao và siêu vượt những tầm thường cuộc sống.

Tinh thần Thày vô cùng siêu thoát! Làm sao có thể siêu thoát như thế? Trước hết, lối sống vừa phản ánh vừa góp phần xây dựng tinh thần siêu thoát đó. Người sống khó nghèo đến nỗi “không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58). Một cuộc đời từ bỏ hoàn toàn. Từ một nơi vô cùng cao trọng, Người đã hạ mình xuống đất đen. Cuộc sống không có ngày mai. Theo Thày là dấn thân vào một cuộc mạo hiểm vô cùng thú vị, nhưng cũng đầy thách đố. Cuộc sống không bị lệ thuộc vào bất cứ nhu cầu nào. Có gì ăn nấy. Không đòi hỏi. Sống nay chết mai. Không có gì để mất. Không có gì tồn trữ. Nay đây mai đó. Nếu quá lệ thuộc vào những điều kiện sống vật chất, làm sao có thể chấp nhận lối sống bấp bênh như vậy?

Khó nghèo là điều kiện đầu tiên và tối thiểu một môn đệ phải có trên con đường theo Đức Kitô. Nhưng để loan báo Tin Mừng, họ còn phải có một tinh thần siêu thoát với những liên hệ tình cảm gia đình nữa. Trước bổn phận báo hiếu đối với thân phụ mới qua đời của người thanh niên, tại sao Đức Giêsu trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” (Lc 9:60)? Phải chăng Chúa là một con người lạnh cảm?

Dĩ nhiên, Người không dạy môn đệ khinh dể hay loại bỏ bổn phận đối với gia đình. Gia đình là một giá trị thiêng liêng cao quí. Nhưng đứng trước giá trị siêu việt của Tin Mừng, gia đình phải nhượng bộ. “Những đường lối của Nước Thiên Chúa không nhất thiết sóng bước với đường lối con người” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:701). “Loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9:60) là một bổn phận tối thượng.

Nước Thiên Chúa phải chiếm địa vị ưu việt. Giá trị tuyệt đối. Thực vậy, “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9:62). Ngoái lại đằng sau có thể làm cho luống cày không thẳng đường ngay lối. Làm việc trong cánh đồng truyền giáo cũng đòi môn đệ phải tập trung cao độ mới có thể đem lại kết quả tốt đẹp. Nếu còn để cho những quyến rũ bên đường thu hút, chắc chắn sẽ đánh mất giá trị lớn lao và công việc phục vụ mất hiệu lực. Chính vì thế, một khi hiến trọn đời loan báo Tin Mừng, thánh Phaolô phải “quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3:13). Người không bao giờ ngoái lại đằng sau với bao nhiêu mối liên hệ tình cảm chằng chịt và địa vị lớn lao trong hàng ngũ Pharisêu. Bởi vì, không giá trị nào có thể vượt trên Nước Thiên Chúa.

Chỉ có con người tự do mới có một tinh thần siêu thoát khỏi những nhu cầu tình cảm và vật chất như thế. Đó mới là tự do đích thực. Tự do đem lại sự giải thoát hoàn toàn. Lên tới cấp độ tự do đó, người môn đệ sẽ thấy rõ mình “được gọi để hưởng tự do” mà “phục vụ lẫn nhau” (Gl 5:13). Họ rất trân trọng giá trị siêu việt của tự do, vì niềm tin mạc khải: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1) bằng cái chết và sự phục sinh của Người.

Chính nhờ Thần Khí, Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh lớn lao đó. Cũng như Đức Kitô, môn đệ cũng có sứ mạng giải thoát nhân loại để đem họ vào miền tự do làm con cái Thiên Chúa. Nhưng sứ mệnh đó chỉ có thể thực hiện khi người môn đệ “sống theo Thần Khí” (Gl 5:16). Chỉ Thần Khí mới có thể hướng dẫn họ tới miền đất tự do. Họ sẽ phóng mình theo Đức Kitô để giải thoát nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

TỰ DO HÔM NAY

Hôm nay khát vọng tự do vẫn sôi sục trong lòng người. Nhân danh tự do, người ta tranh đấu cho quyền phụ nữ phá thai, bất chấp tiếng nói lương tâm. Thực tế, “mặc dù tất cả chúng ta phải theo tiếng lương tâm, nhưng lương tâm không có nhiệm vụ sáng tạo ra chân lý đạo đức, mà phải nhận thức ra chân lý đó. Có thể một cá nhân nhận thức sai lạc thực tại luân lý của một hoàn cảnh đặc biệt. Họ có thể thành thực, nhưng là sai lầm một cách thành thực” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).

Lúc đó, cần phải có những tiêu chuẩn khách quan để hướng dẫn mới có thể xử dụng tự do đúng mức và đạt tới lý tưởng cuộc đời. Thực tế, có những mâu thuẫn. Chẳng hạn, “một số người Công Giáo muốn tin tất cả những gì Giáo Hội tin, nhưng lại muốn để cho người khác tiếp tục trực tiếp giết người vô tội. Đó là một gương mù lớn” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04). Tự do đã đưa con người tới những chủ trương trái nghịch với đạo lý Giáo Hội.

Nếu muốn sống theo tự do như thế, họ phải chấp nhận một thực tế. “Những người Công Giáo công khai chống lại giáo huấn Giáo Hội về quyền sống của tất cả các trẻ chưa sinh nên nhận thức rằng qua hành động họ đã tự do muốn tự tách biệt khỏi những điều Giáo Hội tin tưởng và giáo huấn. Một cách nghiêm trọng họ cũng tự tách biệt khỏi cộng đoàn Công Giáo. Tuy nhiên, “họ vẫn còn là người Công Giáo về một phương diện nào đó, nhưng không còn đức tin Công Giáo toàn vẹn nữa. Đối với người như thế, diễn tả việc hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội qua việc chịu lễ là một hành vi thực sự thiếu lương thiện” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).

Nhân danh tự do, con người tưởng đạt tới đỉnh cao quyền làm người. Thực tế, “không có quyền nào căn bản hơn quyền được sinh ra và nuôi dưỡng với toàn thể phẩm vị xứng đáng với con người.” Do đó, “phá thai là một trong những bất công nghiêm trọng nhất” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04). Lý do vì con người không phải là “một hạt bụi vô dụng mất hút trong không gian và thời gian vô nghĩa, nhưng là một phần trong chương trình đầy khôn ngoan phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa” (Gioan Phaolô II: Zenit 5/5/2004).

 

23. Ơn gọi sống theo Chúa – Veritas.

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng để cứu chữa”.

Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài, và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán: “Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con người.

Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa.

Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”.

Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.

Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

 

24. Theo Chúa

Quan đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có nhiều loại người đi theo Chúa.

Hạng người thứ nhất: “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà không nghĩ tới công sức phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giêsu bảo: “Trước khi theo ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả.” Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giêsu, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giêsu khen những người biết đánh giá cao hết sức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về  Chúa.

Hạng người thứ hai được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa biết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời mời gọi theo Chúa.

Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:

Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá yêu thương anh, do đó, không để anh thực hiện ý nguyện.

Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: “Yêu anh hả! Thật thế sao?”. Và ông bày cho anh một bí mật của Yoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy tới than khóc thảm thiết.

Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.

Trước sự ngạc nhiên của xác “chết”, các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: “Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng ta sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta.

Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách, vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Kitô. Chúa Giêsu đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đá chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Kitô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Kitô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng cao cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.

Hạng người thứ ba còn lừng khừng chưa dứt khoát. Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ… Đối với hạng người này Chúa Giêsu không bảo “Hãy theo ta” cũng không bảo “hãy trở về”, nhưng Ngài bảo “Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm.” Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ân vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.

Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa: “Chúng ta nhận ơn Chúa cách vô ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo”.

 

home Mục lục Lưu trữ