Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 87
Tổng truy cập: 1370880
PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU
Chủ đề: “Tình yêu làm nên những phép lạ nơi những kẻ tin vào tình yêu và thực hiện tình yêu”
Cách đây mấy năm tập san Readers Digest có thuật lại một câu chuyện cảm động về một em bé trong bệnh viện Milwaukee. Em này bị mù, đần độn, lại còn bị liệt não nữa. Em chỉ khá hơn loài thảo mộc một chút là biết đáp ứng lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi. Cha mẹ em đã bỏ rơi em. Nhưng bệnh viện cũng chả biết xử lý thế nào với trường hợp của em. Thế rồi có một người nhớ đến May Lempke, bà y tá 52 tuổi sống gần đấy. Bà nầy đã từng nuôi nấng năm đứa con của chính mình, nên bà sẽ biết cách chăm sóc cho một đứa trẻ như thế. Họ yêu cầu bà chăm sóc đứa bé và bảo: “Thằng bé có lẽ sẽ chết yểu!”. Bà May trả lời: “Nếu tôi chăm sóc đứa bé, nó sẽ không chết yểu đâu, và tôi rất sung sướng được chăm sóc cho nó”.
Thế là bà May đặt tên cho cậu bé là Leslie. Chăm sóc cho cậu bé quả thật không dễ dàng chút nào. Ngày nào bà cũng phải xoa bóp toàn thân đứa bé, bà đã cầu nguyện cho nó, đã khóc vì nó, bà đã đặt đôi tay nó lên những giọt lệ của bà. Một hôm, có người nói với bà: “Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào viện? Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà thôi?
Leslie càng lớn thì càng có nhiều vấn đề phải đặt ra cho bà May. Bà phải giữ nó chặt vào một chiếc ghế để nó khỏi bị té xuống. Thời gian trôi qua, năm mười, mười lăm năm. Mãi đến khi Leslie 16 tuổi, bà May mới có thể tập cho nó đứng một mình được. Suốt thời gian đó, bà May vẫn tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho cậu bé. Ngoài ra bà còn kể cho cậu bé nghe những mẩu chuyện về Chúa Giêsu dù xem ra cậu chẳng nghe được tiếng bà.
Thế rồi một ngày nọ, bà May chợt nhận thấy Leslie dùng ngón tay của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một gói đồ. Bà tự hỏi; điều ấy có ý nghĩa gì? biết đâu Leslie lại nhạy cảm với âm nhạc chăng? Và bà May bắt đầu cho Leslie nghe âm nhạc. Bà chơi đủ loại hình âm nhạc mà bà tưởng tượng ra được với hy vọng có một loại nào đó có thể lôi cuốn cậu bé. Cuối cùng, bà May và chồng mua được một chiếc dương cầm cũ kỹ. Họ đặt nó vào giường ngủ của Lislie. Bà May cầm những ngón tay của Leslie đặt vào tay bà và tập cho cậu bé biết cách nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu ta chả hiểu.
Thế rồi vào một đêm đông năm 1971, bà May bừng thức giấc vì nghe có tiếng đờn của ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Bà lay lay chồng đánh thức ông dậy, và hỏi xem ông có quên tắt radio không. Ông ta nói rằng không, nhưng họ quyết định tốt hơn là nên xem xét lại. Và họ khám phá ra một điều vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất của họ. Cậu Leslie đang ngồi tại chiếc dương cầm. Cậu đang mỉm cười và chơi đàn một cách ngẫu hứng không thể nào tin được đây là sự thật!
Trước đây Leslie chưa bao giờ bước ra khỏi giường một mình. Trước đây cậu bé chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc dương cầm được, cậu cũng chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn. Thế mà bây giờ đây cậu lại đang chơi đàn tuyệt vời như thế! Bà May vội quì gối xuống và thốt lên: “Lạy Chúa! Con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên Leslie”.
Chẳng bao lâu, Leslie bắt đầu kiếm sống bằng cây dương cầm. Cậu chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê miền tây, nhạc trữ tình, nhạc dạo và cả nhạc Rock nữa. Hoàn toàn không thể nào tin nổi. Tất cả những bài nhạc bà May đã từng chơi cho cậu nghe đều tồn trữ trong óc cậu và giờ đây tuôn trào ra trên phím dương cầm qua đôi tay cậu. Giờ đây ở tuổi 28, Leslie bắt đầu nói chuyện. Tuy không thể đối thoại lâu giờ. Nhưng cậu có thể đặt câu hỏi, trả lời những câu đơn giản và phát biểu được những lời phê bình ngắn gọn. Chẳng hạn, một buổi tối kia, đang xem một vở hài kịch trên truyền hình, cậu cảm thấy cuộc đối thoại chán ngắt, cậu bèn nói:
“Tốt hơn là chúng ta nên tắt nó đi, cả bọn chỉ toàn là lũ điên!”.
Dạo này, Leslie chơi nhạc hoà tấu cho những ca đoàn nhà thờ, cho các cơ quan dân sự, cho các nạn nhân liệt não và cha mẹ họ, cậu còn xuất hiện cả trên đài truyền hình quốc gia nữa! Các bác sĩ mô tả Leslie như là một người thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một người chậm phát triển về trí tuệ do tổn thất nơi não nhưng lại cực kỳ tài năng. Họ không thể cắt nghĩa được hiện tượng dị thường này cho dù họ biết về nó gần 200 năm rồi. Bà May Lempke cũng không the cắt nghĩa được điều ấy nhưng bà biết chắc rằng nhờ tình yêu mà tài năng ấy được khai mở.
Chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần câu chuyện của bà May Lempke với những gì bà đã làm được cho Leslie nhờ tình thương không mệt mỏi của bà. Nó đặc biệt thích hợp với chúng ta ngày nay vì ba lý do;
Thứ nhất, bằng một cốt chuyện gây cảm động, câu chuyện cụ thể hoá sứ điệp hàm chứa trong các bài đọc hôm nay, được gọi là giáo huấn của Đức Giêsu về việc yêu thương nhau.
Thứ hai, nó đã cụ thể hoá thành một cốt chuyện lý do tại sao chúng ta lại dành ngày hôm nay để làm Ngày Cho Mẹ, bởi vì, thông thường, các bà mẹ sống lời Đức Giêsu dạy về tình thương một cách kiên nhẫn và trung thành hơn bất cứ nhóm người nào khác.
Sau cùng, câu chuyện cũng cụ thể hoá năng lực kinh khủng của tình yêu. Những gì mà bà May đã làm vì tình yêu cho Leslie qủa thật là lạ lùng. Đó chính là những gì Đức Giêsu đòi hỏi phải có cho một tình yêu thương đích thực. Đó là một phương cách để tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại này, đúng như cách Đức Giêsu đã tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại Ngài.
Qua tình yêu, Thiên Chúa đã để chúng ta tùy nghi sử dụng cái năng lực mãnh liệt nhất, trên thế gian này, đó là thứ năng lực mà mọi tiền của trên thế gian không thể mua được. Đó là thứ năng lực mà mọi tri thức trên thế gian không thể tạo ra được. Đó là thứ năng lực mà mọi lãnh tụ trên thế giới không thể chiếm hữu được. Đó cũng là thứ năng lực mà mọi đạo quân trên trần thế không thể tập trung lại được. Và kiều kỳ diệu hơn nữa, Tình yêu là năng lực mà mọi người đều có.
Bất chấp nam hay nữ
Bất kể thuộc tôn giáo nào
Bất kể thuộc quốc tịch nào
Bất kể được giáo dục theo phương pháp nào.
Tình yêu chẳng dành riêng cho người khoẻ mạnh
Cũng chẳng dành riêng cho người giàu có
Cũng chẳng dành riêng cho kẻ khôn ngoan
Cũng chẳng dành riêng cho người danh giá.
Tình yêu dành cho tất cả mọi người
Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng
trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.
Đây chính là Tin Mừng chứa đựng trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Đây là Tin Mừng có khả năng biến đổi thế giới chúng ta một cách tuyệt hảo chẳng khác nào tình yêu của bà May Lempke đã biến đổi thế giới của Leslie. Đây chính là Tin Mừng mà chúng ta phải rao to từ trên mái nhà và sống nó thật trọn vẹn.
Và nếu chúng ta là được thế, chúng ta cũng có thể làm được những phép lạ bằng tình yêu của chúng ta ngay trong kiếp sống này y như Đức Giêsu đã làm nên những phép lạ nhờ vào tình yêu của Ngài trong thời gian Ngài sống trên dương thế.
44. Giây leo – Lm. Vũ Đình Tường
Những ai làm vườn đều có kinh nghiệm bực bội, tức tối khi phải phá giây leo. Để leo lên cao giây leo cuốn chặt vào cây trong vườn, cuốn tròn nhiều vòng để leo lên. Mỗi một vòng lên cao một bực và khi đạt đến ngọn cây chúng mau chóng toả lan ra nhiều nhánh bao trùm cây và từ cây này ngọn giây leo vươn dài bám sang cây khác. Cứ thế mau chóng lan ra. Giây leo không những tạo gánh nặng cho cây chúng còn che lấp ánh nắng cần thiết khiến cây chậm lớn và là chỗ mát tốt cho sâu rầy sinh sản mau chóng. Tệ hơn nữa giây leo còn gieo mầm bệnh cho cây chúng leo và dĩ nhiên hút phân bón, và chất dinh dưỡng của cây. Đức Kitô dùng hình ảnh giây leo để nói đến tình yêu liên kết trong Chúa và nhờ tình yêu đó thanh tẩy làm trong sáng cuộc sống tâm linh.
Liên kết trong tình yêu là điều Đức Kitô mời gọi chúng ta sống. Liên kết để được ở cùng, sống chung và nhận sức sống từ Đức Kitô. Một khi chúng ta sống dưới sự che chở của Đức Kitô cuộc đời ta sẽ thay đổi. Thay đổi vì mối liên kết phát sinh trong tình yêu Chúa. Mối liên kết vô hình cho những ai không tin vào Đức Kitô. Qua đức tin ta cảm nhận đuợc mối liên kết vô hình và nhận biết thành quả do tình yêu Chúa trao ban. Tương tự như giây leo làm thay hình đổi dạng của cây, tình yêu Chúa có sức mạnh thay đổi cuộc sống con người. Biến ta thành con người có tâm tư như Đức Kitô, sống và suy nghĩ theo sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi thói hư xã hội. Thói hư kìm chế cuộc sống. Nó làm ta mất tự do bằng cách ta bị lệ thuộc vào chúng. Sống lệ thuộc là sống trong nô lệ, nô lệ của sa đoa, của ham muốn, nô lệ của hận thù. Những thói tật kia khuyến dụ ta bằng hào nhoáng bề ngoài và những phút vui chơi ngắn hạn. Sống theo hào nhoáng đòi hỏi chạy đua với hào nhoáng. Chạy hoài sẽ hết giờ cho tình bạn, tình yêu gia đình và tình yêu Chúa. Chạy hoài sẽ mệt mỏi và thua cuộc. Thua cuộc nên bực dọc, cáu kỉnh, chán đời. Thua cuộc nên cảm thấy đời trống rỗng, vô vị, cuộc sống trở nên vô nghĩa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi cám dỗ lệ thuộc. Tình yêu Chúa ban phát tự do cho tâm hồn. Tình yêu Chúa cởi trói cho con tim khỏi ràng buộc xã hội và ban bình an cho con tim. Tình yêu Chúa giúp ta sống an vui, hạnh phúc thật. Tình yêu Chúa thanh tẩy lối suy nghĩ và hành động. Tình yêu Chúa nâng cao phẩm giá con người, biến ta thành con cái sự sáng, trở nên thân hữu của Đức Kitô.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa… nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu. (c.15)
Bạn bè đối thoại với nhau bằng nhiều cách. Họ chia sẻ với nhau tình cảm, tâm tư và ngay cả mối lo trong cuộc sống. Họ an ủi nhau khi có người sầu khổ, và chung vui khi có niềm vui. Tương tự như thế Đức Kitô gọi chúng ta là bạn hữu Ngài cũng đối xử với chúng ta như những người bạn đối xử với nhau. Liên kết với Đức Kitô qua cầu nguyện hàng ngày, qua việc siêng lãnh nhận các bí tích. Liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được thông cảm, an ủi, nâng đỡ, cùng đồng hành với Đức Kitô trong mọi tình huống cuộc sống. Nếu chẳng may có người thân ra đi chúng ta than khóc. Thiên Chúa hiểu ta hơn cả bởi chính Thiên Chúa cũng có kinh nghiệm mất con một Ngài là Đức Kitô. Đức Kitô ra đi ở tuổi thanh niên, ra đi một cách đau đớn nên Chúa hiểu nỗi mất mát của ta khi phải chia lìa người thân.
Liên kết với tình yêu Chúa giúp đổi mới tâm hồn. Đổi mới bằng cách xén tỉa, làm cho cuộc sống tâm linh ngày một trong sáng, gần Chúa hơn. Chính việc đổi mới, trong sáng tâm hồn giúp cho niềm vui trở nên dồi dào, trọn vẹn. Niềm vui mà hào hoáng xã hội không thể nào có vì niềm vui này phát xuất tự tâm hồn, như giòng suối trong không ngừng chảy vì nó lấy sức sống, sức mạnh và niềm vui từ nguồn yêu vô tận từ trái tim Đức Kitô. Một trái tim dám chết cho người mình yêu.
45. Đi lạc – Lm. Vũ Đình Tường
Không phải chỉ có con người mới đi lạc mà con vật cũng đôi khi lạc đường, sai lối. Điểm khác biệt là con vật lạc đường vì nhận sai phương hướng, lầm lẫn trong lối đi. Trong khi con người lạc đường không phải lầm lẫn phương hướng mà chủ trương đi lạc. Con đường đi lạc là con đường người đó đi lại hàng ngày, mỗi ngày đi lại cùng con đường, mòn mỏi trên con đường. Dù đi lại nhiều lần vẫn lạc bởi vì người đó chủ trương đi lạc. Dù có đi lại ngàn lần mỗi lần đi tăng thêm một lần lạc. Con vật lạc đường tránh không đi lại con đường đó nữa.
Đó là câu chuyện con chim cánh cụt tại vùng nam cực. Nó chưa đầy một tuổi, người ta phỏng chừng nó mới mười tháng tuổi, trên đường đi săn mồi về đã lạc đường bơi theo giòng nước nhiều ngàn cây số trước khi trôi dạt vào bờ biển Tân Tây Lan. Báo chí đặt cho nó cái tên là đôi chân hạnh phúc. Đối với con người thì quả là hạnh phúc, lần đầu trên đời nhìn thấy nó mà không phải tốn công, mất của đến nam cực, giá buốt để xem nó. Hạnh phúc vì đời người may mắn lắm mới gặp một lần bởi vì cách đây 44 năm cũng có con chim cánh cụt bơi lạc vào Tân Tây Lan. Đối với sự sống, tồn vong thì con chim cánh cụt quả có đôi chân hạnh phúc. Nhờ đôi chân đó mà nó sống sót. Mới 10 tháng tuổi nó đã cao 80cm. Trung bình chim cánh cụt nam cực cao 122cm và nặng khoảng 34kg.
Nghĩa tương phản, đôi chân cánh cụt là đôi chân bất hạnh, dẫn đưa nó xa đàn, rời tổ. Hạnh phúc có chăng là nó sống sót, đôi chân mỏi mệt kia dẫn đưa nó đến bến bờ, dù là bến bờ ngoài ý muốn nhưng nó sống sót trên đường đi, không bị cá mập xơi tái trong cuộc hành trình.
Chim cánh cụt thường ăn tuyết để cơ thể đủ nước, giữ mức độ thân nhiệt cân bằng với nhiệt độ nam cực. Lần đầu trên đời nó nhìn thấy cát lại lầm là tuyết nên nó xơi một bụng cát. Kết quả cơ thể không tiêu hoá được phải nhờ đến bác sĩ thú y rửa ruột.
Con người đi lạc gia đình đau buồn, hàng xóm láng giềng lo sợ và Giáo Hội đau khổ. Con người đi lạc không bao giờ chấp nhận mình đi lạc. Trái lại còn tự hào, tự nhận mình tiến bộ, hiểu biết hơn người, sống lối sống mới. Mới ở đây không có nghĩa là tốt mà chọn lựa đi lạc lại hãnh diện mình làm đúng, tài khôn. Giáo Hội luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ, tạo cơ hội cho người đó trở về.
Con chim đi lạc được người ta ca tụng, người đến xem kẻ viết bài tường thuật. Hình ảnh con chim đi lạc đăng tải đủ kiểu, lớn nhỏ, chụp thẳng, chụp nghiêng, chụp người coi sóc chim, phỏng vấn người đầu tiên nhìn thấy con chim lạc. Mọi chi tiết được diễn tả rõ ràng mạch lạc. Nhóm bảo vệ súc vật sẵn sàng lên tiếng bênh vực con vật đi lạc. Ca tụng con vật đi lạc đã đành họ còn vận động yêu cầu chính phủ chi tiền cho một chuyến máy bay riêng chở con chim về tổ ấm cũ.
Đối với con vật đi lạc là thế, nó là con vật vô danh, đi lạc trở thành con vật hữu danh, danh tiếng lẫy lừng. Nổi tiếng cỡ nào đi chăng nữa thì con vật cũng không hưởng gì, không ích gì. Điều nó thích nhất, sung sướng nhất là hãy trả nó về đời sống hoang dã, nơi nó sinh ra, nơi nó ngày ngày bơi tìm mò cá, nhặt tôm. Được chăm sóc chu đáo trái lối sống tự nhiên của nó nên nó không thích. Nó không thích tiếng cũng chẳng thích miếng, nếu miếng đó khong do chính công lao của nó, do cánh cụt cộng với đôi chân vẫy bơi trong nước, do chính mỏ nó bắt được con mồi. Danh tiếng đối với nó bằng thừa.
Cá nhân đi lạc người thân lo lắng, họ hàng tiếc thương. Báo chí không lên tiếng lấy một câu, truyền hình không cho lấy một tấm ảnh. Nếu báo chí có nhắc đến một là qua đời cách mờ ám, hai là kết quả của những lỗi lầm khai ra trước toà. Khác với con vật, con vật đi lạc thường ít gây tai vạ cho con người cho xã hội. Con người đi lạc thường tạo ra những tệ đoan xã hội. Lạc càng nhiều mức tàn phá xã hội càng lớn. Lạc càng sâu đậm thì mức phá hoại gây ra càng khủng khiếp. Trong tất cả các loại lạc thì loại lạc tư tưởng là nghiêm trọng hơn cả. Nhất là khi kẻ lạc đó lại ở thế lãnh đạo, chỉ huy thì mức độ tàn phá không phải do một người mà do một phe nhóm, một đảng phái. Khi một đảng phái cùng nhau hợp lực tàn phá thì mức huỷ hoại khủng khiếp tăng nhiều ngàn lần. Số người thiệt mạng vô số kể, tài sản quốc gia hao mòn, thất thoát, tương lai dân tộc lụn bại xuống dốc theo sự hướng dẫn sai lạc của nhóm chủ trương.
Về phương diện tâm linh, lạc giáo, lạc đạo sẽ dẫn đến tình trạng một là li khai khỏi tôn giáo mình có thời tin theo để lập một tôn giáo mới có cùng căn bản của tôn giáo cũ nhưng giải thích trại đi. Hai là hoàn toàn chống lại tôn giáo có thời đã tin theo. Cách nào thì lạc giáo cũng tạo nên chia rẽ, ngăn cách, bài xích tôn giáo cũ.
46. Lưới tình – Lm. Vũ Đình Tường
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật luôn đến từ Thiên Chúa. Gọi là tình yêu chân thật vì tình yêu đó dẫn ta đến sự thật, nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.
Tình yêu chân thật bất biến với thời gian. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào tình Chúa yêu ta cũng sáng chói như mặt trời. Tinh ròng như nắng sớm, đẹp như hoa chớm nở và chan hoà yêu thương.
Tình Chúa vĩ đại, cao vời, vô bờ bến, tình Chúa khơi dậy trong ta:
– Tình thương người đồng loại.
– Quí trọng sự sống con người.
– Quí trọng đức công bằng.
– Yêu quí và thực thi đức ái.
– Mau mắn nhan sai trái, lỗi lầm.
– Hay thứ tha.
– Giầu lòng xót thương.
Tình yêu Chúa giúp ta nhận ra hình ảnh Chúa Kitô trong người anh chị em mình. Bất kể họ mang mầu sắc gì, tôn giáo nào, người hay thai nhi, già hay trẻ, giầu hay nghèo, nam hay nữ, sang hay hèn, tự do hay tù tội, mạnh khoẻ hay yếu liệt họ đều là con cái Chúa, anh chị em trong đại gia đình Chúa.
Dù họ không chọn Ngài nhưng Đức Kitô chọn họ làm bạn. Họ chưa thuộc đàn chiên nên Ngài đi tìm kiếm.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về (Ga 10,16)
Chúa sai tôi đi
Tình Chúa yêu ta thể hiện qua tình người. Thiên Chúa thi ân, giáng phúc cho nhân loại bằng cách cho phép ta cộng tác vào công trình của Ngài. Nhờ thế mà tình người được nâng cao và thánh hiến.
Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sanh nhiều hoa trái (Ga 15,5)
Chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em, để anh em ra đi,
Sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại (Ga 15,16)
Sai đến người đau khổ; đỡ dậy người vấp ngã, sánh vai người tàn tật, an ủi kẻ cô đơn, viếng thăm người bệnh tật, cho kẻ đói ăn, dóng lên tiếng kêu gọi giao hoà và thứ tha. Điều này thể hiện lòng thương xót vô bờ Chúa dành cho nhân loại, qua bàn tay yêu thương trìu mến của con cái Chúa. Các việc lành thánh, công trình từ thiện diễn tả một Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Sống đời sống xót thương là môn đệ chân chính của Chúa.
Tình người
Bên cạnh tình Chúa có tình người. Tình người tốt lành khi tình người được thánh hoá, hướng dẫn bởi Lời Chúa và ân sủng Ngài.
Lời Chúa thanh tẩy tình người
Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em (Ga 15,3)
Nhờ tình người được thanh tẩy mà nhân loại tránh được muôn đại hoạ phát sinh do lòng ích kỉ.
Chối bỏ ơn Chúa, con người không làm được việc gì tốt. Vì phán đoán, quyết định hướng dẫn bởi kiêu ngạo và lợi nhuận.
Người ta nhân danh tình người hành hạ, làm khổ nhau. Vì lợi nhuận mà dân tộc này xâm chiến dân tộc nọ. Vì lợi nhuận mà quân viễn chinh đi không bao giờ trở lại. Vì lợi nhuận mà bao gia đình tan nát. Vì kiêu ngạo dân tộc này tự nhận văn minh hơn dân tộc nọ. Chủ thuyết này tìm cách triệt tiêu chủ thuyết kia. Lối sống này đòi lãnh đạo lối sống nọ. Nguồn gốc chiến tranh bắt nguồn từ lòng người. Không vì lợi nhuận thì cũng sanh bởi kiêu ngạo hoặc do ích kỉ mà ra. Chối bỏ ơn Chúa, cá nhân tự chuốc hoạ cho gia đình, lãnh đạo chuốc hoạ cho dân tộc.
Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. (Ga 15,5)
Lưới tình
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra các loại tình khác đến từ con người. Sản phẩm con người sáng chế ra thường bất toàn. Tình yêu con người mặc cho cũng bất toàn nên kết quả của các cuộc tình đó cũng bất toàn. Tệ nhất là quái thai tình yêu. Quái thai tình yêu do gian tà, đội lốt và giả tạo sanh ra. Mặt ngoài là tình yêu. Vỏ trông giống tình yêu nhưng sau lớp son tô, phấn điểm là gian tà, ngụy biện và lạm dụng.
Là quái thai thời đại nên phải che đậy bằng mỹ từ, đánh bóng, tuyên truyền, tẩy não. Ai phanh phui sự thật bị liệt vào tội phản bội. Phản bội bị khai trừ. Bắt người khác yêu như họ yêu, nói như họ nói, nhận xét như họ nhận xét.
Trung thành với tình người hay phản bội tình người cả hai đều đau khổ. Kẻ phản bội sống phận hèn tôi tớ, trọn kiếp đoạ đầy. Nặng thì đầy rừng thiêng nước độc, nhẹ ở nhà sống ngày đói, đêm khát. Trung thành góp phần làm băng hoại xã hội. Vì cơm, áo, tư lợi, người dối người, lừa gạt, bỏ tù người. Vật chất trọng hơn tình người. Miệng lưỡi để lừa gạt. Kêu gọi đấu tranh, khích lệ hy sinh, hiến thân cho lí tưởng lường gạt.
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra không có mối tình nào tuyệt hảo.
47. Điều răn của Thầy – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy… ở lại trong tình thương của Thầy’, thì câu hỏi được đặt ra hôm nay lại là, làm cách nào để ‘ở lại trong Thầy’ cho thật hữu hiệu? Vấn nạn này đã được chính Đức Giêsu giải đáp và xem ra thật đơn giản và dễ hiểu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuy nhiên câu giải đáp xem ra đơn giản tới độ không cần phải giải thích đó thật ra lại chẳng dễ hiểu chút nào bao lâu chúng ta chưa xác định được, ‘các điều răn của Thầy’ là điều răn nào?
Trong chương 14 và 15, Phúc âm Gio-an lặp đi lặp lại không dưới bảy lần về ‘điều răn hay lệnh truyền’ của Đức Giêsu (14,15.21.25; 15,10a.10b.11.12.17). Cho tới nay ta hầu như vẫn thường được nghe giải thích một cách dễ dãi: thì ‘điều răn của Chúa’ đương nhiên phải là mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh! Tuy nhiên cách giải thích này xem ra không ổn cho lắm, vì căn cứ theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Thánh Gioan thì Đức Giêsu hình như đang đề cập tới một thứ điều răn nào đó có một nội dung rất khác với thập giới của Cựu Ước hay sáu điều Hội Thánh qui định sau này. Điều răn này dứt khoát có tầm quan trọng vô đối vì là điều kiện thiết yếu để gắn kết, trước hết là Đức Giêsu với Cha của Người, đồng thời cũng là để mọi môn đệ có thể ở lại được trong tình thương của Thầy mình; “…Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Nếu vậy, ta cần tìm hiểu cụ thể điều răn đó có nội dung gì mới được?
Thú thực cho tới giờ này tôi vẫn chưa tìm được câu giải thích thỏa đáng cho một chi tiết rất nhỏ: tại sao khi đề cập tới điều răn cách chung chung (14:15.21; 15:10a.10b.11) tác giả Gio-an luôn sử dụng số nhiều ‘các điều răn’, nhưng khi nói cụ thể thì chỉ là một duy nhất ‘Đây là điều răn của Thầy… Điều Thầy truyền dạy anh em là…’ (15,12.17)? Phải chăng, đối với các môn đệ có truyền thống Do Thái, giới răn nói chung (thập giới) luôn là số nhiều (trừ khi nói về từng giới luật một)? Ngay cả khi phải tóm gọn các giới răn đó lại, Đức Giêsu vẫn còn xác định hai điều căn bản: mến Chúa và yêu người (Mt 22,36-40). Nhiều tác giả cho rằng: Đức Giêsu sử dụng từ ‘các giới răn’ đồng nghĩa với ‘các lời’ Thầy nói với anh em’ (14,23). Tuy nhiên khi phải xác định rõ nội dung ‘các giới răn của Thầy’ là gì, thì Người lại chỉ khẳng định có một điều duy nhất mà thôi: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (câu 12)… Điều thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Vậy tại sao trong hoàn cảnh này lại chỉ là một mà không phải là hai?
Nếu Cựu Ước coi việc ‘ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’ là quan trọng hơn hết, thì ‘điều răn của Thầy’ lại không hề đề cập tới điều này. Theo suy nghĩ của riêng tôi thì Đức Giêsu nắm rất rõ bản tính con người: yêu mến hết lòng là điều hầu như không ai có thể làm được; yêu mến phải do Thiên Chúa tình yêu chủ động. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Điều Người yêu cầu mỗi Ki-tô hữu làm lại mang tính thụ động hơn, “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình là tất cả đối với niềm tin của mọi tín hữu. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”, ngay Đức Giêsu khi nói về tình yêu Người dành cho nhân loại cũng đã khẳng định nguồn gốc của nó nằm ở đâu. Do đó ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ chính là điều bất cứ tín hữu nào cũng phải làm và có thể làm, đặc biệt những người yếu hèn và tội lỗi. ‘Ở lại’ này không đòi phải cảm thấy mình có cháy lửa yêu mến Chúa hay không, hoặc ‘cháy’ tới mức độ nào; ‘ở lại’ chỉ để giữ cho được điều răn duy nhất là ‘yêu thương nhau’. Đúng vậy, ta chỉ có thể ‘yêu thương nhau’ nếu nắm bắt được ‘ Thầy đã yêu thương’ ta như thế nào. Xem ra ‘yêu thương nhau’ chính là thước đo mức độ chúng ta ‘ở trong tình thương của Thầy’, đồng thời đó cũng có thể là thứ hoa trái mà Chúa muốn chúng ta sinh nhiều và tồn tại mãi, phát xuất từ việc ‘ở lại trong tình thương’ đó?
À, thì ra thế! Lúc đầu khi mới đoc cuốn sách ‘Be My Light’ viết về Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta – nhân vật mà không ai ngờ đã trải qua gần 50 năm sống trong tăm tối thiêng liêng trong tình trạng hầu như mất đức tin, vậy mà Mẹ vẫn lao mình vào các việc bác ái không mỏi mệt, tôi cho là quá nghịch lý. Sự thật hiện ra tỏ tường trước mắt khi tôi biết rằng, đơn giản là Mẹ đã liên tục ‘ở lại trong tình thương của Thầy’. Và nếu hoa trái nơi Mẹ chưa phải là ‘yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’, thì nó đã là ‘yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương’… Đó chính là ‘điều răn’ duy nhất của Thầy mà Mẹ đã nắm giữ, ‘để Mẹ ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của Mẹ tồn tại’.
Tôi cũng phải như vậy thôi! Đứng có quá lo lắng phải yêu mến Chúa như thế nào, mà giản đơn là ở lại trong tình thương mến của Thầy, là cảm nghiệm thấy Thầy yêu mến và tự hiến cho con người thấp hèn như mình, là Thầy đã chết cho mình tội lỗi… và rồi cố diễn đạt sự ở lại đó qua việc thương mến và phục vụ tha nhân. Thật là đơn giản, phải không các bạn?!
Ôi, lạy Thầy Giêsu từ nhân, ‘điều răn của Thầy’ thật quá đơn giản. Chính bản thân con cũng đã từng nghiệm thấy ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ là khó quá, ít ai đạt được. Thực ra Thầy chỉ tha thiết đòi con ‘ở lại trong tình thương của Thầy’, kể cả khi con yếu đuối tội lỗi nhất. Con xin Thầy cho con sớm đạt được hoa trái ‘yêu thương nhau’, nhờ liên tục trầm mình trong tình yêu ‘như Thầy đã yêu’. Amen.
48. Niềm tâm sự của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc)
Lệnh truyền của Chúa Giêsu là một lời tâm sự của người yêu nói với người yêu, đó là: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9).
Lệnh truyền này không mang tính nghiêm khắc nhưng là trao ban, là chia sẻ hạnh phúc của tình yêu. Chúa Giêsu đã nâng các tông đồ lên ngang tầm với mình, Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ, Thầy gọi các con là bạn hữu”. Từ hàng tôi tớ trở nên bạn hữu là sự cách nhau một trời một vực. Người tôi tớ không được phép biết việc chủ làm; người tôi tớ chỉ biết hầu hạ. Ngược lại, bạn hữu là người chia sẻ, là người đồng hành. Nhưng từ tôi tớ lên bạn hữu, con người đâu có thể thực hiện được, nếu không phải là chính Thiên Chúa nâng con người lên. Vậy lý do nào để Chúa Giêsu kết luận điều này? Ngài giải thích: “Vì tất cả những gì Cha Ta nói với Ta, Ta cũng tỏ cho các con biết” (Ga 15,15). Chúa Giêsu đã không dấu điều gì. Đó là tiếng nói của người yêu để trao cho các tông đồ và qua các tông đồ tiếng nói của Chúa Giêsu đến với toàn thể Hội Thánh, đến với toàn thế giới về một sứ điệp Tình yêu dành cho tất cả mọi người, rằng: “Thiên Chúa yêu thương con người và yêu đến tận cùng”.
Tại sao lại gọi là “Yêu đến tận cùng”? Vì lời mời gọi của Chúa Giêsu đã nêu rõ “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Ở lại trong tình yêu của Thầy có nghĩa là Chúa Giêsu gìn giữ, Chúa Giêsu thánh hóa. Chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thầy, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta nên bạn hữu với Thầy. Trò lại được gọi là bạn hữu. Tất cả những điều này là đặc tính của tình yêu. Tình yêu đích thực không tính toán, luôn đi bước trước, quảng đại cho đi và chấp nhận tất cả. Chúa Giêsu đã không đòi một điều kiện nào, ngoại trừ một yếu tố duy nhất là “Các con hãy giữ lệnh truyền của Thầy” (Ga 15,10). Và lệnh truyền của Thầy rất ngắn gọn, đầy đủ ma không ra ngoài tình yêu. “Điều Thầy truyền là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17).
Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta ở lại trong tình yêu của Chúa mà còn trao cho chúng ta một mẫu gương để chúng ta “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Với một tiêu chuẩn và cách thức trên, Đức Giêsu đã tự hạ mình xuống để trao ban cho con người những gì là cao cả nhất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu. Thế nên, trao ban cho con người là Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng với Ngài. Chúng ta không hiểu theo nghĩa tuyệt đối việc Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ của loài người để diễn tả. Gọi là bạn hữu, có nghĩa là nâng lên ngang hàng, để đồng hưởng một tình yêu như Đức Giêsu là đầu nói với thân mình, hay như Đức Giêsu là chồng nói với Hội Thánh là hiền thê. Vậy còn gì nữa mà Ngài không cho chúng ta giá trị của một tình yêu đích thực? Còn gì nữa để chúng ta dám đòi hỏi? Cho nên, Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền hôm nay không phải là một mệnh lệnh nghiêm khắc nhưng chúng ta khẳng định lại một lần nữa, đó là một niềm tâm sự.
Một niềm tâm sự của một người đã cho người mình yêu đến tận cùng. Đây cũng là tiêu chuẩn để trắc nghiệm: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13). Đức Giêsu đã cho đến tận cùng. Cho Máu, cho Nước từ Trái Tim Ngài chảy ra; cho quyền năng của Thiên Chúa hạ cố đến viếng thăm con người. Cho tình yêu đích thực của Thiên Chúa đến với một tình yêu bất trung, bội phản và hay thay đổi của con người. Cho hạnh phúc vĩnh cửu đi vào trong thế giới của con người. Một hạnh phúc của con người nay còn, mai mất nay lại được đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời đời. Chẳng lẽ, chúng ta không thấy tất cả những điều ấy là một huyền nhiệm sao? Chúng ta không thấy đó là một đặc tính đích thật của tình yêu, trao ban, hiến thân hay sao? Vì vậy, chúng ta không còn gì để nói, không còn gì để đòi hỏi mà chỉ còn lãnh nhận với lòng biết ơn. Và lòng biết ơn đó là gì? Là hãy sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Hoa trái ấy không phải là tự chúng ta làm được nhưng là hoa trái mà Chúa sẽ ban cho, chúng ta đừng để hư mất. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn tiên liệu trước cho chúng ta trong những gì vượt quá khả năng của con người, Ngài căn dặn: “Những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con” (Ga 15,16). Vì vậy, hãy lấy danh Đức Giêsu Kitô để xin và Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu tâm sự: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” và “ở lại trong tình yêu của Thầy”, chính là để bảo vệ và nâng đỡ. Thế nên chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Với tất cả điều này, người Kitô hữu hôm nay không còn gì phải phàn nàn, không còn gì phải lo âu hay sợ hãi. Họ được từng bước mời gọi, họ được từng bước trao ban. Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày, không phụ tình yêu thương của Chúa:
– Hãy biến những trìu tượng thành thực tế;
– Hãy hiện thực hóa khái niệm về một tình yêu cao vời và siêu nhiên;
– Hãy thực hành trong chính những người thân yêu của gia đình, những người bé mọn trong xã hội để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa đã được thể hiện trong đời sống của mỗi người chúng ta;
– Hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng việc chúng ta đối xử với nhau theo gương của Đức Giêsu Kitô đã yêu và đã ban trao.
Một lần nữa, Chúa lại cho chúng ta một đơn vị, một mô hình thực tế nhất và dễ dàng nhất để chúng ta thực hiện mỗi ngày, đó là YÊU THƯƠNG NHAU. Với tiêu chí đó, chúng ta sẽ không thiếu bất kỳ một cơ hội nào, chúng ta không thiếu một giây phút nào, vì lúc nào chúng ta cũng có thể yêu thương nhau. Va đó cũng sẽ là những nét đặc trưng để chúng ta đáp lại tình yêu cao vời và nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúng con chỉ còn biết im lặng, để tôn thờ và yêu mến Chúa. Vì Chúa đã dùng tất cả quyền năng và thượng trí, để trao cho chúng con một tình yêu lớn lao.
Xin cho chúng con biết thực hành trong đời sống mỗi ngày, với Chúa và với nhau, để chúng con không phụ tình yêu thương muôn đời của Chúa, để cho mỗi người chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa đến muôn đời.
Xin cho mỗi người chúng con khi được lời Chúa hứa, là được bảo đảm cho sự sống đời đời. Và trong tình yêu ấy, chúng con cũng sẽ hy vọng được gặp lại nhau như Chúa đã yêu chung con và chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
49. Mến Chúa và yêu người.
Chúa Giêsu đã quan niệm về hạnh phúc như thế nào? Theo tôi nghĩ Ngài đã quan niệm hạnh phúc như là sự hòa hợp của mối tương quan ba chiều: Thiên Chúa, bản thân và tha nhân.
Trong toán học, hễ có ba điểm trong không gian thì người ta có thể vẽ được một vòng tròn cố định. Cái vòng tròn hay tình trạng viên mãn của hạnh phúc cũng phải được hình thành từ mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa, cũng như giữa con người với nhau. Chẳng hạn trong đời sống gia đình, hạnh phúc hệ tại mối tương quan hòa hợp giữa cha mẹ và con cái, cũng như giữa con cái với nhau. Thực vậy, con cái không thể nào hạnh phúc nếu chỉ hòa thuận với cha mẹ mà không hòa hợp với anh chị em. Hay trái lại, không thể hạnh phúc nếu chỉ hòa thuận với nhau mà không hòa hợp với cha mẹ.
Điểm mới lạ Chúa Giêsu đem đến chính là khẳng định tính cách ngang bằng và bất khả phân ly giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân, hay nói đúng hơn chỉ có một tình yêu liên kết con người với Thiên Chúa và liên kết con người với con người. Cũng như hai mặt của một đồng tiền. Nếu nó rách bên này thì cũng rách bên kia, không thể có sự nguyên vẹn của mặt này nếu mặt kia không có hay đã nhàu nát.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán: Điều răn thứ nhất đó là kính mến Chúa hết lòng. Còn điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, đó là hãy yêu mến tha nhân như chính bản thân mình. Và chúng ta thấy, cây thập giá là biểu tượng cho sự gắn bó và hòa hợp giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân: chiều dọc biểu tượng cho mối tương quan đối với Thiên Chúa, còn chiều ngang biểu tượng cho mối tương giao giữa người với người. Không có thanh dọc, thì thanh ngang chỉ có thể nằm dưới đất, không thể nâng cao được. Trái lại nếu thiếu thanh ngang thì cây thập giá chỉ còn là một cái cọc chơ vơ. Không có tình yêu Thiên Chúa thì tình yêu con người khó có thể được nâng cao và không thể đạt tới viên man, nhưng nếu không có tình yêu con người thì tình yêu Thiên Chúa cũng không thể đến với con người, bởi vì chẳng ai thấy được Thiên Chúa bao giờ.
Vì thế, tình yêu của Ngài đối với chúng ta đã được biểu lộ qua trung gian của tình yêu huynh đệ giữa chúng ta. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa luôn kết hợp với chúng ta và tình yêu của Ngài mới đạt tới mức hoàn hảo nơi chúng ta. Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mang một khuôn mặt của con người, sống hoàn toàn như một con người trần thế, ở giữa mọi người và hơn thế nữa, còn hạ mình sống thân phận một kẻ nô lệ để có thể phục vụ và chết cho mọi người. Ngài đã lấy chính cái chết trên thập giá để mạc khải trọn vẹn chân tính của mình là Thiên Chúa hằng hữu. Sự hy sinh dâng hiến ấy, đối với Ngài, chính là nguồn vui, an bình và vinh quang. Con người chỉ có thể đạt tới hanh phúc khi thể hiện lòng kính mến Thiên Chúa qua tình yêu thương đối với tha nhân, với một ý thức rằng cho một kẻ bé mọn một chén cơm, một manh áo, một ly nước là phục vụ cho chính Chúa. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào tha nhân cũng như hạnh phúc của tha nhân tùy thuộc vào chính chúng ta.
50. Yêu thương
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khắc giòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc giòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nươc. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa nghỉ, cắn răn chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nước, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhan bị chết xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”.
Đó là chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 năm 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuoi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn hành khách ở cai sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giê-su nói với các môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau nhu Thầy đã yêu thương anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dạy yêu thương, tôn giáo nào cũng dạy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Mô-sê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giê-su xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu thương, thực hiện yêu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đe Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn, có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận ai, giận vì việc gì… Dù ly do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người: giết kẻ bị nói xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam