Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 67

Tổng truy cập: 1367365

PHIÊN TÒA CHỈ CÒN LẠI HAI

PHIÊN TÒA CHỈ CÒN LẠI HAI

 

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Trong bộ phim của Liên Xô trước đây được mang tựa đề khá thi vị “Sân ga chỉ có hai người,” kể về chuyện trễ tàu của một ông kia và một bà nọ, xa lạ, nhưng rồi vì sân ga chỉ còn hai người, nên đi dần đến thân nhau.

Hôm nay bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng có thể đặt cho cái tựa đề như thế. Sân ga chỉ có hai người – hay “Phiên toà chỉ còn lại hai”

Người có công nghĩ ra tựa đề này là thánh Augustino. Và chính thánh nhân đã chơi chữ thật kỳ diệu: Chỉ còn lại hai: Miseria và Misericordia. Dịch là “sự khốn cùng” và “lòng xót thương.” Miseria, thêm cor, cordis là trái tim, ở giữa, sẽ có misericordia. Dịch thoát ý là, chỉ còn lại hai: “người đáng thương” và “Chúa xót thương.”

Do đâu mà đưa đến phiên toà rốt cuộc chỉ còn 2 người. Và 2 người đó là ai? Ta sẽ tìm hiểu.

Do đâu mà chỉ còn hai. Ta rảo qua phiên toà.

Đức Giêsu đang giảng giữa đám đông, thì các thầy Thông giáo và Biệt phái dẫn một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đem đến gài bẫy Chúa. Hẳn là người phụ nữ này phải run bắn lên vì vừa xấu hổ vừa sợ chết. Mà không phải sợ chết nữa mà là sẽ chết thật, vì chiếu luật Mosê Đnl 22,22 và Levi 20,10: Sẽ phải bị ném đá cho chết cả gian phu lẫn dâm phụ. Không cần xét xử gì.

Đây là cơ hội bằng vàng để gài bẫy Chúa. Và đây cũng là câu hỏi sinh tử mà Chúa gặp phải trong cuộc đời rao giảng.

Nếu không cho ném đá: Đức Giêsu sẽ bị cáo là lỗi lề luật, vi phạm luật pháp.

Nếu cứ cho ném đá: lòng nhân từ của Thiên Chúa mà Ngài rao giảng sẽ vô nghĩa. Lòng nhân ở trên mây! Ở đây ta thấy, họ vừa khiêu khích Chúa lỗi luật Môsê, vừa gián tiếp công nhận giáo lý về lòng nhân từ mà Chúa rao giảng, chứ nếu không công nhận, thì họ chẳng thử thách Chúa làm gì: Còn Thầy, Thầy dạy sao?

Chúa đã trả lời bằng một hành động và bằng một lời nói. Bằng hành động là lấy tay viết viết, vạch vạch trên đất hai lần.

Chúa viết gì? Ta không cần biết, mặc dầu đã có nhiều người đoán già đoán non Chúa viết điều này điều nọ (như thánh Jêrôme nghĩ: viết tội những người tố cáo…), nhưng cái chính là Chúa tránh trả lời, Chúa từ chối xét đoán – nghĩa Sêmít: xét đoán là lên án.

Cho đến khi họ cứ hỏi đi hỏi lại thầy nghĩ sao, thầy dạy thế nào về trường hợp này, Đức Giêsu đã trả lời một câu. Một câu mà ai cũng cảm phục là cực kỳ khôn ngoan. Vừa theo luật (công bình) vừa nhân từ (tha thứ). Luật Đnl 13,9-10; 17,7 dạy: Chính chứng nhân sẽ tra tay trước. Toàn dân sẽ ra tay sau. Vậy nếu không ai tra tay trước, không ai ném viên đá đầu tiên thì cũng sẽ chẳng có những hòn đá khác ném đi…

Vậy thì Chúa Giêsu đã dựa vào Luật Môse, chứ không lỗi luật, để trả lời họ. Ai xét mình là kẻ vô tội, thì hãy ném viên đá đầu tiên. Lời này vừa thốt ra –cũng khen là lương tâm của đám đông vẫn còn trong sáng, chưa chai lì– nên ai cũng tự xét mình và rút lui. Cảnh rút lui là một cảnh cười ra nước mắt: bởi bắt đầu là những kẻ cao niên –càng thêm tuổi càng thêm tội. Phải chăng vì kẻ cao niên thay vì càng dày tháng năm càng tăng công đức, thì ngược lại; hay là phải chăng vì kẻ cao niên thì khôn ngoan biết là không bắt bẻ được Chúa, nên lẩn đi cho sớm kẻo lại được dự một buổi lên lớp mất mặt nữa dành cho những ai tự coi mình là đạo đức, có trách nhiệm bắt người khác giữ luật: Khốn cho các ngươi, hỡi luật sĩ và biệt phái! (x. Lc 11,27-54)

Chỉ còn lại hai.

Dầu lý do nào đi nữa, thì rồi rốt cuộc sân sa chỉ còn hai người. Phiên toà chỉ còn lại hai: Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Miseria và Misericordia.

Thánh Augustino cũng mạnh dạn nói: Đó là tóm tắt toàn bộ Tin Mừng. Đấng xót thương đứng trước kẻ đáng thương. Lòng nhân hậu đối diện với điều khốn cùng. Ta đến để cứu người tội lỗi. Đó là tóm tắt sứ mạng của Chúa, là tóm tắt toàn bộ Phúc Âm.

Câu hỏi của Chúa giúp người phụ nữ có thể nói được ít là một câu, vì từ đầu đến giờ chị đã cúi gầm mặt, xấu hổ, lặng thinh.

Chúa không hỏi: Sao chị lại phạm tội? Sao chị dại dột thế? hay, Chị phạm tội trong hoàn cảnh nào? Nếu hỏi như vậy, chắc chị cũng lặng thinh. Và cũng không có đối đáp. Sân ga hai người mà vẫn độc thoại. Nên Chúa hỏi: Này chị, họ ở đâu cả rồi, không ai lên án chị sao?

Chị trả lời được ngay: không ai cả, thưa ông.

Không ai cả, vì không ai vô tội cả, cho nên chẳng ai dám ném viên đá đầu tiên.

Đây là một đoạn Tin Mừng nhiều người rất thích. Thích vì nó rất phù hợp trong việc ngăn cản kết án người khác. Nó làm cho tôi nguôi giận ngay mỗi khi có ai đó làm tôi bực mình muốn lên tiếng chửi bới. Gặp những trường hợp đáng bực bội đó mà kịp nghĩ đến lời Đức Giê-su: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi’, thì tôi lại cười xòa, và mọi cơn giận hay khuynh hướng muốn kết án bị giập tắt ngay. Tại sao? Vì chính tôi cảm thấy rằng mình cũng đã từng làm cho một ai đó bực mình, bị thiệt hại, buồn phiền, đã từng làm những điều hết sức ngu xuẩn...

Chẳng hạn, ngoài công lộ, một ai đó chạy xe ẩu làm tôi suýt bị té, khiến tôi bực bội đến nỗi buột miệng chửi toáng lên. Nhưng khi tôi chợt nghĩ rằng trước đây mình cũng đã từng làm cho một vài người suýt bị té y như vậy, thì tôi tan hết sự bực mình ngay. Nhiều khi con cái tôi làm tôi tức lộn ruột lên, khiến tôi muốn phạt chúng một trận nên thân, nhưng khi chợt nhận ra rằng tôi cũng đã từng làm cho cha mẹ tôi tức lộn ruột y như vậy, thì tự nhiên cơn giận tôi biến mất ngay.

Trong phiên toà thông thường, trước khi tuyên án, quan toà cho đòi nhân chứng, cho đòi nguyên cáo. Nếu nhân chứng không có mà nguyên cáo thì lại bỏ cuộc, hoặc bãi nại thì phiên toà dừng lại. Cũng có lúc bên nguyên bãi nại mà toà vẫn xử thì công tố viên đứng ra đóng vai nguyên cáo. Vai trò này trong sách Khải Huyền dành cho Satan: “Vì Satan kẻ tố cáo anh em của Ta, ngay đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nhờ máu của Con Chiên nay đã bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Vậy là cũng chỉ còn lại có hai. Người có tội và Đấng tha tội. Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Kẻ khốn khó bần cùng và lòng nhân hậu vô cùng. Khi nhìn nhận mình là kẻ có tội, tức người khốn khó đáng thương, ta sẽ gặp ngay Đấng xót thương, Đấng tha tội.

Có hai tội nhân vào sa mạc ăn chay đền tội trước khi được xét xem có đáng nhận vào tu viện hay không? Sau một năm thử thách, có khác biệt ở hai người: một kẻ ốm o buồn phiền, một người vui tươi khoẻ mạnh. Họ được dẫn tới bề trên để chờ sự phán quyết xem có được nhận vào tu không. Trả lời câu hỏi “làm gì trong năm qua,” người ốm o nói: Suốt năm tôi suy nghĩ về tội của tôi, tôi nghĩ tới hình phạt, tôi sợ hãi đến quên ăn mất ngủ.

Còn người vui tươi đáp: Suốt năm qua, tôi nghĩ đến ơn lành Chúa ban, tôi nghĩ tới lòng nhân hậu tha thứ của Chúa. Tôi ca tụng Ngài –lòng sám hối biến thành lời tụng ca. Anh được nhận vào tu viện.

Nhưng … người ốm o cũng được nhận vào cộng đoàn.

Đấng xót thương luôn thương xót kẻ đáng thương. Sân ga chỉ còn 2 người. Ai nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi đáng thương (miseria) liền gặp ngay lập tức Đấng nhân hậu xót thương (Misericordia). Dại gì mà không nhận đi! Phiên toà chỉ còn lại hai thôi.

 

46.Chúa Nhật 5 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin mừng Ga 8: 1-11: Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình.

Suy niệm:

Theo luật pháp Do Thái, người ta sẽ phải bị xử tử khi phạm vào ba tội này: thờ ngẫu tượng, sát nhân và ngoại tình. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, các Luật sĩ và Biệt phái dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đã bắt quả tang thì phải có hai người nam nữ phạm tội. Thế nhưng, việc trọng nam khinh nữ trong xã hội lúc bấy giờ đã khiến người nữ này như một một phương tiện họ dùng để gày bẫy kết án Chúa Giêsu.

Giờ đây, Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: nếu Người kết tội người phụ nữ này phải bị ném đá cho đến chết theo luật thì rõ ràng là những lời dạy trước nay của người sẽ bị sụp đổ: nào là đến cứu chữa kẻ tội lỗi, đồng bàn với người thu thuế và người tội lỗi để nâng đỡ họ dậy không phải là cử chỉ yêu thương và nhân từ mà chỉ là đánh bóng thương hiệu. Và việc tuyên bố tội đó đáng bị xử tử, Chúa Giêsu sẽ đối diện với việc vi phạm luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn ngược lại, nếu Chúa Giêsu bảo tha cho người phụ nữ ấy thì Người sẽ bị tố cáo là dạy cho người ta phá bỏ luật pháp Môisen, dung túng trước tội ngoại tình. Biệt phái và Luật sĩ Do Thái dùng cái bẫy hết sức tinh vi và bằng mọi thủ đoạn để kết tội Chúa Giêsu, để có trả lời đàng nào đi nữa, Người cũng sẽ bị dân chúng chống đối và kết tội. Như vậy, sau việc xử án họ dành cho người phụ nữ là việc họ đang toan tính một cuộc xử án dành cho Chúa Giêsu, mà đã có bản án sẵn đó là tử hình Người bằng hình thức đóng đinh.

Nhưng Chúa Giêsu đáp lại bằng một phản ứng rất gây ngạc nhiên. Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Sau đó tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Sự thinh lặng của Chúa Giêsu là một sự tế nhị của một Đấng Phán Xét dành cho tội nhân. Từ bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không tìm ra nội dung Chúa Giêsu viết gì trên đất. Đối với thánh Gioan, việc ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Người. “Cử chỉ không lời” của Chúa Giêsu lại là một sứ điệp muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy và cả với người phụ nữ. Chỉ trong thinh lặng, con người ta được mời gọi trở về với cõi lòng mới có thể nghe được tiếng Chúa trong lương tâm mình.

Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Đoạn Tin mừng dùng những từ rất hay: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”. Họ rụt rè xấu hổ, và nhận ra mình cũng đáng tội như ai nên mới có thể bao dung cho người khác và âm thầm rút lui.

Chúa Giêsu không nỡ lột mặt nạ tội lỗi của từng người ở chỗ công khai, thì Chúa cũng muốn họ đừng làm như thế đối với người anh chị em mình. Chúa không đưa con người ta ra xét xử dưới ánh sáng của Luật nhưng đưa người ta về lại với lương tâm. Chỉ khi đối diện với lương tâm, đối diện với lòng mình, thì mình mới có thể thay đổi được. Vì “người ta có thể lừa dối cả thế giới nhưng không thể lừa dối được chính mình”. Có những người phạm tội hình sự, trốn chui trốn nhủi, thay tên đổi họ. Nhưng mười hay hai mươi năm sau, họ cũng bước ra đầu thú vì tiếng nói lương tâm cắn rứt. Vâng, dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ. Như có lần Chúa bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (Lc 6,36-38).

Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”. Chúa Giêsu phục hồi nhân phẩm cho người phụ nữ: “Này chị”, một lời nói nhẹ nhàng, thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai: “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Quan tòa xét xử hữu hiệu không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Giống như lương y không chê sự bẩn thỉu hay nhiễm trùng của bệnh nhân, nhưng là cứu giúp người bệnh bằng mọi giá.

Sách tiên tri Isaia mời gọi: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông”. (Is 1,16-18) Vậy trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy chạy với tòa Giải tội, thú nhận sai lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết tâm sửa đổi. Lòng thương xót của Chúa sẽ phủ lấp muôn vàn tội lỗi của chúng ta và mời gọi ta đứng lên làm lại cuộc đời mới trong tình thương của Chúa để được hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.

 

47.Làm chứng cho lòng từ bi vô biên

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Vụ người đàn bà ngoại tình cho thấy thành kiến dễ đưa đến thái độ đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm hồn Đức Kitô thì quảng đại vô cùng. Người Do Thái đưa ra một thảm kịch con người để định lừa Chúa. Họ không chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ tội lỗi bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm Chúa lúng túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ thế nào cũng loại được một kẻ gây trở ngại. Chúa biết rõ dã tâm họ, Người đem một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc mỗi người phải đối diện với Thiên Chúa, chỉ có thể bỏ chạy, hoặc ăn năn trở lại. Từ một vụ tai tiếng nhỏ đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng thức một sự khoái trá xấu xa, Chúa Giêsu đổi thành một “cánh hoa đơn” tuyệt vời (nói theo kiểu Phan sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại tình đã gặp đại lượng khoan dung và có được dịp may phục hồi nhân phẩm. Bọn người ưa bắt bẻ, thích lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội lỗi nào trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, hạng đó mới không được tha thứ.

Chúng ta có thể suy đoán mấy nét về tôn nhan Đức Giêsu.

1) Trước hết, sự điềm tĩnh của Chúa. Người không do dự dù trong giây phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ nữ ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là trái với Lề Luật. Thế mà, như theo một phản ứng tự nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm chứng cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa cho thấy con mắt Thiên Chúa xuyên qua dáng vẻ bên ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm tĩnh của Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân loại và sự việc theo con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng ta chẳng cảm thấy sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ lùng nhờ tâm hồn được thanh thản sáng suốt?

2) Quyền tha tội của Chúa không những không buộc tội người đàn bà hư hỏng, Đức Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội nữa. Hiểu theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban cho người đó ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục hồi nhân phẩm cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách nhân từ, vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ sự tội. Chúa nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có tội không phải là nhân nhượng với sự dữ. Sự dữ trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu xét xử theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc quyền Messia cứu vớt kẻ có tội nhưng kết án sự tội. Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới giờ Người đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để nhân loại được tha thứ. Đàng sau Lời Chúa nói với người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ bi nhân lành nóng cháy biết chừng nào.

 

48.Can đảm nhìn mình, đừng lên án người

(Suy niệm của Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)

Nhìn vào bản thân, để nhận ra mình tốt hay xấu. Tốt đến mức nào, và xấu ra làm sao? Can đảm tự nhận ra mình, nhận ra nội tâm của mình, đó chính là sự can đảm của nghị lực, của ý chí mà Thiên Chúa ban cho ta.

Hãy nhớ rằng, dù ta có trở về, có ý chí, có nghị lực hoán cải đời sống mình, thì tất cả những điều đó đều do ơn Chúa ban. Ta là người cộng tác với ơn Chúa bằng chính nghị lực của bản thân khi quyết tâm trở về cùng Chúa.

Hôm nay, chúng ta hãy dựa vào lời Chúa Giêsu nói với những người lên án chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: “Trong các ngươi, ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”, để thấy trách nhiệm của từng người chúng ta là: Hãy can đảm nhìn vào chính bản thân mình, chứ đừng lên án người khác.

Tin Mừng kể, người ta mang đến trước Chúa một phụ nữ ngoại tình. Chiếu theo luật, họ cứ việc ném đá, không cần Chúa làm trọnh tài. Nhưng thật nham hiểm! Họ lại dẫn chị đến với Chúa không phải vì tôn trọng, kính nể, hay biết Chúa là Chúa nên nhường quyền xét xử cho Chúa, mà chỉ vì muốn thử Chúa, muốn gài bẫy Chúa, muốn xem Chúa xử lý ra sao để bắt bí Chúa. Độc ác hơn, họ muốn tìm chứng cớ, để nhân cơ hội này, hãm hại Chúa. Vì nếu Chúa tuyên bố tha thứ cho chị, Chúa sẽ bị kết tội là vi phạm lề luật, đi ngược lại, thậm chí chống lại lề luật tôn giáo. Nhưng nếu chiếu theo luật mà xét xử, Chúa sẽ phải ra lệnh ném đá chị. Như thế, Chúa chẳng hơn gì lề luật, xem ra Người cũng độc ác như những gì luật đã quy định. Cả hai trường hợp, Chúa đều rơi vào bẫy của họ.

Nhưng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không chỉ đánh gục cái mà con người gọi là khôn ngoan của mình, mà còn đánh gục cả lòng kiêu ngạo, chất chứa toàn hận thù, ganh ghét và độc ác của con người.

“Ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Có ai sạch tội đâu, nên có ai dám cầm cục đá nào mà ném vào chị đâu, dù là một cục đá nhỏ nhất. Không những không dám ném mà còn bẻ mặt. Nói theo kiểu bình dân mà các bạn trẻ bây giờ hay nói: “quê độ”. Bẻ mặt, “quê độ” đến mức phải rút lui từng người một, bắt đầu từ những người, không phải trẻ, nhưng là những cụ ông, cụ bà, những người già nhất, có bề dày của thời gian phạm tội, rồi mới đến trẻ dần. Sau cùng chẳng còn ai, dù trẻ hay già. Rõ ràng, chỉ một lời nói nhẹ nhàng, Chúa Giêsu đánh gục lòng kiêu ngạo của con người.

Chính lòng đầy kiêu ngạo, những người Dothái xúm nhau kết án chị phụ nữ kia. Bởi kiêu ngạo, họ cũng chẳng thấy mình, chẳng biết nhìn vào bản thân, vì thế chẳng bao giờ nhận ra con người thật của họ. Ai biết được trong đám người hùa nhau đòi kết án chị, có bao nhiêu kẻ phạm cái tội giống như chị, có khi còn nặng hơn, nhưng khéo che đậy, không ai phát hiện, vì thế, vẫn tỉnh bơ, lên án chị, làm như mình vô tội lắm.

Còn chúng ta, anh chị em và tôi thì sao? chắc cũng không khác gì những người Dothái khi xưa. Nhiều lần mình đã xét đoán, đã lên án anh chị em xung quanh, trong khi bản thân chẳng tốt lành gì. Lắm lúc còn lỗi nặng hơn anh chị em xung quanh.

Hãy nhìn vào chính bản thân mình trước, đừng kết án anh chị em của mình. Nhìn vào chính mình để mà ăn năn hối cải, để khám phá những lỗi lầm mà chừa bỏ và trở về với Chúa.

Nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn để cải hóa chính cuộc đời mình, là can đảm, là nghị lực, là ý chí của những người thành tâm trở về với Chúa. Chúng ta hãy luôn luôn đinh ninh trong lòng điều này: Hãy xé lòng, đừng xé áo. Hãy xét mình, đừng nhìn anh em!

Chúa nhật tuần sau sẽ là lễ Lá, bắt đầu tuần Thánh. Tin rằng, suốt mùa Chay, chúng ta đã cùng nhau ăn năn tội lỗi, thì tuần Thánh sẽ là cơ hội để chúng ta chấp nhận đi vào mầu nhiệm thánh giá của Chúa cách sốt sắng hơn, thấm thía hơn. Nhận ra Chúa chết cho mình, ta càng phải khẳng định rằng, tội lỗi là kẻ thù số một của cuộc đời mà ta phải cố sức từng giây phút để tránh né, để chiến đấu chống trả, để chữa trị và để không bao giờ tái phạm.

 

49.Khuất tất trong một vụ án "bất thường"

(Trích trong website của Tổng Giáo Phận Hà Nội)

Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa sử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.

Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân xử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án mang tính di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.

Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: "phải ném đá" thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là "tội khi quân" phản loạn và chống lại triều đình.

Còn nếu Đức Giêsu nói "không được ném đá", thì ngay lập tức Đức Giêsu lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng "đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn"(x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.

Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không chống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải thì cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm...Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là "Lương Tâm". Chính vị thẩm phán "Lương Tâm" này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.

Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" và giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: "còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!". Lời tuyên án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án Khuất tất và những bất thường của nó.

Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: "Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải." (Kn 11,23).

Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.

Nhưng sâu xa hơn cả, Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau. Đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.

Lạy Chúa, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm của mình hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.

 

50.Người phụ nữ ngoại tình - McCarthy

Suy Niệm 1. KHÔNG AI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI

Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiệc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.

Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được”. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói “Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?”.

Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng “Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi”. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?”. Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối “Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi”.

Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này”. Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.

Sau đó, người ăn trộm nói “Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ”.

Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.

Bối cảnh của Tin Mừng có thể có một kết thúc rất tồi tệ. Nếu Đức Giêsu thuận theo ý của các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ phụ nữ ngoại tình sẽ phải chết một cách bi thảm. Ai sẽ được ích lợi từ cái chết này? Thay vào đó, nhờ sự hiểu biết và lòng thương xót mà Đức Giêsu đã bày tỏ cho người phụ nữ này, mà chị ta có thể bỏ lại tội lỗi của mình phía sau, và có một bước khởi đầu mới.

Sự kiện Đức Giêsu không kết án chị ta không có nghĩa là Người coi thường tội ngoại tình. Người nhận ra rằng chị ta đã bị kết án rồi. Điều mà bây giờ chị ta cần đến đó là lòng thương xót. Cách thức Người đối xử với người phụ nữ này đã làm cho chị ta muốn đổi mới cuộc đời của mình. Điều mà Thiên Chúa mong muốn không phải là cái chết của tội nhân, nhưng Người mong muốn rằng người đó sẽ cải tạo và được sống. Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối của chúng ta, và trong lòng thương xót của Người, Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Người không chỉ giúp chúng ta bỏ lại những tội lỗi của chúng ta ở phía sau, nhưng còn rút ra được điều tốt đẹp từ các tội lỗi đó. Và điều chắc chắn là bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, vì vậy, chúng ta luôn luôn cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta biết tự kiềm chế mình, trong việc ném đá người khác.

Suy Niệm 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA

Không một người nào đáng bị phê phán và kết án cho bằng kẻ tự mạo nhận là người công chính. Điều gì liên quan đến người khác, thì người đó tạo ra những tiêu chuẩn thật cao, rất hay đòi hỏi, không chấp nhận lời xin lỗi, không đặt ra trường hợp ngoại lệ, không khoan dung cho bất cứ một sai lầm nào. Nhưng đối với những gì liên quan đến bản thân, thì họ lại có thể rất mù quáng và tha thứ tất cả.

Cũng có thể xảy ra điều trái ngược lại. Không người nào có lòng thương xót và hiểu biết đối với những người lỡ bị sa ngã, cho bằng người thực sự thánh thiện. Đây là gương mẫu của các thánh, và đặc biệt là trong cuộc đời của Đức Giêsu. Chúng ta có một ví dụ tuyệt vời về điều này, trong cách thức Người đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.

Xét về bề mặt, chúng ta chỉ nhận thấy người phụ nữ đó phạm duy nhất một tội –tội ngoại tình. Nhưng còn có những tội khác nữa, và là tội rất nặng.

Theo các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ này đã phạm một tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô nhục đáng khinh bỉ nhất –nỗi ô nhục trước công chúng. Có người thà tự tử, còn hơn bị đương đầu với nỗi ô nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những cảm xúc của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm đến chị ta, với tư cách là một con người. Chị ta chỉ được coi như một con người nào đó, mà họ có thể sử dụng để đánh bẫy Đức Giêsu. Đối với họ, chị ta giống như một con mồi đối với người câu cá. Để bắt được Chúa, người câu cá sẵn sàng hy sinh con mồi. Việc sử dụng người khác theo cách này đúng là một thủ đoạn hèn hạ.

Thế rồi thái độ của họ đối với Đức Giêsu cũng là một tội. Ở đây, họ là những con người đang theo đuổi một ý đồ đen tối. Họ chỉ có duy nhất một mục đích –loại trừ Đức Giêsu. Nói cách khác, họ đã giết người trong tư tưởng.

Tuy nhiên, bất chấp cách thức mà cách Kinh sư và người Pharisêu muốn buộc tội và hạ nhục người phụ nữ đó, và những thái độ giết người mà họ che giấu đối với chính Người, cách thức Đức Giêsu đối xử với họ vẫn có nét gì đó ân cần và tế nhị một cách tuyệt vời. Người không hề kết án họ. Người giãi bày với họ, nhưng không tuyên bố điều đó ra trước công chúng. Thậm chí Người cũng không phê phán họ. Người kêu gọi họ tự nhận xét bản thân mình. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi của họ. Người lại bắt đầu viết trên mặt đất. Người làm công việc này, để tạo cho họ có thì giờ xem xét lương tâm của họ.

Có sự trái ngược nhau trong cách cư xử của Đức Giêsu và người Pharisêu đối với người phụ nữ ngoại tình. Người khước từ việc kết án chị ta. Người sửa sai chị một cách rất tinh tế. Phương pháp của Người giống như của một bác sĩ phẫu thuật tài tình: có một sự kết hợp giữa sự lịch thiệp, tinh tế và nhẹ nhàng trong khi sử dụng con dao mổ. Sứ mạng của Người chuyên về lòng thương xót và ơn tha thứ, chứ không phải là chuyên phán xét và kết án. Người không đến nỗi phơi bày những đau khổ của ngài, nhưng là để chữa lành cho họ.

Trong bối cảnh tối tăm, Đức Giêsu đã chiếu toả ra tia sáng của lòng thương xót. Ở đây, có một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Để kết án người khác thì thật là dễ dàng. Chúng ta phải học hỏi từ gương mẫu không kết án của Đức Giêsu. Chính hành động kết án người khác lôi kéo theo tội lỗi. Chắc hẳn là chúng ta vẫn có đủ thời gian để sửa lỗi cho người khác. Nhưng để làm được điều đó, là cả một nghệ thuật. Công việc này bao gồm đồng thời cả thái độ hoàn toàn tử tế lẫn chân thành. Nhưng sự chân thành chỉ vì mục đích chân thành mà thôi, thì lại có thể mang lại tác dụng xấu.

Chúng ta phải nhìn vào chính bản thân mình. Chúng ta phải sẵn lòng cởi mở tâm hồn mình cho người khác, với cùng một tấm lòng cảm thương, mà chúng ta mong muốn được đón nhận, nếu chúng ta cũng bị lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy. Trong cuộc đời, không có gì quan trọng hơn là bày tỏ lòng thương xót đối với người đồng loại.

“Hãy cứ để cho ai không phạm tội ném hòn đá đầu tiên. Quả thật là đáng sống để có được câu nói đó” (Oscar Wilde).

MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC

Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết năm này sang năm kia, ông ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường như năm tháng trôi qua, dần dần ông trở nên khắc nghiệt và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở thành một con người cực kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một ngày nọ, trong khi ông đang ngồi trên ngai, trước khi bắt đầu một phiên toà xử án, thì chiếc vương miện mà ông đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức khắc, ông kéo nó lên, thì đồng thời nó lại tụt xuống nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần. Cuối cùng, ông nói với chiếc vương miện “Tại sao nhà ngươi cứ rơi xuống tới mắt của ta như vậy?”. Chiếc vương miện đáp lại “Tôi phải rơi xuống thôi. Chừng nào mà quyền lực mất đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho ngài thấy được tình trạng đó ra sao?”. Nói cách khác, đó là sự mù quáng. Vua Salômôn thấu hiểu ngay được sự thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu xin Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức khắc, chiếc vương miện tự ở yên trên đỉnh đầu của ông.

Khi có điều gì bất ổn, trước hết, bạn hãy nhìn vào thái độ cư xử của chính mình, để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở nơi bản thân bạn. Ngay cả sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể biến thành sự mù quáng.

 

51.Tha thứ và sửa đổi

Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh ta, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.

Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại ra trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói: Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?

Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng: Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói: Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ? Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối. Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.

Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói: Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này. Nhưng nhà vua nói "Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta".

Sau đó, người ăn trộm nói: Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.

Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.

Xem ra mọi người đều có tội ít nhiều. Thế nhưng, những kẻ có tội lại hay kết án nhau. Nhiều vụ án bất công, kẻ xử án cấu kết với kẻ có tội và xử cho tại ngoại, còn kẻ vô tội lại phải chịu tội đau đớn. Nhiều kẻ ác lợi dụng địa vị và thế lực gây khổ cho người hiền, ức hiếp người vô tội. Luật sĩ và biệt phái lợi dụng quyền hạn của mình xử án bất công. Họ bắt người thiếu phụ phạm tội ngoại tình và định ném đá còn kẻ tòng phạm thì được tại ngoại. Hơn nữa, họ còn dùng chị làm con chốt thí để gài bẫy âm mưu hại Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài: theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy , Thầy dạy sao? Nếu Ngài nói tha thì họ nói Ngài làm trái luật Môsê, nếu nói không tha thì Ngài đã làm ngược lại điều Ngài dạy: phải có lòng nhân từ, khoan dung, tha thứ. Chúa Giêsu biết rõ sự nham hiểm của họ, nhưng Ngài không kết án họ mà giúp cho họ suy nghĩ, đánh động lương tâm mọi người: Ai không có tội thì ném đá chị này trước đi. Không một ai dám cầm hòn đá nữa, họ buông tay bỏ hòn đá rơi xuống chân mình rồi lặng lẽ bỏ đi từng người một, từ người luống tuổi đến kẻ nhỏ nhất. Chỉ còn lại một người vô tội còn đứng đó nhưng không bao giờ cầm hòn đá ném vào ai. Ngài nói với chị phụ nữ: tội con đã được tha, con về bình an và đừng phạm tội nữa. Đấng tốt lành vô cùng lại không muốn kết án ai, còn những người tội lỗi lại hay muốn kết án anh em để che đậy sự nham hiểm xấu xa của mình.

Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ một điều: Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội ta phạm không có nghĩa là Người dung túng cho tội lỗi, nhưng Người muốn cho chúng ta có cơ hội đứng dậy, sửa đổi bản thân mình. Không có ai ghét tội lỗi cho bằng Thiên Chúa, nhưng Chúa không vì thế mà ghét bỏ con người tội lỗi. Ngài phân biệt rõ ràng giữa tội lỗi và con người. Tội lỗi thì đáng ghét nhưng con người thì đáng thương. Chính tội lỗi làm con người mất tự do, khổ sở, nhưng con người vì yếu đuối và thiển cận nên nhiều khi bị ma quỷ lừa gạt. Vì vậy, Chúa Giêsu đã không tiếc mạng sống mình, liều mình cứu con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết.

Ai lỡ phạm tội mà có lòng thống hối trong niềm trông cậy nơi Chúa Giêsu sẽ được tha thứ, được miễn cho hình phạt đời đời. Chúa Giêsu đã không kết án chị phụ nữ ngoại tình nhưng cứu chị thoát khỏi cái chết trong gang tấc, rồi Ngài tỏ lòng khoan dung: không ai kết án chị ư, tôi cũng vậy. Chị hãy về và "từ nay đừng phạm tội nữa". Từ nay đừng phạm tội nữa là điều quan trọng nhất. Có lẽ chị phụ nữ đã thấm thía hậu quả của tội lỗi mình. hậu quả của tội là cái chết nhục nhã đau đớn, không mấy ai thương tiếc, bởi vì những kẻ giết chị nhân danh luật mà làm. Thế nhưng vận mạng chị đã đổi khác nhờ vào ơn cứu chuộc của Con Một Thiên Chúa. Chị đã biết trông cậy và tin tưởng nơi lòng thương xót Chúa và được ơn giải cứu.

Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa Giêsu luôn đối xử nhân từ và tỏ lòng xót thương. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho kẻ biết ăn năn và ban ơn cứu độ. Vậy trong mùa chay này, chúng ta hãy chạy đến Người, thú nhận tội lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết sửa đổi. Chắc chắn Chúa sẽ không kết án nhưng nói lời tha thứ, tạo cơ hội cho chúng ta được đứng lên làm lại cuộc đời, quyết sống cuộc đời mới trong tình thương của Chúa và mai sau được hưởng hạnh phúc bên Chúa muôn đời.

 

52.Hãy đi, đừng phạm tội nữa.

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Các Kinh sư và các, đạo sĩ Do Thái cố tìm một lời tố cáo để hạ uy tín của Chúa Giêsu; và đây là một sự việc mà họ nghĩ có thể lợi dụng để đưa Ngài vào ngõ bí. Động lực của họ không phải là lòng tôn thờ Thiên Chúa, tuân giữ luật ngài, hay ước muốn sống thánh thiện, nhưng chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu. Khi có một vấn đề khó khăn liên hệ đến luật pháp xảy ra, theo thói quen, tự nhiên người ta tìm đến một vị thầy, một vị ra-bi để nhờ giải quyết. Xem Chúa Giêsu như một ra-bi, các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái đã đem đến Ngài một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình.

Theo luật pháp Do Thái, ngoại tình là một trọng tội. Các ra-bi dạy: “Người Do Thái phải bị xử tử khi phạm tội thờ hình tượng, sát nhân và ngoại tình”. Ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và phạm nhân phải chịu chết, mặc dù cách xử tử có thể khác nhau. Kinh Mishnah, bộ luật thành văn của người Do Thái quy định một phụ nữ đã hứa hôn mà phạm tội ngoại tình thì phải bị xử tử bằng cách ném đá. Theo quan điểm thuần tuý pháp lý thì các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái hoàn toàn đúng. Người phụ nữ này đáng bị ném đá chết.

Các Kinh sư và đạo sĩ này muốn Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: Nếu Chúa Giêsu bảo người đàn bà này phải bị ném đá cho chết sẽ có hai hậu quả: thứ nhất, Ngài không còn được nổi tiếng là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là bạn thân thiết của tội nhân. Thứ hai, nếu ra lệnh xử tử, Ngài sẽ đi ngược với luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn nếu Ngài bảo tha cho người đàn bà ấy thì Ngài sẽ bị tố cáo là dạy người ta phá bỏ luật pháp Môsê, là chẳng những dung tha mà còn khuyến khích người ta phạm tội ngoại tình. Đó là cách mà các Kinh sư và đạo sĩ đã gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa đã khiến cuộc tấn công này đổ ngay lên đầu họ. Trước hết Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất. Tại sao Ngài làm thế? Có thể có bốn lý do:

1. Ngài muốn trì hoãn trong chốc lát để khỏi phải quyết định vội vàng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ngài có thể vừa suy nghĩ, vừa trình vấn đề lên Thiên Chúa.

2. Có vài cổ bản Kinh Thánh thêm câu: “Như thể Ngài không nghe họ nói gì”. Có thể Chúa Giêsu cố tình buộc phải lập lại lời tố cáo, để trong khi nhắc lại, họ nhận thức được sự tàn ác của họ.

3. Trong quyển Ecce Homo, Seeley có một gợi ý rất hay: “Chúa cảm thấy xấu hổ vô cùng, Ngài không thể nào chịu được cái nhìn của đám đông, của những người buộc tội, và có lẽ ít hơn hết, của người đàn bà đó. Trong lúc bối rối và xấu hổ cực độ đó, Ngài cúi xuống dường như giấu mặt đi và bắt đầu viết trên đất. Rất có thể những cái liếc mắt đầy dục vọng của bọn Kinh sư và đạo sĩ Do Thái, cái nhìn trừng trợn và tàn bạo của họ, sự tò mò dâm đãng của đám đông, sự xấu hổ của người đàn bà, tất cả đã kết hợp lại giày vò tấm lòng vừa đau đớn, vừa thương hại của Chúa Giêsu, cho nên Ngài che giấu đôi mắt của Ngài”.

4. Nhưng điều gợi ý thú vị hơn hết phát xuất từ một số thủ bản sau này. Bản Tân Ước tiếng A-mê-ri dịch như sau: “Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ viết trên đất”. Ý ở đây là Chúa Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphain” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Chúa Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.

Dầu vậy các thầy luật sĩ và đạo sĩ vẫn một mực đòi hỏi Chúa Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời. Ngài nói đại khái như sau: “Được rồi! Ném đá đi! Nhưng phải để người nào vô tội ném đá trước!”. Chữ vô tội chẳng những có một nghĩa là không có tội, mà còn có nghĩa là không có một ước muốn tội lỗi nào cả. Chúa Giêsu nói rằng: “Phải, các ông có thể ném đá bà ta, nhưng với một điều kiện là chính các ông phải chưa bao giờ muốn làm như bà này đã làm”. Mọi người đều im lặng, và những người tố cáo lần lần rút lui.

Chúa Giêsu còn lại một mình với người đàn bà. Thánh Âu tinh đã viết: “Bây giờ chỉ còn lại một nỗi đau khổ tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại”. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: không còn ai buộc tội ngươi sao? Bà ta đáp: “thưa không”. Ngài phán: “Ta cũng không định tội ngươi. Hãy đi, làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Đoạn Kinh Thánh này cho chúng ta biết hai điều và Kinh sư và đạo sĩ Do Thái.

1. Quan niệm của họ về thẩm quyền:

Các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái là những chuyên viên về luật pháp thời đó. Các vấn đề khó khăn đều được đưa tới cho họ quyết định. Đối với họ, thẩm quyền là để phê phán, khống chế và kết tội. Họ hoàn toàn không thể thấy rằng thẩm quyền phải được xây dựng trên tình thương, thông cảm và nhằm mục đích cải hoá kẻ phạm tội. Họ quan niệm vai trò của họ là có quyền đứng trên mọi người khác, như những giám thị nghiêm khắc tìm ra từng lầm lỗi, từng hành động trái pháp luật, và thẳng tay giáng xuống những hình phạt không dung thứ. Họ chẳng bao giờ thấy họ có nhiệm vụ cứu giúp tội nhân.

Ngày nay vẫn còn nhiều người xem địa vị cầm quyền cho mình quyền kết án và nhiệm vụ trừng phạt. Họ nghĩ thẩm quyền của họ đã cho phép họ làm những người bảo vệ chân lý, được huấn luyện để trừng trị tội nhân. Nhưng thẩm quyền chân chính phải được xây dựng trên sự cảm thông. Khi thấy một tử tù đi trên đường đến nơi hành quyết George Whitefeld đã thốt ra lời bất hủ này: “Nếu không nhờ ân sủng của Chúa thì tôi cũng đi đến đó”.

Nhiệm vụ đầu tiên của người cầm quyền là cố tìm động lực thúc đẩy tội nhân phạm tội, và hoàn cảnh đưa đẩy, lôi cuốn vào tội lỗi. Không ai có quyền phê phán kẻ khác, trừ phi đã cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh của kẻ bị phê phán. Nhiệm vụ thứ hai của người cầm quyền là phải tìm cách cải hoá người làm sai. Cầm quyền mà chỉ quan tâm tới việc trừng phạt là sai lầm; cầm quyền mà khiến kẻ làm sai tuyệt vọng hay ấm ức là thất bại. Nhiệm vụ của người cầm quyền không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Người cầm quyền phải giống như lương y, chỉ có một ước ao duy nhất là cứu giúp người khác.

2. Biến cố này cho thấy cách sống động thái độ thô bạo của họ đối với dân chúng.

Họ không xem người phụ nữ này là một con người, nhưng như một đồ vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để tố cáo Chúa Giêsu. Họ dùng bà như một dụng cụ để thực hiện ý đồ riêng của mình, bà chỉ như một con chốt trong một ván cờ được dùng để tìm cách diệt trừ Chúa Giêsu. Đối với họ, bà không là gì cả, ngoại trừ là một trường hợp ngoại tình trắng trợn và có thể được dùng như một dụng cụ để thoả mãn chủ đích của họ. Họ sẵn sàng sử dụng bất cứ phương tiện nào để đạt cho được mục đích họ mong muốn. Ta thấy tâm tính của con người thường biểu lộ bằng những phương tiện họ sử dụng để đạt mục đích.

Biến cố này cho chúng ta biết nhiều về Chúa Giêsu.

1. Nguyên tắc đầu tiên Chúa là chỉ người vô tội mới được quyền đoán xét lỗi lầm của kẻ khác. Chúa đã phán: “Các ngươi đừng xét đoán ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Mt 7,1). Người đoán xét anh em mình chẳng khác gì kẻ có cả một cây đà trong mắt mình lại muốn tìm cách lấy cái rác nhỏ trong mắt người khác (x.Mt 7,3-5). Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là, chúng ta đòi hỏi kẻ khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phạm. Không thể dựa trên kiến thức để đoán xét người khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để đoán xét, nhưng không ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền đoán xét, lý do hết sức giản dị là, không một ai lành đủ để đoán xét người khác.

2. Một nguyên tắc khác không kém quan trọng đối với Chúa Giêsu là khi đối diện với người lỗi lầm, trước tiên phải có lòng thương cảm. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “Thỉnh thoảng chữa lành, thường thường làm bớt đau đớn, và luôn luôn an ủi”. Khi một bệnh nhân được đưa đến một bác sĩ, thì một lương y chẳng bao giờ ghê tởm bệnh nhân, cho dù người ấy đang mắc phải chứng bệnh đáng ghê tởm. Thật ra, sự ghê tởm, nhờm gớm thường khó tránh được, nhưng nó bị lòng ước muốn trợ giúp, chữa trị lấn át. Khi đối diện với người phạm lỗi, trước tiên chúng ta không nên có cảm nghĩ: “Đối với hạng người như vậy mình không nên tiếp tục liên hệ” nhưng phải nói “mình có thể làm gì để giúp người ấy? Mình có thể làm gì để hoà giải những hậu quả của lỗi lầm?”. Nói cách đơn giản, ta phải dành cho người khác sự thương cảm mà chúng ta vẫn mong chờ người khác dành cho, khi chúng ta lỡ sa vào cùng một hoàn cảnh ấy.

3. Điều quan trọng chúng ta phải thấu triệt là cách Chúa Giêsu đối xử với phụ nữ này. Từ việc này, chúng ta dễ rút ra bài học hoàn toàn sai lầm là Chúa Giêsu tha thứ cách nhẹ nhàng, dễ dàng như tội này chẳng có gì đáng quan tâm. Điều Ngài nói: “Lúc này Ta cũng không định tội ngươi, hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Trong một cách Chúa Giêsu đã không huỷ bỏ việc xét đoán và nói: “Đừng lo, không sao đâu!”. Điều Ngài làm là hoãn lại lời kết án, Ngài phán: “Bây giờ Ta chưa xét đoán ngươi. Hãy đi và chứng minh rằng ngươi có thể sống tốt lành hơn. Ngươi đã phạm tội, hãy đi và đừng tái phạm. Ta sẽ luôn giúp đỡ ngươi. Đến ngày tận thế Ta sẽ xét lại xem ngươi đã sống như thế nào.” Thái độ của Chúa Giêsu đến với tội nhân bao giờ cũng bao gồm một số điều sau đây:

a. Một dịp thuận tiện thứ hai.

Chúa ban cơ hội để sửa chữa lỗi lầm, như thể Người đến bảo người đàn bà ấy rằng: “Ta biết ngươi lộn xộn lắm, nhưng cuộc đời vẫn chưa chấm dứt. Bây giờ Ta cho ngươi thêm một cơ hội để chuộc lấy mình”. Trong Chúa Giêsu, có Tin Mừng về một dịp thứ hai, Ngài luôn tha thiết quan tâm đến một người, không những đã sống như thế nào, mà còn có thể trở nên như thế nào. Ngài không hề bảo những gì người ta đã làm là không quan trọng. Vi phạm luật pháp và làm người khác đau khổ luôn luôn là việc hệ trọng. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ mỗi người đều có một tương lai cũng như đã từng có một quá khứ.

b. Một sự thương cảm.

Điều khác nhau căn bản giữa Chúa Giêsu và nhóm Do Thái là họ muốn kết tội, còn Chúa Giêsu muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu truyện chúng ta sẽ thấy họ chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Chúa Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Chúa Giêsu nhìn tội nhân với sự cảm thương phát xuất từ tình yêu thương, còn các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.

c. Một niềm tin vào bản tính con người.

Nghĩ cho kỹ chúng ta phải bàng hoàng khi nghe Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: “Hãy đi, đừng phạm tội nữa”. Điều lạ lùng và phấn khởi là Chúa Giêsu tin vào con người. Đối diện với một người từng làm ác, Ngài không bảo “ngươi thật là một kẻ xấu xa, chẳng còn hy vọng gì nữa”. Ngài tin rằng với sự trợ giúp của Ngài, tội nhân có thể trở thành bậc thánh. Phương pháp của Chúa Giêsu không phải là tống cho con người, ý thức, mà họ đã có, rằng họ là tội nhân khốn nạn, nhưng ban cho họ một niềm hứng khởi để khám phá một điều mà trước đây họ chưa hề trông thấy, đó là toàn năng trở thành thánh nhân.

d. Một hàm ý cảnh cáo.

Tại đây chúng ta đối diện với sự kiện vĩnh cửu, đời đời. Ngày hôm ấy Chúa Giêsu bắt người đàn bà phải lựa chọn, hoặc trở về đường lối cũ, hoặc cùng Ngài tiến trên con đường mới. Đây là câu truyện chưa kết thúc, vì mỗi đời sống chưa kết thúc cho đến khi ra đứng hầu toà trước mặt Thiên Chúa.

 

53.Tha thứ trong thinh lặng

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình diễn ra khi Chúa Giêsu bắt đầu bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không nói rõ nội dung của bài giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào khởi đầu của bài giảng của Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn đã muốn nêu bật một cung cách rất đặc biệt trong sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài. Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Từ hàng bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung của những lời Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Ngài.

Cử chỉ không lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà Ngài muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy rằng những gì Ngài làm còn quan trọng hơn là những lời Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ ngôn. Có những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ ngôn bằng hành động. Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó Ngài muốn nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng và nghe được tiếng nói của Chúa trong lương tâm. Đây là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy. Người ta ồn ào và hung hãn bao nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình hơn. Trước đó, người ta càng mạnh bạo để kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.

Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Có thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người khác. Có thể đó là bài học mà đám đông dân chúng đã tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình ngày hôm đó.

Mọi người đều rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Họ rút lui trong thinh lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông dân chúng ra về trong thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung của bài giảng ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa Giêsu không chỉ tha thứ và giải cứu cho người đàn bà ngoại tình. Ngài cũng đã loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài cũng bị điệu ra trước tòa án để xét xử. Nhưng như Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong phiên tòa xử người đàn bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài. Và tuyệt đỉnh của sự thinh lặng ấy là cử chỉ tha thứ của Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh lặng. Không phải chỉ có ấn phẩm mới đáng kể, im lặng cũng là nói lên một cách phát biểu, đó là im lặng của cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh tâm, im lặng của quá trình tăng trưởng, im lặng của thận trọng và nhất là im lặng của tha thứ.

Ngày nay, có quá nhiều những lời nói suông. Trong nền văn minh tràn đầy những ấn phẩm và trào ứa thông tin, những thứ tiếng ồn ào phát ra từ các phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại và chính trị. Ngay cả tình yêu cũng được diễn tả bằng những lời nói suông.

Trong những ngày này, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng của cõi lòng và lắng nghe sự thinh lặng của Chúa Giêsu trên thập giá. Từ trên thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.

 

54.Lòng Chúa khoan dung

Trong kinh Tin kính, chúng ta hằng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Phải chăng đó là một sự tưởng tượng, một giấc mơ, hay một sự thật? Kinh nghiệm cho thấy: Nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Phải chăng chúng ta cứ mãi mãi vùng vẫy trong chốn bùn nhơ tội lỗi, không có cơ may trỗi dậy để được thanh tẩy?

Đoạn Tin mừng hôm nay đem lại cho chúng ta niềm xác tín: Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta vì Ngài là một người cha nhân từ và giàu lòng thương xót khoan dung. Mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được Ngài xoá bỏ, nếu chúng ta biết trở về với Ngài.

Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy khi nói về sự tha thứ tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng những ngôn từ thật phong phú và những hình ảnh thật cảm động. Thực vậy, Ngài đã xuống trần gian để làm gì, nếu không phải là để giải phóng con người khỏi sự trói buộc của tội lỗi.

Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, lên đường tìm kiếm con chiên bị là mất và khi tìm thấy, liền vác nó lên vai, đem về nhà, mời bạn hữu đến chia vui với mình. Ngài không phải chỉ nhắm mắt làm ngơ trước những tội lỗi của chúng ta, mà hơn thế nữa, Ngài còn xoá bỏ và tha thứ, như lời Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc đã bị đánh rơi và Ngài nhấn mạnh: Không phải những người khoẻ mạnh, mà là những kẻ đau yếu mới đến thầy thuốc. Ngài không đến để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hang đàng, để khi cậu trở về thì liền tha thứ mở tiệc ăn mừng.

Ngài không phải chỉ giảng dạy về lòng nhân hậu khoan dung, mà hơn thế nữa, Ngài còn biểu lộ lòng nhân hậu khoan dung ấy qua những hành động cụ thể. Ngài đã tha thứ cho Mađalêna, người đàn bà tội lỗi. Ngài đã tha thứ cho Phêrô, người môn đệ đã chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá. Và hôm nay, Ngài đã tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, mà chiếu theo luật Do Thái, thì sẽ bị ném đá cho chết.

Dựa vào những sự kiện trên, chúng ta có thể vui mừng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Kể từ nay, chúng ta không còn phải mang gánh nặng tội lỗi trong tâm hồn, nếu chúng ta biết chạy đến nơi toà cáo giải, bí tích của lòng nhân từ và khoan dung. Vật bí tích giải tội là gì?

Tôi xin thưa, bí tích giải tội trước hết là sự quét tước lau chùi cho sạch sẽ. Thực vậy, để dọn dẹp một căn phòng, chúng ta thường phải mở cửa, quét dọn mọi xó góc và lau sạch mọi bụi bẩn. Sau đó, chúng ta kê lại bàn ghế, sắp xếp lại mọi đồ đạc và rồi chúng ta sẽ có được một bầu khí trong lành và ấm cúng. Thánh Bernađô đã coi những giọt nước mắt của cõi lòng sám hối ăn năn là như một bí tích rửa tội. Chúng ta được rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi bởi những giọt nước mắt ấy. Và tôi có thể đưa ra một so sánh: Kẻ chạy trốn tiếng nói lương tâm cũng giống như một người đàn bà già. Đúng thế, thuở trước khi còn trẻ người ấy thích soi gương để chiêm ngắm nhan sắc của mình, nhưng từ khi khám phá ra những nếp nhăn trên khuôn mặt, người ấy đã đập bể tấm gương để không còn nhìn vào đó nữa. Cũng vậy, kẻ có tội không bao giờ muốn tự vấn lương tâm, không bao giờ muốn nhìn vào tận đáy tâm hồn mình vì hắn sẽ khám phá ra những vết nhơ của tội lỗi. Hắn không muốn đi xưng tội, cũng giống như người đàn bà già không muốn nhìn thấy khuôn mặt mình trong gương.

Ngoài ra, bí tích giải tội còn là một sự thức tỉnh, kéo chúng ta ra khỏi cơn mộng dữ, giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng tội lỗi và bảo đảm cho chúng ta sự sống ơn sủng. Thực vậy, bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập vào thế gian. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Sự chết được truyền thông cho mọi người, bởi vì tất cả chúng ta đều phạm tội. Nếu tội lỗi là nguồn gốc sinh ra cái chết, thì việc tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta sự sống ân sủng. Nếu tội lỗi sinh ra lo âu và buồn phiền, thì sự tha thứ sẽ đem lại bình an và hạnh phúc. Nếu tội lỗi là những con sâu cắn hại lá cây, thì sự tha thứ sẽ là những giọt sương mai làm cho cây cối xanh tươi.

Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình của thân phận con người yếu đuối. Nhưng sám hối ăn năn mới là chuyện đáng kể do lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã vấp phạm, đó là bi kịch của đời sống con người. Nhưng tất cả chúng ta cũng đều có thể trỗi dậy, đó là niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn sám hối, chúng ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế lực: Nếu chúng ta xưng thú tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha thứ cho chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những bồn chồn lo lắng. Hãy đến quì bên toà cái giải để được Chúa tha thứ. Tâm hồn chúng ta là một tấm gương phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, đừng làm cho nó bị lu mờ. Tâm hồn chúng ta là một chiếc bình quí giá, đừng làm cho nó bị vỡ ra thành từng mảnh. Tâm hồn chúng ta là một cây đàn, đừng làm cho nó trở thành ngang cung. Tâm hồn chúng ta là một cánh hoa tươi xinh, đừng vùi dập nó trong đống bùn nhơ. Tâm hồn chúng ta là một ngọn lửa, đừng dập tắt nó.

Đavít đã khóc thương cho tội lỗi của mình và đã được Chúa tha thứ. Mađalêna đã quỳ gối lấy tóc lau chân Chúa và đã được Chúa tha thứ. Phêrô đã đấm ngực ăn năn và đã được Chúa tha thứ. Chúng ta cũng vậy, với tâm tình sám hối, chúng ta hãy chạy đến nơi toà cáo giải để được Chúa thứ tha, bởi vì Chúa chẳng bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.

home Mục lục Lưu trữ