Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1376108

QUÌ GỐI XUỐNG

QUÌ GỐI XUỐNG– Lm Vũ Minh Nghiễm

Cũng như Chúa nhật trước, Chúa nhật hôm nay Đức Kitô dạy chúng ta phải biết cầu nguyện như thế nào. Chúa Nhật trước, Ngài dạy chúng ta phải noi gương bà góa nghèo kia mà cầu nguyện cho kiên trì. Hôm nay Ngài dạy chúng ta phải noi gương người thu thuế mà cầu nguyện cho khiêm nhượng.

Chúng ta biết rằng người Do thái cầu nguyện một ngày ba lần: 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, và 3 giờ chiều. Lời cầu nguyện được coi là hiệu nghiệm hơn hết là lời cầu nguyện dâng trong Đền thờ.

Hôm nay Chúa dạy dưới hình thức dụ ngôn. Có hai người Do thái cùng lên Đền thờ cầu nguyện. Một người là biệt phái (mà chúng ta quen gọi là Pharisiêu). Người kia là người thu thuế (chúng ta thường gọi là Publicanô). Nhóm Pharisiêu được gọi là biệt phái, vì họ tự đứng biệt lập ra thành một phái riêng. Họ là hạng người được coi là đáng kính, đạo đức. Trong dân chúng, họ là lớp người ưu tú. Họ giữ luật Chúa rất tỉ mỉ. Nhưng do chỗ giữ luật tỉ mỉ, và được kẻ khác coi là thánh thiện, mà có những người trong nhóm, họ sinh ra tự cao tự đại đối với những người chung quanh.

Trong dụ ngôn hôm nay, một người biệt phái như vậy lên đền thờ cầu nguyện cùng một trật với một người thu thuế. Hạng người sau nầy bị dân chúng coi như ngược lại với người biệt phái. Người biệt phái được coi là thánh thiện, thì người thu thuế bị coi là tội lỗi.

Hồi đó, dân Do thái bị người Rôma đô hộ. Chính phủ độ hộ không tự tổ chức thu thuế lấy, như chúng ta thấy ở Hoa kỳ chẳng hạn. Nhưng họ cho đấu thầu. Đã thầu thì ai thầu cao nhứt, sẽ được độc quyền thu thuế. Dĩ nhiên hạng người thu thuế nầy bị dân chúng gớm ghét và coi là hạng người tội lỗi. Tội lỗi phép công bằng. Tội bóc lột, làm giàu trên xương máu đồng bào. Tội làm tay sai cho chính quyền ngoại bang Rôma.

Vậy hôm nay có hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một là biệt phái, một là thu thuế.

Người biệt phái đứng thẳng người lên cầu nguyện rằng:

“Lạy Chúa con cám tạ Chúa, vì con không giống như những người khác, gian tham, bất công, ngoại tình. Không giống như tên thu thuế đứng kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng cúng vào đền thờ một phần mười tất cả các hoa lợi của con.”

Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một năm một lần trong ngày lễ Đền tội. Nhưng có người đạo đức ăn chay trường, mỗi tuần hai lần, trong ngày thứ Hai và ngày thứ Năm. Chúng ta biết rằng hai ngày nầy là hai ngày chợ tại Yê-ru-sa-lem. Nhiều nơi, như tại các vùng quê bên Việt Nam ta, không có những nơi bán thức phẩm thường xuyên, không có các siêu thị sẵn sàng mỗi ngày. Dân chúng chỉ nhóm chợ một vài ngày trong tuần. Một vài ngày trong tuần, họ mang rau cỏ, trái trăng, thịt cá, lúa gạo... ra chợ bán. Và ngày đó mới ngày chợ.

Ở Yêrusalem, hai ngày mà người Do thái đạo đức quen ăn chay cũng là hai ngày chợ. Dân chúng lên nhóm chợ chung quanh đền thờ rất đông. Những người ăn chay lên đó, đi qua giữa đám đông, mặt mày xanh xao tiều tụy, áo quần lếch thếch. Ai cũng phải chú ý đến họ. Và trong số nầy, có ông biệt phái của dụ ngôn hôm nay.

Người Do thái phải dâng vào đền thờ một phần mười hoa lợi ruộng đất của mình. (Tl 14,22). Ông biệt phái hôm nay thì dâng vào đền thờ một phần mười về tất cả mọi thứ hoa lợi, dầu những thứ hoa lợi Luật không buộc đóng thuế.

Ông quả là tốt lành, đại lượng. Ông chỉ có cái tội nầy là tự phụ, khoe khoang và khinh người. Ông lên đền thờ nói là cầu nguyện, nhưng không phải cầu nguyện cùng Chúa, mà cầu nguyện với chính mình. Nói cách khác, không phải để chúc tụng ngợi khen Chúa, mà để chúc tung ngợi khen mình.

“Lạy Chúa, con không tham lam, bất công, ngoại tình. Con không như tên tội lỗi thu thuế kia đâu. Con ăn chay mỗi tuần những hai lần. Con dâng vào đền thờ một phần mười tất cả mọi thứ hoa lợi của con.”

Rõ ràng ông không van xin ơn gì cùng Chúa cả. Ông chỉ chúc tụng mình. Ông lên đền thờ là để dùng nhà Chúa làm diễn đàn, tự tuyên dương công trạng. Ông tự cho mình là người thánh thiện, tự trưng bày công nghiệp và nhân đức của mình, với mục đích là thóa mạ, phỉ báng, lên án người cùng lên đền thờ cầu nguyện với mình.

Ông biệt phái hôm nay giống hệt thầy Rabbi Simeon ben Jocai. Có lần thầy đã tuyên bố: “Nếu trên thế giới có hai người công chính, thì đó là tôi và con tôi. Nếu chỉ có một người công chính, thì người đó chính là tôi.”

Có người biệt phái nào dám khoe khoang trước bàn thờ Chúa như ông biệt phái hôm nay chăng? Dẫu sao Đức Giêsu đã muốn làm nỗi bật giáo huấn của Ngài để chúng ta khó quên dễ nhớ. Lời cầu nguyện chỉ dâng lên cho Chúa, không dâng lên cho ai khác. Lại càng không được dâng lên cho chính mình, như kiểu ông biệt phái hôm nay. Đó là tôn thờ mình. Kẻ tôn thờ mình thì phạm tội kiêu căng, trùm của Bảy mối tội. Đã phạm tội kiêu căng thì lời cầu nguyện ấy không thể đẹp lòng Chúa được.

Còn người thu thuế, nhân vật thứ hai trong bài dụ ngôn hôm nay, thì sao? Anh đứng cuối cửa đền thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực, thưa lên cùng Chúa:

“Lạy Chúa, xin thương con là đứa tội lỗi.”

Anh tự biết mình là người tội lỗi, khốn nạn. Nhưng anh cũng biết Thiên Chúa là Đấng nhân lành, đầy tình thương xót. Và anh kêu cầu lòng thương xót Ngài thứ tha cho anh. Anh không dùng ngôn từ quyền thế của người cậy có công lênh, nhưng dùng lời lẽ khiêm nhu của người muốn cải thiện.

Và Đức Yêsu đã kết luận rằng:

“Khi về nhà, người thu thuế trở nên công chính. Còn người biệt phái thì trước sao sau vậy?”

Hơn nữa, ông mắc thêm tội. Tội tôn thờ chính mình. Tội kiêu căng, khinh miệt kẻ khác ngay trước mặt Thiên Chúa.

Bài dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta những điều sau đây về sự cầu nguyện.

Trước hết, khi cầu nguyện, đối tượng tôi phải so sánh là chính Thiên Chúa, chứ không phải ai khác, hoặc chính mình tôi. Nếu thay vì nhìn vào chính mình, tôi nhìn vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành cao cả vô cùng, tôi mới thấy mình thấp kém, hèn hạ, tội lỗi như thế nào.

Một đấng thánh vĩ đại như Thánh Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp kém nhất (1 Cor 15,9), vì “yếu đuối” (2 Cor 12,9) đã bắt đạo và ngạo ngược(1Tm 1,13; Gl 1,13). Thánh Vincente Phaolô, một ngôi sao chói lọi trong công việc bái ái từ thiện, mà tự gọi mình là người “thấp hèn nhứt trên thế gian.”

Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phú thc vào Chúa Quang phòng, đại lưỡng vô song, khôn ngoan vô cùng.

Thđến, khi cầu nguyện, tôi không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Đức Chúa Trời đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho.

Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống, đi bằng đầu gối, mới vào được.

Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói:

- Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chẳng thấy gì là đẹp cả.

Một người quì sau lưng ông, nói:

- Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp.

Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vđẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.

Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, tôi cũng phải quì gối xuống mà van xin.

 

17. Xin thương xót con

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Khi Đức Giêsu đưa ra kết luận: ‘người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không’, những người nghe Ngài hẳn đã ngỡ ngàng, chưng hửng.

Ông Pharisêu là mẫu mực trong việc giữ Luật. Những điều xấu xa tiêu cực, ông không làm. Những điều Luật đòi hỏi, ông còn làm hơn thế. Lời cầu nguyện của ông hết sức tự phát và chân thành, một lời nguyện mà nhiều người đạo đức thèm muốn. Tại sao Thiên Chúa lại không nhìn đến ông?

Tại sao Thiên Chúa lại thương người thu thuế tội lỗi, dù anh ta nào đã hứa bỏ cái nghề tồi tệ đó; nào đã chịu đền bù bao nhũng lạm mình gây ra?

Tình thương của Thiên Chúa thì nghịch lý, nhưng không vô lý.

Chúng ta cần nhìn ông pharisêu cầu nguyện.

Ông đứng tách biệt với những người khác trong Đền Thờ. Mắt ông vẫn thấy anh thu thuế đứng tuốt phía dưới.

Chúng ta cần nghe lời ông cầu nguyện.

Ông muốn dâng lên Thiên Chúa một lời tạ ơn, nhưng tạ ơn lại trở thành so sánh mình với người khác, và đầy ứ cái tôi tự mãn, tự hào: tôi không như bao kẻ khác, tôi ăn chay, tôi nộp thuế...

Cái tôi của ông thật tuyệt vời, hơn hẳn người khác. Cái tôi của ông quá ngon lành, bảo đảm, nên ông không cần xin Chúa thêm điều gì. Ông chỉ khoe Chúa những thành tích của ông, hay đúng hơn ông đang ngắm mình độc thoại. Đời sống của ông pharisêu đầy đặn quá, tròn trịa quá đến nỗi Thiên Chúa trở nên thừa. Ngài chẳng tìm ra một kẽ hở nào để vào đời ông nên Ngài chịu đứng ngoài.

Ngược lại anh thu thuế thì run rẩy xấu hổ, chẳng dám ngước nhìn Chúa, chẳng dám lại gần tha nhân. Anh thấy rõ các tội của mình, và thấy mình bị kẹt cứng, tự sức không sao tháo gỡ. Anh chỉ còn biết cậy dựa và phó thác cho Tình thương.

Người thu thuế thật là con người tội lỗi, nhưng tội của anh đã trở nên một kẽ hở để Thiên Chúa có thể đi vào đời anh. Chính sự trống rỗng của anh đã thành khoảng trống cho Thiên Chúa.

Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.

Tiếc là ông pharisêu chưa nhận ra khuyết điểm của mình. Ông về nhà mà không biết mình chẳng được Chúaưu ái. Ông về nhà mà vẫn khép kín tự mãn như lúc lên đền.

Làm sao tôi có được sự trung tín của người pharisêu và sự khiêm hạ của người thu thuế? Làm sao tôi tận dụng mọi năng lực Chúa ban mà vẫn hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu? Ước gì đời tôi có nhiều kẽ hở để Chúa vào.

Gợi Ý Chia S

Càng thánh thiện thì càng thấy mình cần đến Thiên Chúa. Khi nào trong cuộc sống bạn thấy mình cần Chúa hơn cả?

Chúng ta vẫn thường ngấm ngầm so sánh mình với người khác như ông pharisêu. Chúng ta rất dễ rơi vào thái độ tự hào. Làm sao để thắng được tính xấu này?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, những tội chúng con phạm vừa mang dáng dấp của tội Ađam vừa mang dáng dấp của tội Cain.

Tội nào cũng là khép lại trên chính mình, khước từ Thiên Chúa và quay lưng trước anh em. Tội nào cũng là lấy mình làm trung tâm và qui tất cả về mình.

Xin cho chúng con đừng nhìn ngắm công trạng của mình, nhưng nhìn vào những nén bạc Cha giao mà chúng con chưa đầu tư sinh lợi cho đủ.

Xin cho chúng con đừng tự mãn nhìn về quá khứ, nhưng hướng đến tương lai với bao điều cần thực hiện.

Lạy Cha, xin cho chúng con đừng lấy đức hạnh của mình làm thước đo người khác, đừng cứng cỏi lạnh lùng khi đánh giá tha nhân.

Ước gì chúng con có quả tim như Con Cha, hiền lành và khiêm nhượng, để chúng con có thể mở ra đến vô cùng trước những đòi hỏi của Cha và nhu cầu của anh em. Amen.

 

18. Con mắt – Lm. Vũ Đình Tường

Mắt là đèn soi cho chúng ta. Mắt giúp quan sát, nhìn sự việc. Có người ví von mắt là cửa sổ của tâm hồn. Rất nhiều trường hợp hai người cùng quan sát một sự việc, cùng dùng mắt kết quả nhìn khác nhau. Trường hợp hai người nghe cùng câu chuyện do một người kể, kết quả nhận định khác nhau. Tai, mắt hay ngũ quan không nắm vai trò chủ động trong mọi quyết định. Mắt thấy, tai nghe là bước mở đường cho bước kế tiếp đưa đến phán đoán. Khi phán đoán tai mắt đóng góp bao nhiêu phần trăm?

NHÌN KHÁC NHAU

Điều chắc chắn hầu như mọi biến cố quan trọng trong đời mỗi người nhìn một cách khác nhau, nhận định sự việc khác nhau mặc dù họ nhìn chung một sự kiện, nghe cùng một câu chuyện, do một người kể nhưng phán đoán mỗi người mỗi khác. Mắt giúp quan sát, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ rõ bên ngoài, không thấu suốt nội tình, bên trong. Phán đoán dựa vào quan sát bên ngoài để đoán những gì bên trong đưa đến kết quả có thể là đúng cũng có thể sai. Bởi vì đoán nên không thể quả quyết. Khi quả quyết thì không còn đoán. Nếu đoán thì không thể xác quyết vì có thể còn những chuẩn đoán chính xác hơn, hợp lí hơn.

XÉT MÌNH

Phúc âm đưa ra trường hợp hai người cầu nguyện trong đền thờ. Một được Chúa nhận lời; một không. Cả hai cùng xét mình, nhìn lại cách ăn, nết ở trong thời gian qua. Trong thánh điện kết quả xét mình của hai người đối nghịch nhau.

Một đứng thẳng, ưỡn ngực cầu nguyện; một cúi mặt, đấm ngực ăn năn.

Một đứng gần gian cung thánh; một xa tít cuối đền thờ.

Một tự hào ăn ngay, ở lành; một hối hận vì tội đã phạm.

Một vỗ ngực tự xưng công chính giữ trọn luật; một đấm ngực ăn năn xin Chúa xót thương.

Cả hai đều nhìn vào chính mình, nhận xét về chính mình, cầu nguyện trong đền thờ. Người tự nhận là tội nhân được tôn vinh; người tự tôn vinh bị hạ xuống.

HAI NGỘ NHẬN

Tự nhận mình công chính là một ngộ nhận lớn, bắt nguồn từ kiêu hãnh, tự phụ. Thực thi đức ái và giữ trọn luật là nhiệm vụ chung mọi thành phần trong xã hội, không trừ ai. Làm xong, làm tốt nhiệm vụ được coi là công dân tốt. Trong Giáo Hội họ là người đầy tớ khôn ngoan và trung thành. Hoàn thành nhiệm vụ không biến ta thành công chính. Ta trở nên công chính nhờ Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ Phúc âm hôm nay ta được công chính hoá nhờ lòng thương xót Chúa.

‘Lậy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.

Nhờ thành tâm thống hối, đấm ngực ăn năn sấp mình trước Thánh Nhan xin chúa thương xót để trở nên công chính. Như thế công chính hoá không phải do tài năng con người tự kiếm mà là đặc ân Chúa ban do khiêm nhường, thống hối, thành tâm và tạ ơn.

Khiêm nhường là con đường mở thêm lối đi dẫn ta đến cùng Chúa, đưa ta tới tha nhân. Kêu ngạo là con đường một chiều, không ngã rẽ. Đường dài mấy cũng có cuối đường. Như thế kêu ngạo là con đường cụt, đường dẫn đến sự chết. Người đi đường cụt bị tắc nghẽn nơi cuối đường. Không lối thoát.

Ngộ nhận thứ hai của ngưòi tự nhận công chính là soi mói, buôn điều. Không biết đang đi trên đường cụt. Đến khi nhận ra đã cuối ngày. Kêu ngạo, tự phụ che mất đường công chính. Tôn mình lên cao đến nỗi chỉ nhìn thấy người, còn mình thì không. Dùng quá nhiều thời gian kháo chuyện thiên hạ. Hãy nghe anh ta nói: ‘con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia’.

Trong lời cầu anh nhắc đến tạ ơn. Tạ ơn chân thành luôn đi với khiêm tốn. Thiếu lòng thành việc tạ ơn chỉ là môi mép. Người tự phụ không cần Chúa vì tin vào khả năng mình.

Nhắc đến việc tốt lành: ăn chay mỗi tuần hai lần và công đức mười phần trăm mức thu nhập.

Không thấy anh nhắc đến việc thương người nghèo, cho kẻ đói ăn, khát uống. Không nhắc đến thăm người đau yếu bệnh tật. Những người này không có trong đời của anh có lẽ vì ‘con không như bao kẻ khác’

PHÚC HỌA

Ngộ nhận xảy ra cho mọi thời đại. Thiếu cẩn trọng phúc biến ra hoạ, rơi vào ngộ nhận.

Thay vì đi xét mình, xét tội mình thì kháo tội người, buôn điều, chỉ trích, phê bình người khác. Tưởng như thế là giúp người, làm đẹp lòng Chúa. Lỗi lầm dễ mắc phải, xét tội người khác, cáo lỗi người khác tưởng làm như thế là làm phúc, giúp người trở về đường ngay nẻo chính.

Chê người là tự phong cho mình hay hơn.

Nói xấu người là tự cho mình tốt hơn.

Chỉ trích người là tự nhận mình đúng, người sai.

Làm thế là tự hại chính mình, đang chích cho mình liều thuốc Pharisiêu.

 

19. Hai hạng người cầu nguyện – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe có thể không cần một câu chuyện hướng dẫn nào khác, nhưng tự nó gợi ý để chúng ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.

Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.

Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.

Bài dụ ngôn hôm nay nêu bật lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, anh không nhìn sang người khác, không dám so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm của mình rồi khiêm tốn chấp nhận.

Chúng ta cũng vậy, mỗi lần chúng ta đặt mình trước nhan Chúa, khi cầu nguyện chúng ta hãy ý thức rằng, Thiên Chúa đã biết rõ cả rồi, đã biết trọn cả con người của chúng ta là như thế nào rồi, nên không cần che giấu tránh né. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng nhân từ và hay thương xót, nên chúng ta không quá lo sợ hay tuyệt vọng vì những bất toàn ấy mà hãy vươn lên cùng Chúa, xin Chúa chữa lành: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.

Trong lời cầu nguyện của người thu thuế, chúng ta còn có thể khám phá ra một yếu tố quan trọng khác nữa, khi cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi, là kẻ đã xúc phạm đến Chúa”. Người thu thuế kia tha thiết muốn kêu lên cùng Chúa, muốn hưởng nhờ lòng nhân từ của Ngài để tiến mãi trên con đường thiêng liêng, sống mối tương quan với Chúa mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

Người Pharisêu không có được thái độ này, ông tự mãn với chính mình và ông nghĩ là do công trạng của mình tạo lập ra, như vậy lời cầu nguyện của ông thật ra không phải là lời cầu nguyện mà chỉ là những lời khoe khoang đi kèm với thái độ khinh dể kẻ khác.

Ước chi trong cuộc sống đức tin của mỗi người chúng ta, chúng ta đừng nhìn sang kẻ khác mà so sánh. Bởi vì chúng ta sẽ bị cám dỗ so sánh mình với những bất toàn của anh chị em và nâng mình lên khinh dể kẻ khác. Chúng ta hãy so sánh mình với chính mẫu gương trọn lành của Chúa để nhận biết chúng ta còn nhiều điều phải canh tân để tiến lên mãi: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.

Ước chi lời cầu nguyện này trở thành lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta không những hôm nay mà trong mọi ngày của đời sống chúng ta, để chúng ta nhận lãnh ơn thương xót của Chúa và tiến lên mãi trong tình thương của Ngài. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

 

20. Hai hạng người cầu nguyện

Dụ ngôn về “Hai hạng người cầu nguyện” của bài Tin Mừng hôm nay phê phán những người biệt phái tự hào mình là người công chính và khinh chê người khác. Người đó đứng riêng biệt một mình để cầu nguyện trong đền thờ, cử chỉ này nói lên phần nào thái độ tự hào và khinh dể người khác. Đứng riêng ra để khẳng định mình là mình, mình có đủ bản lãnh. Cung cách này được xác nhận thêm qua lời cầu nguyện của ông: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác…”. Coi mình không giống như kẻ khác là một vinh dự, một ơn phúc, một mục tiêu để phấn đấu, để dành cho được. Vì thế, khi được như vậy người ta không thể không sung sướng và tạ ơn, qua đó chứng minh sự khác biệt của mình với đại chúng.

Để chứng minh, người biệt phái kể ra một số khác biệt của mình với đại chúng, nhất là không giống như người thu thuế vốn nổi bật vì các nết xấu, hay cụ thể hơn nữa là ăn chay một tuần hai lần và dâng cúng cho đền thờ 1/10 hoa lợi.

Tóm lại, sống công chính là thi hành các giới răn của Chúa trong mười điều răn như không tham lam, không ngoại tình và tuân giữ các luật lệ của Môisê như ăn chay, dâng cúng vào đền thờ mà không cần biết tâm tình bên trong cần có. Giữ được như vậy, họ cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác. Vơ đũa cả nắm, họ liệt kê tất cả mọi người vào hạng tội lỗi. Như thế có thể nói đứng riêng một mình là tư thế phản ảnh đích xác sự thánh thiện của người Pharisêu, nó cũng phản ánh quan niệm cũ về sự thánh thiện.

Nhưng trớ trêu thay, số người cho mình là công chính lại không được Chúa nhận cho là người công chính. Như vậy, vấn đề không phải là làm thế nào để được nên công chính cho bằng là phải hiểu thế nào là được nên công chính. Vì làm như thế cốt để cho ai cũng tưởng họ là nên công chính nhưng rốt cuộc là không phải công chính. Và ngược lại, kẻ mà ai cũng tưởng là không công chính thì họ lại được kể là công chính, được cứu độ. Được ơn công chính là ơn nhưng không của Thiên Chúa, như Ngài đã quyết định cho người thu thuế trong dụ ngôn được kể trên là người công chính.

Thiên Chúa không căn cứ trên thành tích nào của ta, và ơn cứu độ chẳng những không làm xa cách loài người mà là đưa ta đến chỗ kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Những việc ta làm không phải là nguyên nhân khiến ta được cứu độ, được nên công chính, nhưng là chính Thiên Chúa ban cho ta.

 

home Mục lục Lưu trữ