Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1371161

QUY LUẬT SỰ SỐNG

Quy luật sự sống.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?

Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.

Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.

Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.

Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.

Thưa anh chị em,

Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.

Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…

Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.

Anh chị em thân mến,

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.

 

 

 

 

 

41. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu.

(Suy niệm của Noel Quesson)

 

“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.

Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.

Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.

Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.

Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.

Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.

Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.

Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.

 

 

 

 

 

42. Vinh quang nơi Thập Giá

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

 

DẪN NHẬP.

Con người có nhu cầu cần phải yêu và được yêu, chỉ trừ khi chết mới hết yêu. Sống mà được yêu thương là hạnh phúc. Con người mà được Thiên Chúa yêu thương thì còn hạnh phúc nào bằng. Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và loài người là một giao ước tình yêu, nhưng nhiều lần loài người đã phá vỡ giao ước ấy, nghĩa là chối bỏ, không chấp nhận tình yêu ấy nữa. Nhưng Thiên Chúa vẫn không nản lòng, Ngài đã nhờ các tiên tri loan báo cho loài người biết là Ngài sẽ ký kết một giao ước mới và vĩnh cửu. Và để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn giao ước được ký trong máu Con của Ngài đổ ra trên thập giá. Chính Đức Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của kẻ chết vì người mình yêu”. Ngài đã chết cho chúng ta. Giờ khổ nạn của Chúa là giờ của tình yêu mà Ngài đã loan báo trước, đồng thời cũng là giờ Ngài được tôn vinh.

Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta phải thi hành giao ước tình yêu mà Chúa đã ký kết với chúng ta trong máu Con của Ngài trên thập giá. Đáp lại tình yêu cao vời ấy, chúng ta hãy đón nhận “giờ” của Chúa là giờ của ta chúng ta, nghĩa là chúng ta sẵn sàng đón nhận những gian nan thử thách, thi hành thánh ý Chúa, chu toàn giữ lề luật Chúa như lời Chúa nói qua miệng tiên tri: “Ta sẽ đặt lề luật Ta trong lòng chúng, Ta sẽ ghi khắc luật đó vào trái tim chúng”.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Gr 31,31-34.

Khi dân Do thái thoát ách nô lệ của Ai cập, Thiên Chúa đã ký kết với dân một Giao ước ở chân núi Sinai, qua trung gian ông Maisen. Theo đó, Thiên Chúa sẽ là Chúa của họ và bảo vệ họ, còn họ là dân riêng của Ngài, họ phải trung thành phụng sự Ngài là Chúa tể duy nhất. Giao ước đó đã được khắc lên hai bia đá.

Nhưng qua thời gian, dân Chúa đã phản bội Ngài, phá bỏ Giao ước đã ký kết, và kết quả là họ bị quân địch đến tàn phá đất nước, dân chúng phải đi lưu đầy ở Babylon.

Tuy thế, Tiên tri Giêrêmia loan báo cho họ biết Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới với dân Ngài. Giao ước đó sẽ không còn ghi trên bia đá nữa, mà khắc ghi ngay trong lòng họ. Giao ước này là giao ước tình yêu. Để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn cho giao ước này được ký kết trong máu của Con Ngài đổ ra trên thập giá. Giao ước mới và vĩnh cửu này nói lên tình thương lớn lao và sự tha thứ không bờ bến của Ngài: “Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lầm lỗi của chúng nữa” (Gr 31,34).

+ Bài đọc 2: Dt 5,7-9.

Đức Giêsu Kitô với thân phận làm người đã hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha, Ngài đã sẵn lòng chịu đau khổ đến mức tận cùng để cứu chuộc loài người bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá. Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là “căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.

+ Bài Tin mừng: Ga 12,20-33.

Nhân cơ hội có sự hiện diện của mấy người ngoại giáo gốc Hy lạp muốn gặp Đức Giêsu để tìm hiểu về Ngài, hoặc muốn trình bầy điều gì đó, nhân dịp này Ngài nói với họ về “Giờ của Ngài”. Giờ của Ngài tức là lúc Ngài bị treo trên thập giá, giờ mà Ngài được tôn vinh.

Nói theo ngôn ngữ người đời thì đó là một điều nghịch lý, nhưng với cái nhìn đức tin, thì đó lại là một niềm vinh dự vì qua cái nhục trong một thời gian vắn, một cái nhục vô lý, Đức Giêsu sẽ chiến thắng vẻ vang nhờ cuộc phục sinh của Ngài, cũng như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi mới sinh được nhiều hạt khác: “Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,33).

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Vinh quang trong khổ nhục

ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC TÔN VINH.

Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,22). Ngài được tôn vinh như thế nào? Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng sự giầu sang, danh vọng, quyền thế, vinh quang thế gian, Ngài được tôn vinh chính lúc bị treo trên thập giá vì Ngài đã vâng theo thánh ý Cha Ngài, Ngài chiến thắng vẻ vang trong khổ nhục.

1. Giờ của Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến”. Giờ này là giờ nào? Phải chăng là lúc ký giao ước mới trong máu của Ngài đổ ra trên thập giá? Đúng như vậy!

Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại, ta thấy có nhiều giao ước đã được thay đổi: Từ giao ước Adong (St 3,15), với Noe (St 9,1-17), với Abraham (St 17,1-27) đến lời hứa giao ước mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia loan báo (Gr 31,31-34): tất cả những lời giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong GIỜ của Đức Giêsu. Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ (St 315) đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người.

Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Những lần khác, Đức Giêsu nhắc đến “Giờ chưa đến” (Ga 2,4; 7,30; 8,20), nhưng ở đây Ngài lại nói đến “Giờ đã đến”. Vậy “Giờ” ở đây không phải là giờ vinh quang cho bằng là “Giờ hiến tế” đem lại vinh quang cho Ngài: Giờ vinh quang của Con Người là giờ tử nạn và phục sinh của Ngài.

2. Sự vâng phục của Đức Giêsu.

Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt cuộc sống của Ngài. Sự tự hủy này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của Đức Giêsu trước thánh ý của Chúa Cha. Tâm tình tuân phục đó của Đức Giêsu cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha”.

Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngần ngại. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là “một điều điên rồ đối với dân ngoại, là cớ vấp phạm cho người Do thái” (1 Cr 1,23). Vì thế, khi biết rằng sắp đến “giờ” của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.

Lắng nghe lời tâm sự tha thiết tự đáy lòng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng: sống vâng phục không phải là một điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giêsu một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố vui buồn Thiên Chúa gửi đến từng ngày trong cuộc sống; hay nói cách khác, Đức Giêsu cũng đã phải học để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do thái viết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài (Đức Giêsu) đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu”. Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Đức Giêsu khi hoàn tất “Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.

3. Đức Giêsu chấp nhận thập giá.

Với tư cách là con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng cảm thấy sợ hãi trước đau khổ. Trong vuờn Cây Dầu Ngài cũng đã xao xuyến (x. Mt 26,38) và phải kêu xin cùng Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26.39). Theo tính tự nhiên, Đức Giêsu muốn trốn tránh sự đau khổ, nhưng Ngài lại muốn tuân theo thánh ý Cha để cho Cha định liệu. Và ý của Chúa Cha là muốn cho Con Ngài chịu chết trên thập gia để cứu chuộc nhân loại.

Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy rõ quan niệm của Chúa đối với đau khổ, đối với mọi thánh giá trên đời.

Đức Giêsu dùng cây thánh giá như bậc thang tới vinh quang “Per Crucem ad lucem”. Quan niệm đó mới nhìn qua là một nghịch lý, song Ngài đã giải thích bằng một dụ ngôn vắn tắt và đầy ý nghĩa: dụ ngôn hạt giống: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất, mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất và ai ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12,24).

Cây thánh giá còn là phương tiện chinh phục. Ngài cho biết, Ngài được giương lên cao thì cũng sẽ có nhiều người cùng được lên cao với Ngài: “Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32). Lịch sử đã chứng minh cho lời Chúa. Biết bao người đã tin theo Ngài vì cái chết đau thương đầy tình thương xót của Ngài. Biết bao người đã bỏ tất cả và cảm mến tấm lòng thương xót của Ngài. Thập giá Chúa đã in sâu vào trong lòng người ta.

Truyện: Ông đóng khố cởi trần.

Người ta kể rằng: Tin mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật bản từ hồi thế kỷ 16 do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ. Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật bản đã bị xoá sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa: “Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá”!

CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC TÔN VINH.

Những người theo Đức Kitô sẽ được tôn vinh, nhưng muốn được tôn vinh thì cũng phải có điều kiện, phải nói được như thánh Phaolô: vinh quang của ta là thánh giá Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được vinh quang trong sự tự hủy, trong việc cho đi và chấp nhận thánh giá trong đời.

1. Sống theo con đường tự hủy.

Thánh Phaolô đã vinh tụng Đức Giêsu trong bài thánh ca: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chất trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Đức Giêsu đã tự chọn lấy cái chết để chiếm lấy sự sống. Mới nghe thì ai cũng cho là phi lý vì chết và sống trái ngược nhau, làm sao có thể dung hòa được, nhưng chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống có thể sống được là nhờ sự chết. Ta có thể đưa ra vài ví dụ:

– Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới trở thành chất bổ dưỡng cho cây.

– Nơi sinh vật: các thức ăn phải “tiêu” mới “hoá” thành lương thực.

– Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa mầu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.

– Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.

Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.

(Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 165)

Theo như Flor McCarthy thì “Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,

– mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.

– mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.

– mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi.

– mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.

Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh.

Nói một cách cụ thể để áp dụng vào cuộc sống, chúng ta thử đưa ra vài trường hợp cho việc tự hủy, tức là bỏ ý riêng của mình đi để theo ý Chúa:

– Giả sử cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp ở bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy “bắt ý riêng chết đi” có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.

– Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế “chết cho ý riêng”có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.

– Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy. Thì “Chết cho ý riêng mình” có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cử xử với y. Không ai nói rằng: Chết cho ý riêng mình là điều dễ dàng.

(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 97

2. Sống là phải biết cho đi.

Với con đường tự hủy, Đức Giêsu đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý: “Cho là nhận” và “Chết là con đường đưa tới sự sống”. Thật vậy, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta không có thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn và cô đơn.

Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hoá khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giầu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có là phải cho ra hay cho đi.

Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu, thánh Phanxicô Assisi, trong lời kinh Hoà bình, đã ca lên: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Truyện: Thánh Maximilien Kolbe.

Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.

Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dẫy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:

– Anh muốn gì?

– Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.

Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đo chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982.

3. Chấp nhận thánh giá trong đời.

Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau. Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Và Ngài cho biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh. Hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt giống gieo xuống đất… “Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: “Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.

Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của một cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có thể chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Do đó, chết là điều kiện tất yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Người ta nói không sai:

Có khó mới có miếng ăn,

Không dưng ai bỗng đem phần chia cho.

(Ca dao)

Trong Kinh thánh có rất nhiều câu nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó có vài câu chúng ta thường nghe như:

“Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng,

Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6).

hoặc:

“Nếu ta cùng chết với Ngài, nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).

Truyện: Thập giá chỉ đường.

Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.

Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉûnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tầu cập bến an toàn.

“Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng con khó hiểu, và đứng trước mầu nhiệm này, tình cảm chúng con hoảng sợ và khước từ. Xin Chúa ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con nghị lực chấp nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa, ngõ hầu Nước Cha trị đến trong chúng con và khắp trần gian đến muôn thuở muôn đời”. Amen.

 

 

 

 

 

43. Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà.

 

Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt

Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho “được gặp ông Giêsu”.

Chúa Giêsu trả lời họ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” Giờ vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức Giêsu không màng tới mấy người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người muốn trả lời với họ một cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là qua cuộc Thương Khó của Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân tộc trên thế giới “được gặp Đức Giêsu”, được lãnh ơn cứu độ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. “Đức Giêsu chính là hạt lúa gieo xuống đất: nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn thể nhân loại được cứu độ. Đức Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng quan trọng hơn nữa, chính qua sự chết, Người ban sự sống: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Nếu trước đó tội lỗi và sự chết lôi kéo con người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi kéo mọi người lên và ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.

Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở thành như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt. Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của chúng ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán… Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của Đức Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).

Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót Người: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy”. Theo Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay cả đến việc hy sinh mạng sống của mình vì Đức Kitô.

Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa: biết hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái hơn với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.

 

 

 

 

 

44. Hạt lúa.

 

Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:

Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:

– Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.

Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:

– Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.

Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.

Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:

– Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:

– Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh nhiều bông hạt.

Lời nói này trước hết được thực hiện nơi chính bản thân Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì khi đi vào trần gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, và nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá, để rồi từ đó trổ sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh Phao lô đã diễn tả:

– Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Còn chúng ta thì sao? Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời Chúa đã phán:

– Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.

Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay:

– Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt.

Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những toan tính gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa? Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy câu trả lời cho riêng mình.

 

 

 

 

 

45. Chết đi

 

Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta phải học biết chết đi để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai nhưng lại là một sự thật. Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng nhân đã hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này được nổi bật lên qua câu nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.

Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến của cuộc sống của chúng ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm chứng cho khả năng của Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các thánh. Ở đây tôi không có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm chứng của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự căn tính Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn.

Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải chết đi để cây có thể mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy ra cho mỗi người trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại một vụ mùa bội thu cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định chết đi cho chính mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này không phải là một việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy sinh. Tuy nhiên, việc chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình là để cho Nước Thiên Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà thôi nhưng còn trong cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá hơn cả việc chúng ta tự hy sinh chính mình.

Chúng ta được mời gọi để trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm vui để có thể đáp trả được lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu và Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà thôi.

 

 

 

 

 

46. Chết để sống

 

Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.

Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu – ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.

Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần gian.

Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án… nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.

Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.

Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”.

 

 

 

 

 

47. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người được bắt đầu từ lúc nào?

Tại sao Chúa Giêsu không trả lời?

Nếu các bài Phúc Âm ba Chúa Nhật Mùa Chay trước Chúa Nhật Thương Khó hay Chúa Nhật Lễ Lá, như đã nhận định ở hai bài suy niệm Chúa Nhật 3 và 4 trước đây, có một ý nghĩa đặc biệt liên hệ với nhau, chẳng những ở từng chu kỳ mà còn ở cả ba chu kỳ với nhau nữa. Riêng chu kỳ Năm B này, chúng ta thấy các bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan được Giáo Hội chọn rất hợp với những gì Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua bao gồm ba phần khổ nạn, tử giá và phục sinh (x Mk 8:31, 9:31, nhất là 10:34). Trước hết, về phần khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đã xác nhận ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 3, khi Người thách dân Do Thái “hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”. Qua câu tiên báo này, dĩ nhiên Chúa Giêsu cố ý nói đến cuộc Vượt Qua của Người nói chung, thế nhưng, nếu so sánh với những gì Người sẽ tỏ cho biết thêm ở hai bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 và 5, Người cũng có ý nói đến riêng việc thân xác Người sẽ bị hành hạ bởi đòn vọt, nhục nhã v.v. Sau nữa, về phần tử giá, Chúa Giêsu báo trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 4, khi Người cho Nicôđêmô biết rằng Người sẽ bị đóng đanh vào thập tự giá: “Moisen treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy”. Sau hết, về phần phục sinh, Chúa Giêsu cũng bóng bẩy nói đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 5 tuần này, khi Người nói với các môn đệ của Người về hình ảnh hạt lúc miến mục nát đi để sinh muôn vàn hoa trái, ở chỗ, Người chiến thắng quyền lực của tên vương chủ thế gian và làm cho con người tin tưởng nhận biết Người, như Người cho biết ở đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm.

Thế nhưng, để làm cho nhân loại nhận biết Người, tức để làm cho cuộc Vượt Qua của Người như hạt lúa miến mục nát đi trổ sinh hoa trái, Người cần đến những chứng nhân, thành phần sẽ được Người ban cho Thánh Linh và sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật tới tận cùng trái đất (x Jn 20:22; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã liên kết số phận của thành phần môn đệ chứng nhân của Người với chính thân phận hy sinh và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Đúng thế, nếu bài Phúc Âm tuần thứ 3 Chúa Giêsu nói với chung dân Do Thái (thành phần sau này vu oan cho Người để Hội Đồng Do Thái viện cớ sát hại Người – Mt 26:61) về việc khổ nạn của Người, và nếu bài Phúc Âm tuần thứ 4 Người nói với Nicôđêmô (nhân vật sau này sẽ giúp vào việc táng liệm Người trong mồ đá – Jn 19:39) về việc tử giá của Người, thì bài Phúc Âm tuần thứ 5 tuần này Người nói với các môn đệ (thành phần được kêu gọi làm chứng nhân cho Người – Jn 15:27) về việc phục sinh sau khi Người trải qua khổ nạn và tử giá. Chúa Giêsu quả thực đã liên kết thân phận của các môn đệ với thân phận của Người trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ, ngay sau khi nói đến thân phận của Người như hạt lúa miến là thân xác của Người được gieo xuống và mục nát đi ở mảnh đất Do Thái, Người liền nói ngay đến nguyên tắc chung để có thể theo Người, theo một Đấng Vượt Qua, đó là: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình trên thế gian này thì giữ được nó cho sự sống trường sinh”. Sau đó, Người áp dụng nguyên tắc hay Đường Lối Vượt Qua này vào trường hợp môn đệ của Người, vì bấy giờ Người đang nói với các vị: “Ai phụng sự Thầy thì hãy theo Thầy, để Thầy ở đâu, thì tôi tớ của Thầy cũng ở đó”. Vấn đề “ở đâu” của Chúa Giêsu và “ở đó” của những ai theo Người, phục vụ Người đây, theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, thì còn chỗ nào khác ngoài trên cây thập giá và trong mồ đá: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4); “Tôi tớ không hơn chủ của mình. Họ sẽ bắt bớ các con như đã bắt bớ Thầy” (Jn 15:20). Tuy nhiên, chính nhờ thân phận trò hoàn toàn giống Thầy như thế mà thế gian mới nhận biết Thầy nơi họ, nơi chứng từ đẫm máu của họ.

Phải chăng đó là lý do, khi các môn đệ (Philip và Anrê) đến trình với Chúa Giêsu về điều các người Hy Lạp muốn xin được gặp Người, Người đã không trả lời với họ qua hai môn đệ này dứt khoát là Người có muốn gặp những người dân ngoại ấy hay không, mà lại lợi dụng dịp ấy để nói với các môn đệ về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua sẽ được thành phần môn đệ của Người, thành phần tôi tớ phục vụ Người, tham dự (x Jn 13:8;13:36;14:3), điển hình nhất là trường hợp của tông đồ Phêrô như được Người cho biết trước bên bờ hồ Tibêria (x Jn 21:18). Qua thái độ và lời lẽ của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cảm thấy hình như Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ là Người thực sự và hết sức muốn gặp gỡ thành phần dân ngoại, thành phần chưa hề biết Người, nhưng Người sẽ không trực tiếp gặp họ, như Người vốn trực tiếp gặp gỡ dân Do Thái của Người với tư cách là một Đức Kitô Thiên Sai theo như những gì đã được Thánh Kinh của dân tộc này nói tới, mà là gián tiếp qua các môn đệ, thành phần chứng nhân của Người, thành phần có khả năng dẫn loài người đến với Người, đến gặp Người bằng đức tin của họ. Và, nếu cuộc tử nạn của Chúa Giêsu như hạt lúa miến mục nát đi sinh nhiều hoa trái thế nào, thành phần môn đệ chứng nhân của Người cũng thế, cũng trổ sinh hoa trái nơi việc tái sinh các linh hồn như vậy. “Ai phục vụ Thầy sẽ được Cha tôn vinh” là ở chỗ này, như lời Chúa Giêsu nói tới trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi Người nói đến việc Thầy trò cùng ở một nơi, chịu chung số phận Vượt Qua.

Tuy nhiên, tại sao ngay sau khi nói câu ấy, tức sau khi nói về thân phận Vượt Qua của cả Thầy lẫn trò, Chúa Giêsu liền thảm não than lên: “Giờ đây linh hồn Thầy bối rối chẳng biết phải nói sao – Chẳng lẽ Cha ơi, xin hãy cứu Con khỏi giờ này? Thế nhưng, cũng chính vì giờ này mà Con đã đến. Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha!”. Phải chăng, như trong Vườn Cây Dầu Người đã đau buồn đến nỗi chết được, đến nỗi xuất mồ hôi máu vì nghĩ đến thành phần hư đi thế nào, thì ở đây, vào lúc ấy, Chúa Giêsu nghĩ đến một tông đồ Giuđa vô cùng đáng thương sẽ bị hư đi (x Jn 17:12), vì người tông đồ này chẳng những ra tay phản nộp Người mà còn tuyệt vọng tử tử (x Mt 27:5) bởi không tin tưởng vào lòng thương xót tha thứ vô biên bất tận của Người như tông đồ Phêrô (x Mt 26:75). Cái đau khổ tận cùng của Vị Thiên Chúa Làm Người ở đây đó là bị loài người phủ nhận tình yêu thương toàn thiện, nhưng không, tận tuyệt và vô đối của Người, ở chỗ, họ không tin rằng Người có thể yêu thương họ đến như thế, một tình yêu Người giành cho từng người một, và tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc duy nhất để mang về đàn của Người (x Lk 15:1-7). Thế nhưng, cũng như trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã chấp nhận uống cạn chén đắng vô cùng đau xót ấy.

Câu trả lời của Chúa Kitô là…

Như thế, nếu nỗi đớn đau vô cùng nhức nhối này cũng là những gì thuộc về cuộc Khổ Nạn hay Tử Giá của Con Thiên Chúa Làm Người, thì không phải cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người chỉ được bắt đầu từ khi Người bị bắt trong Vườn Cây Dầu (x Jn 18:12), mà là được bắt đầu ngay từ khi Lời Nhập Thể, ngay từ khi Thiên Chúa Làm Người để Người có thể, qua nhân tính của nhân loại, cảm thấy cái xót xa của mình bằng con tim nhân loại, khi bộ óc của Người nghĩ đến tương lai của thành phần hư đi, và bộc lộ cái chua xót của mình nơi môi miệng loài người “bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26; x Jn 12:27; Mk 14:36). Nói một cách chính xác và thực tế hơn nữa thì cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô được bắt đầu từ lần đầu tiên khi Người tiết lộ cho các môn đệ biết về Cuộc Vượt Qua của Người (x Mk 8:31), và được bắt đầu từ chính tâm hồn của Người, một tâm hồn đã bị quằn quại bởi những giây phút “buồn rầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), những giây phút “linh hồn Thầy hiện nay bối rối chẳng biết phải nói làm sao”, như Người đã thú thực trong bài Phúc Âm hôm nay. Và Cuộc Vượt Qua đã xẩy ra trước tiên ngay trong tâm hồn của Người, khi Người mong cho ý Đấng đã sai Người được nên trọn, như Người đã ngoan ngoãn thân thưa với Cha Người trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha”, một thái độ Vượt Qua của Người Con đẹp lòng Cha đến nỗi, khi nghe thấy như vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, “bấy giờ từ trời có tiếng phán: ‘Cha đã tôn vinh danh Cha rồi và sẽ còn tôn vinh danh Cha nữa’”.

Thiên Chúa “tôn vinh danh” của Ngài đây nghĩa là gì và ra sao, nếu không phải Người muốn tỏ cho riêng dân Do Thái và chung loài người (mà đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có cả dân Do Thái và những người Hy Lạp dân ngoại) biết Ngài thực sự là gì và như thế nào, như Ngài đã mạc khải tên của Ngài cho Moisen biết ở bụi cây bốc lửa song không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), một danh xưng Ngài đã tỏ cho dân Do Thái biết tỏ tường qua cuộc vượt qua của họ, từ tình trạng họ bị làm tôi người Ai Cập cho tới khi vào Đất Hứa. Nếu danh Thiên Chúa là tất cả những gì diễn tả bản tính vô cùng chân thiện của Ngài, như Ngài đã từ từ tỏ ra cho dân Do Thái biết theo giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ cho đến khi Lời Nhập Thể là “hiện thân của bản thể Cha” (Heb 1:2) xuất hiện, thì việc Thiên Chúa tôn vinh danh Ngài đây, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, cũng chính là việc Ngài tôn vinh Con Ngài, như Con Ngài đã thân thưa với Ngài khi mở đầu Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: “Lạy Cha, giờ đã đến rồi! Xin Cha hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha được tôn vinh Cha” (Jn 17:1). Vậy nếu Thiên Chúa tôn vinh danh mình là tôn vinh Con Ngài như thế thì “Cha đã tôn vinh danh Cha rồi”, như trong bài Phúc Âm nói đên đây là lúc nào, nếu không phải là hai lần điển hình được các Phúc Âm Nhất Lãm kể lại, lần thứ nhất ở sông Dược Đăng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối bởi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (x Mk 1:11), và lần thứ hai ở trên núi biến hình (x Mk 9:7). Và “Cha sẽ còn tôn vinh nữa” đây sẽ là lúc nào và ra sao, nếu không phải lúc Cha làm cho Con sống lại từ trong kẻ chết (x Acts 2:24), làm cho Con trở thành “hoa trái đầu mùa của kẻ chết để Con được toàn quyền trong hết mọi sự” (Col 1:18; x Mt 28:18).

Vấn đề ở đây là tại sao Thiên Chúa cần phải tôn vinh danh Ngài? Theo bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cho biết đó là để cho con người biết: “Tiếng phán đó không phải vì Tôi mà là vì quí vị”. Bởi vì, có nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, qua Mạc Khải Thần Linh của Ngài nơi Cựu Ước cũng như Tân Ước, con người mới được sự sống trường sinh, mới được hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nhưng, để con người có thể nhận biết danh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này, Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cần phải “tỏ Cha ra” (Jn 1:18). Ở chỗ nào, nếu không phải bằng việc Người đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38), tức là “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), “để trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho những ai tín phục Người” như được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay xác tín (Heb 5:9), cũng là những gì chính Người đã khẳng định tiên báo ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”. “Tất cả mọi người” được Chúa Kitô Tử Giá “kéo lên” đây nghĩa là gì, nếu không phải là tất cả mọi người, dù là kẻ dữ, thành phần hư đi đời đời, đặc biệt trong ngày chung thẩm, đều nhìn nhận chân lý đã được Chúa Giêsu mạc khải cho Nicôđêmô trong bài Phúc Âm tuần trước, một chân lý cũng đã được Người chứng thực hùng hồn nhất và sống động nhất trên Thập Giá: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Con sẽ không bị chết song được sự sống đời đời. Thiên Chúa không sai Con Ngài đến để thế để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Con mà được cứu độ”.

 

 

 

 

 

48. Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống

 

Trong cuốn sách, Tình Yêu Vô Điều Kiện, cha John Powell kể lại một câu truyện về Tommy, một trong những học sinh của cha.

Tommy là một người tự xưng là vô thần. Anh không tin bất cứ một sự kiện gì cả. Anh đặc biệt lên án ý tưởng rằng Thiên Chúa có thể yêu thương nhân loại một cách vô điều kiện.

Sau cùng, mùa học đã tới lúc mãn khóa. Khi Tommy nộp bài thi cuối năm, anh nói với cha một cách nhạo báng, “Cha thử nghĩ coi, tôi có thể tìm thấy Thiên Chúa không?” Cha đáp lại, “Không, Tommy ơi, anh không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa sẽ tìm thấy anh. “Anh chỉ nhún vai và bỏ đi.

Vài năm sau, cha được tin là Tommy đang sắp sửa chết vì bệnh ung thư. Trước khi cha có thể liên lạc với Tommy, Tommy đã liên lạc với Cha.

Khi Tommy đến gặp cha, cha nhận thấy thân xác của anh đã rã rời và bộ tóc của anh đã rụng hết do các thuốc chữa ung thư mà anh uống. Tommy nói:

“Con đến với Cha, vì những gì Cha đã nói với con trong buổi học sau cùng. Cha nói, con không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ tìm thấy con.

“Đúng thế, khi bác sĩ cho con biết con chỉ còn một thời gian ngắn để sống, con đã làm một việc mà con không bao giờ nghĩ là con sẽ làm. Con đã bắt đầu cầu nguyện rất nhiều với Thiên Chúa. Thế nhưng không có chuyện gì xảy ra cả. Không một ai trả lời con.

“Con cố gắng nhiều hơn nữa! Thế nhưng cũng vậy, không gì xảy ra cả. Không ai trả lời con cả. Sau cùng, sau khi đã cố gắng thêm một vài lần nữa, con đã đầu hàng bỏ cuộc.

“Con nghĩ rằng, thật là bất hạnh cho một người chết đi mà không có tình yêu; thật là bất hạnh cho một người chết đi mà chưa nói với người mình yêu thương rằng mình thật sự thương yêu họ. Con đã quyết định làm việc đó.

“Con bắt đầu từ một người khó chịu nhất: chính là ba con. Một đêm nọ, trong khi chúng con ở nhà một mình, con đã nói với ba về việc con cảm nghĩ thế nào về ông. Sau đó, ông đã làm việc mà con không thể ngờ. Ông đã khóc và ôm con vào lòng. Chúng con đã nói chuyện suốt đêm, mặc dù ba con phải dậy đi làm sáng hôm sau.

“Khi nói với mẹ con và các anh em con rằng con yêu mến họ thì thật dễ dàng hơn. Giống như ba con, họ cũng khóc và ôm chầm lấy con.

“Sau đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra. Không biết từ đâu, Thiên Chúa đã đến với đời sống của con. Ngài đến với một sức mạnh và quyền lực mà con không thể nào không nhận thức được. Đúng thế, thưa Cha, Ngài đã tìm thấy con! Ngài đã thật sự tìm thấy con!”

Ít lâu sau, Tommy đã qua đời, nhưng anh đã khởi sự một cuộc sống trong một phương thức khác. Anh khởi sự sống trong cách thức mà Chúa Giêsu đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống.”

Trong trường hợp phép lạ của Lazarô, điểm quan trọng không phải là việc Chúa làm cho một người bạn sống lại. Điểm quan trọng là, Chúa Giêsu muốn dùng phép lạ này để dạy dỗ cho ta điều gì.

Chúa Giêsu muốn dùng nó để nói lên một cách tượng hình những gì mà Ngài đã nói với Martha: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì dù có chết, cũng sẽ sống.”

Những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho Tommy và Lazarô, thì Ngài cũng muốn làm cho chúng ta. Ngài muốn ban cho chúng ta một sự sống mới. Ngài muốn chia sẻ cho chúng ta chính sự sống của Ngài. Ngài muốn làm cho chúng ta sống lại trong đời sống vĩnh cửu.

Đây chính là sứ điệp của Mùa Chay. Nó có ý nói về việc mở rộng tâm hồn của chúng ta với tha nhân, giống như Tommy đã làm với gia đình của anh, hầu qua đó Chúa Giêsu có thể thực hiện cho chúng ta những gì Ngài đã có thể làm cho Tommy.

Nó có ý nói về việc đón nhận một đời sống mới từ Chúa Giêsu trong ngày hôm nay, hầu chúng ta có thể đón nhận đời sống vĩnh cửu từ Chúa Giêsu trong ngày sau cùng.

 

home Mục lục Lưu trữ