Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1367550

QUYỀN NHÂN DANH CHÚA

Quyền nhân danh Chúa

 

Bảo vệ quyền lợi là một khuynh hướng chúng ta có thể tìm thấy ngay cả ở những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn.

Thực vậy, trong Cựu Ước, Giosuê, người tuỳ tùng của Maisen đã muốn dành ơn nói tiên tri cho một số thân tín của mình mà thôi. Con trong Tân Ước, các tông đồ đã ngăn cấm những kẻ không thuộc nhóm 12 của các ông được nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thái độ của Gioduê và của các tông đồ đã tỏ lộ một cái nhìn hẹp hòi và cục bộ về quyền năng của Chúa được ban cho các ông. Các ông đã chủ quan mà nghĩ rằng: Quyền năng các ông có trong việc trừ quỷ là do thuộc về nhóm Mười Hai và được Chúa tuyển chọn. Các ông quên rằng mình đã trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu, chứ không phải tự khả năng của bản thân mình. Như vậy Chúa Giêsu đã bị che khuất, hay đúng hơn đã bị giới hạn bởi cái đầu óc phe nhóm và bè phái.

Thế nhưng, Thiên Chúa không muốn người ta đóng khung quyền năng của Ngài, cũng không muốn để ai chiếm lấy quyền năng đó làm của riêng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã giúp các môn đệ nhận ra sự thật, Ngài nói: Không ai nhân danh Thầy làm phép lạ, rồi lại có thể nói xấu Thầy. Các tông đồ có thể trừ được quỷ, không phải nhờ ở việc các ông thuộc về nhóm Mười Hai, mà chính là nhờ danh Chúa Giêsu, nhờ ở quyền năng của Thiên Chúa. Như thế, nhân danh Chúa Giêsu mà làm phép lạ và truỳ quỷ, tức là đã tin vào Ngài. Và một người đã làm được các phép lạ nhờ ở một lòng tin, sẽ không thể quay lưng chống lại Ngài.

Như thế, quyền năng người ta có được là do lòng tin ở Chúa, chứ không phải do bất cứ tước hiệu nào người ta mang lấy. Sở dĩ các tông đồ làm được viêc nọ việc kia cũng là do bởi đã tin vào Chúa và đã thuộc về Ngài. Phêrô sau này đã hiểu rõ bài học trên đây của Chúa Giêsu, khi ông đứng trong sân đền thờ và chữa lành cho người bất toại. Ông nói: Chính nhờ tin vào danh Đức Kitô mà anh này, như quý vị đã thấy, được làm cho vững mạnh. Và thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã lập luận: Vậy những kẻ thuộc về Ngài thì hành động như Ngài, cũng thế, những kẻ hành động như Ngài thì thuộc về Ngài.

Để giúp các ông loại bỏ óc bè phái vị lợi, cũng như để giúp các ông biết tôn trọng những người đã tin ở Ngài, Chúa Giêsu xác quyết: Một việc làm nhỏ đối với những người tin, dù chỉ là cho đi một ly nước lã, cũng đáng được ân thưởng. Trái lại, làm cớ vấp phạm cho một kẻ bé mọn, đã tin vào Chúa, thì cũng đáng bị xô xuống biển. Là những người tín hữu, chúng ta có biết thực sự cộng tác với nhau, để danh Chúa mỗi ngày một cả sáng và Nước Chúa mỗi ngày một rộng mở hay không?

 

 

 

 

 

2. Đừng ngăn cấm

 

Hai đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa dám lôi tên ba của đứa kia ra giễu cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá ra một bí mật và việc gọi tên có vẻ bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của một người thường mang ý nghĩa như chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm gọi đến tên Ngài ở giới răn thứ hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan trọng của tên Thiên Chúa như trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.

Nếu hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa Giêsu tuyên bố: Kẻ nào tiếp đón một kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào tiếp đón Ta thì không phải là tiếp đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta. Chúa nói về ân phúc của mọi hành động trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan việc vừa xảy ra. Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo Thầy và chúng con đã ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh Chúa Giêsu, nhưng đồng thời lại kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống sát cạnh Chúa, cũng như ganh tức với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền hạn của mình. Thế nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói xấu Thầy. Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại vấn đề, liệu các môn đệ đã tin vào danh Chúa hay chưa?

Có thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ lại chối bỏ và để Chúa Giêsu chịu chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính Chúa Giêsu đã nhìn những người ngoại giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng hạn người thiếu phụ Canaan và viên đội trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa thấy một niềm tin như thế trong dân Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn đệ đã có một niềm tin mạnh như những kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ, còn những người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm phép lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các môn đệ trở về kể lại cho Chúa Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải luỵ phục chúng con. Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm. Họ nhờ danh Chúa mà tìm vinh quang cho mình.

Ngày hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà suy nghĩ về những cái chúng ta chiếm độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ đó đưa đến như thế nào? Có phải vì danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh giáo xứ mình mà thôi chăng.

Tiếp đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng ngăn cản họ. Lời nói tuy ngăn nhưng phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn giáo, phá vỡ cả một sự độc quyền về niềm tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các người nhiều kẻ từ phương Đông phương Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong Nước Trời, còn chính con cái thì lại bị đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy cho các môn đệ một cái nhìn mới về ơn cứu độ.

Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy người này người nọ thực sự yêu thương và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người vô thần, là người Phật giáo, thì lập tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa: Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng phải ở trong đạo mới có tình thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại sống được tốt lành như họ chưa.

 

 

 

 

 

3. Ðể trở nên môn ðệ đích thực

(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)

 

Ðừng nghĩ rằng mình có quyền ưu tiên

Khi thánh Mác-cô viết cho các độc giả của mình, Nhóm Mười Hai đã phân tán, một vài người đã qua đời. Tuy vậy, cộng đoàn được thành lập xưa kia quanh Ðức Giê-su vẫn là kiểu mẫu cho mọi cộng đoàn. Qua trình thuật, thánh Mác-cô nhắc lại cho các tín hữu thời ấy về cách sống họ phải có với nhau cũng như về mối tương quan của họ với thế giới bên ngoài: không được tự cho mình quyền ưu tiên trên người khác, việc phục vụ, sự bình an.

Kẻ trừ quỷ

Câu chuyện khởi đầu với đề nghị của ông Gio-an về việc có người không ở trong hàng ngũ môn đệ mà lại lấy danh Ðức Giê-su để trừ quỷ. Các môn đệ muốn xin Thầy cấm không cho người ấy làm như vậy.

Ðề nghị này diễn tả tham vọng của một số người trong dân Chúa muốn có những đặc quyền và độc quyền, kể cả quyền trừ quỷ. Ðức Giê-su cho thấy thái độ ngược lại: Người luôn hướng ra ngoài những biên giới hữu hình, những cơ chế, với mục đích làm cho việc phục vụ được mở rộng và đạt được hiệu quả tối đa. Xét cho cùng, sự hiện diện của Ðức Giê-su cũng như của Hội Thánh chính là dẹp tan sức mạnh của Xa-tan để Nước Thiên Chúa được lan rộng. Chỉ có những ai kết hiệp với Ðức Kitô, Ðấng duy nhất đã chiến thắng ma quỷ, mới có thể làm được công việc này.

Do đó, thay vì cấm đoán, Ðức Giê-su đã dạy các môn đệ hãy biết trân trọng và cộng tác với những người, cách này cách khác, đang làm cho Nước Thiên Chúa được lan rộng thêm. Những người này có thể không thuộc vào số những môn đệ của Ðức Kitô, nhưng vẫn có thể là những cộng tác viên của Người: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Ngoài ra, theo tác giả Tin Mừng thứ hai, Thần Khí được ban tặng cho hết mọi người và không cơ cấu nào có thể ràng buộc Thần Khí của Ðấng Phục Sinh: Người là Ðấng vượt lên trên mọi cộng đoàn nhân loại, mọi hoạt động xã hội, mọi gia đình tôn giáo. Thần Khí luôn chống lại mọi hình thức địa phương hóa Hội Thánh, mọi ý định muốn trói buộc sự năng động mà Người là nguồn mạch.

Chính vì vậy, người môn đệ Ðức Kitô không thể viện cớ bảo đảm sự chính thống để rồi đồng hóa sự thuộc về Ðức Kitô với một quan niệm loại trừ, gạt bỏ hết những ai không cùng niềm tin với mình. Nước Thiên Chúa không chỉ ở đây hay ở đó, nhưng ở bất cứ nơi đâu có những con người thiện chí.

“Ai cho anh em uống một chén nước…”

Người Kitô hữu là đại diện của Ðức Kitô. Ðây là một trách nhiệm cao cả. Tuy nhiên, ở đây, trong câu nói của Ðức Giê-su, người môn đệ là cả một cộng đoàm trở nên bé nhỏ, và do đó là người phục vụ chứ không phải là người lãnh đạo. Tuy thế, trong cộng đoàn cũng như nơi từng người, Ðức Giê-su vẫn luôn hiện diện. Người môn đệ nhỏ bé nhất vẫn là tượng trưng cho Ðức Kitô. Phẩm giá cao quý này đòi buộc họ phải sống đúng theo Ðức Giê-su mong muốn, đồng thời cũng buộc người khác phải nhìn người môn đệ ấy là chính Ðức Kitô.

“… Làm cho một trong những kẻ bé mọn sa ngã…”

Ðó là làm cớ cho người khác lung lạc trong việc gắn bó với Ðức Kitô. Hành động này đi ngược với việc phục vụ, đón tiếp, và xây dựng bình an. Ðây là tội nặng và đáng chịu hình phạt nặng nề: chịu cột cối đá vào cổ và quăng xuống biển.

Trong Tin Mừng, các kẻ bé mọn có thể hiểu là những người hèn kém, ít học, bị coi thường. Còn trong đời sống Kitô hữu, kẻ bé mọn là những người có lòng tin yếu kém, ít am hiểu. Thái độ nghiêm khắc của Ðức Giê-su nói lên lòng kính trọng và mối ưu tư Người dành cho loại người này. Qua đấy, Ðức Giê-su cũng muốn tố cáo thái độ độc quyền của những thủ lãnh tôn giáo: giải thích Kinh Thánh, đóng cửa không cho những kẻ muốn vào. Theo Ðức Giê-su, hành động này là sự huỷ hoại chính mình khi huỷ hoại người khác, bởi vì làm như thế là tự cho mình quyền nắm giữ Thần Khí và có quyền tự do làm bất cứ điều gì theo ý mình.

Tiếp đến, Ðức Giê-su nói đến sự trầm trọng của gương xấu theo mối nguy mà nó gây ra cho mỗi người. Các chi thể của con người như tay, chân, mắt, mũi, v.v… là những bộ phận cho phép con người hoạt động và tạo nên những mối tương quan. Con người phải điều khiển những hoạt động và tương quan của mình để tạo nên sự sống, chứ không phải gây ra tội lỗi hay sự chết. Ðây là một lựa chọn có giá trị tuyệt đối: người ta không thể coi bất cứ điều gì có tầm quan trọng hơn sự sống – sự sống vĩnh cửu. Ðiều gì đi ngược với sự sống này, phải bị loại bỏ dứt khoát.

Dĩ nhiên, câu nói của Ðức Giê-su không thể hiểu theo nghĩa chặt. Ðàng khác, cũng thật là vô ích khi cố tìm xem những tội nào mà tay, chân hay mắt có thể là cơ hội. Mà giả như có cắt bỏ những phần thân thể này cũng không loại trừ được nguy hiểm.

Qua khẳng định này, Ðức Giê-su muốn nhấn mạnh đến việc chọn lựa, và người ta phải đặt sự sống vĩnh cửu lên trên mọi giá trị khác, kể cả những gì thân thiết nhất. Như vậy, trong suốt bản văn này, vấn đề được nêu lên cho người môn đệ Ðức Kitô là: cuộc sống và hành động của họ có làm cho họ, và cho người khác, được sống hay phải chết?

Thuộc về Ðức Kitô

Bài Tin Mừng hôm nay đề ra cho chúng ta hai sứ điệp:

Sứ điệp thứ nhất

Người xua đuổi quỷ là người tốt; họ là đối thủ hữu hiệu chống lại cái ác, và do vậy, họ được liên kết cách thực sự với Ðức Kitô. Có thể gặp thấy những người này ở khắp nơi, kể cả ở ngoài số những môn đệ chính thức của Ðức Kitô.

Nét đặc trưng của người môn đệ Ðức Kitô là không được ngăn cản những người này hoạt động, viện cớ rằng họ không nhận quyền từ Ðức Kitô.

Sứ điệp thứ hai

Ðức Giê-su yêu cầu chúng ta phải là những người trung tín đến mức phải loại trừ tất cả những gì gây trở ngại cho việc gắn bó với Người. Những ai nghĩ rằng bình an và sự công chính của Thiên Chúa là điều có thể thực hiện, cho dù phải trả giá là một cái chân hay một con mắt, những người ấy trở thành anh hùng trong lịch sử nhân loại. Ðây không phải là trường hợp những người quá bận tâm để cứu lấy những đồ đạc của mình, và được đánh đổi bằng một vài thoả hiệp.

Chúng ta hiểu rằng hai sứ điệp này không dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong lý thuyết, nó cũng cho chúng ta cảm thấy vui thích. Sứ điệp thứ nhất phù hợp với tinh thần thoáng đạt, bao dung mà con người ngày nay đang hướng đến. Sứ điệp thứ hai phù hợp với tính trung thực đang được khuyến khích khắp nơi.

Nhưng phải chăng Ðức Giê-su chỉ nói với chúng ta như thế?

Ðể ý một chút, ta nhận ra một điểm chung: thuộc về Ðức Kitô. Kẻ trừ quỷ phải “nhân danh Ðức Giê-su”, kẻ bé nhỏ nhận ly nước “vì thuộc về Ðức Kitô” và kẻ có những chọn lựa là để “vào trong Nước Thiên Chúa”.

Như thế, trong mọi hoạt động, dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, ta cũng phải nhận ra dấu vết của Thiên Chúa và của Ðức Giê-su, Con Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho ngọn lửa Thánh Thần thanh luyện các phán đoán và cách ứng xử của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta nhận ra cách tích cực nơi chính mình và nơi người khác – dù người ấy còn xa lạ với Kitô giáo – dấu chỉ của Thần Khí Ðức Giê-su. Thần Khí luôn mời gọi chúng ta sống thánh hơn, và do đó, tinh thần thoáng đạt hơn. Thánh Kinh luôn mời gọi chúng ta chân thành hơn, và như vậy, tự do hơn…

 

 

 

 

 

4. Óc bè phái, cục bộ.

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

 

“Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9,40)

Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúa nhật vừa qua, Lời Chúa đã dạy chúng ta đừng ganh ghét đố kỵ. Hôm nay, Lời Chúa lại dạy chúng ta đừng có óc bè phái cục bộ, chỉ biết đến nhóm mình, phe mình và loại trừ những người không thuộc phe nhóm của mình.

Ðoàn kết trong nội bộ là tốt, nhưng kỳ thị và loại trừ những người khác thì là xấu.

Chúng ta hãy chăm chỉ nghe giáo huấn của Chúa và cố gắng thi hành.

Gợi ý sám hối

Chúng con có lỗi vì đã không thích những người không cùng tín ngưỡng với chúng con.

Chúng con có lỗi vì tạo phe nhóm chống đối nhau.

Vì họ đạo chúng con chia bè chia cánh, nên đã không là tấm gương tốt cho những người lương.

Lời Chúa

Bài đọc I (Ds 11,25-29)

Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói: “Phải chi Ðức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ”.

Ðáp ca (Tv 118)

Tác giả Thánh Vịnh 18 suy nghĩ “Nào ai thấy rõ các lỗi lầm của mình?” Từ đó ông khiêm tốn nhìn nhận có những tội mình phạm mà chẳng hay, trong đó có tội kiêu ngạo.

Phối hợp với bài đọc I và bài Tin Mừng, ta có thể thấy cái thứ tội kiêu ngạo ta phạm mà chẳng hay chính là sự đố kỵ với những người không cùng ở trong tập thể của mình: mình ghét họ, mình chống họ nhưng cứ tưởng làm như thế là tốt cho tập thể mình.

Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47)

Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu dạy hai bài học:

a/ Bài học bao dung và hợp tác: Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Ðức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Ðức Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.

Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”

Ðức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, và sẵn sàng hợp tác với tất cả môi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”.

b/ Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho “những kẻ bé mọn”.

“Những kẻ bé mọn” không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.

Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi…”

Bài đọc II (Gc 5,1-6) (Chủ đề phụ)

Thánh Giacôbê nặng lời phê phán những người giàu có mà không giúp đỡ những người nghèo: (1) Những tiền bạc của cải mà họ tích trữ không xài tới chính là bằng chứng buộc tội họ; (2) Tài sản của họ là do gian lận, bất công mà có; (3) Họ dùng tài sản để thỏa mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.

Gợi ý giảng

* 1. Óc ganh tị bè phái… vì danh Chúa!

Những bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói gì.

– Bài đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang thang trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân ra 72 người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn nói tiên tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng mà có 2 người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một đứa bé thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay sự việc. Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì họ không thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy ra từ thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa, mà người ta đã có tính ganh tị rồi.

– Cái tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể: Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Ðức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Ðức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Ðức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải là tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Ðức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Ðức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại ta thì thuộc về ta”.

Qua hai câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tị đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như Ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Ðất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Ðức Giêsu yêu thương nhất. Ðó là óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Nói “Óc ganh tị Bè Phái vì danh Chúa” bởi vì ganh tị có tới 3 cấp bực:

Cấp thứ nhất là Ganh tị: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.

Cấp thứ hai là Ganh tị bè phái: là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm của mình.

Cấp thứ ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.

Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Ðó là một thí dụ về cái óc ganh tị bè phái vì danh Chúa.

Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Ðức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không chống lại ta thì phải kể như là thuộc về ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Ðức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.

Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Ðức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hoà với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.

Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Ðiều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.

Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tị, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hoà với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những việc tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.

Dịp tội

Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những lời rất mạnh mẽ của Ðức Giêsu:

Nếu tay con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 tay mà phải vào hoả ngục.

Nếu chân con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 chân mà phải vào hoả ngục.

Và nếu mắt con nên dịp tội cho con thì hãy móc nó đi. Thà con còn một mắt mà được vào Nước TC còn hơn có đủ 2 mắt mà phải ném xuống hoả ngục.

Dĩ nhiên đây là kiểu nói cường điệu theo thói quen của người Á Ðông. Không ai hiểu những câu đó sát nghĩa đến cả. Ta chưa thấy ai tự chặt tay chặt chân móc mắt để khỏi phạm tội cả. Ngay cả các thánh cũng vậy, các Ngài đã chống trả các cơn cám dỗ rất là quyết liệt, nhưng không bằng cách chặt tay chặt chân móc mắt mình. Có một trường hợp đặc biệt sau đây: Ông Origène, một Linh mục rất thánh thiện và cũng rất thông thái, uyên bác. Các tác phẩm của ông được xếp ngang hàng với tác phẩm của các thánh giáo phụ và tiến sĩ của Giáo Hội. Ông thường bị cám dỗ mạnh về xác thịt, cho nên một hôm ông quyết định tự thiến mình đi để khỏi bị cám dỗ nữa. Hành động này của ông chẳng những không được Giáo Hội khen mà còn bị chê trách nữa, do hành động ấy mặc dù ông rất thánh thiện và thông thái nhưng ông đã không được phong thánh và cũng không được coi là giáo phụ, hay tiến sĩ Giáo Hội, vì ông bị coi là một người bất bình thường.

Vậy, chúng ta không nên hiểu những lời Tin Mừng trên theo sát nghĩa đen. Mà phải hiểu theo tinh thần. Chúa Giêsu muốn căn dặn chúng ta phải hết sức triệt để xa lánh các dịp tội.

Nhưng, dịp tội là gì? Thưa là tất cả những gì có thể khiến ta phạm tội.

Ðó có thể là một sự vật. Td một chiếc xe đạp để ở chỗ vắng vẻ mà không có khoá.

Ðó có thể là một người. Td một cô gái đẹp lả lơi ăn mặc hở hang.

Ðó có thể là một hoàn cảnh, một môi trường. Td một xóm bình khang, một ổ điếm.

Ðể cho rõ hơn nữa, các nhà luân lý phân ra nhiều loại dịp tội:

Dịp tội gần: là những dịp mà nếu gặp thì hầu như chắc chắn ta sẽ phạm tội. Td người ghiền xì ke khi tới cơn ghiền, không có tiền, hễ gặp đồ đạc ai để hớ hênh thì hầu như chắc chắn sẽ “chôm” liền. Gặp 10 lần thì phạm tội khoảng 7,8 lần.

Dịp tội xa là những dịp mà có gặp thì cũng ít khi phạm tội. Td một người bình thường gặp một món đồ để hớ hênh. Có thể là anh ta sẽ ăn cắp, mà cũng có thể không ăn cắp.

Dịp tội gần lại được phân làm 2 loại nữa:

Dịp bó buộc là tuỳ hoàn cảnh đó có nguy hiểm khiến mình phạm tội, nhưng mình bó buộc phải vào, nếu không vào thì bị thiệt hại nặng. Td một cô gái làm việc cho ông chủ có máu dê xồm và thường phải gặp mặt ông ta. Ðây là một dịp nguy hiểm, nhưng nếu cô không gặp thì cô phải mất việc làm, phải thất nghiệp, phải túng thiếu.

Dịp tự do: là dịp tội cũng nguy hiểm nhưng ta không bó buộc phải gặp. Td không ai bó buộc một cô gái phải đến gặp một người đàn ông không đứng đắn vào buổi tối tại một nơi hẹn vắng vẻ.

Sau khi đã phân biệt nhiều thứ tội khác nhau. Bây giờ chúng ta nghĩ xem mình phải tránh loại dịp tội nào? Xin nhớ 3 nguyên tắc sau:

Buộc phải tránh dịp tội gần, vì đó là dịp mà nếu ta gặp thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ bị phạm tội.

Khi gặp dịp tội tự do, ta phải xa tránh: vì đó cũng là một dịp tội gần nguy hiểm hầu chắc sẽ phạm tội nhưng ta không bị bó buộc phải vào dịp đó cho nên phải tránh đi.

Còn nếu là dịp bó buộc thì ta đành phải gặp, tuy nhiên phải khôn khéo làm cho dịp tội gần và bó buộc đó tành ra dịp tội xa. Td một cô gái phải cặp mắt một ông chủ không đứng đắn, đó là một dịp tội gần và bó buộc. Nhưng nếu cô cùng đến với một người bạn khác nữa, hoặc đến gặp ở chỗ có đông người thì cô không còn nguy hiểm nữa, dịp đó đã trở thành dịp tội xa rồi.

Con người chúng ta có lương tri và có ý muốn hướng thượng, không ai cố tình muốn làm tội. Tuy nhiên con người chúng ta cũng rất yếu đuối và dễ bị lôi cuốn cho nên dễ bị sa ngã nếu gặp dịp tội. Bảng phân loại các dịp tội ở trên tuy hơi tỉ mỉ và có tính cách giáo điều, nhưng rất rõ ràng và hữu ích. Chúng ta hãy cố gắng xa lánh các dịp tội gần, vì Chúa đã dạy: “Nếu tay con nên dịp tội cho con…”

Giải phẫu.

Người ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.

****

Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi” (Mc 9,43). Kiểu nói “chặt tay, chặt chân, móc mắt” chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.

Ðức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.

Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. “Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn”, đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể “cắt bỏ” một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính… Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn “móc con mắt, chặt cánh tay”. Ðau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: “Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.

Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.

****

Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào: Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

Mảnh suy tư

a/ Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta:

Chúng ta có quyền nhân danh Ðức Giêsu mà làm việc này việc nọ, nhưng đó không phải là độc quyền của chúng ta.

Nếu biết suy nghĩ kỹ, ta sẽ hiểu rằng những tài năng và thành công của những người khác không hề làm cho chúng ta bị nghèo đi, trái lại còn làm giàu thêm cho chúng ta.

Cũng thế, một người khác với chúng ta không hề làm chúng ta nghèo đi nhưng còn làm cho chúng ta giàu thêm.

Thiên Chúa ban nhiều ơn cho nhiều người. Bổn phận của chúng ta là đón tiếp những ơn ban đó ở bất cứ nơi nào mà chúng ta phát hiện.

b/ Ai cho anh em một chén nước lả thì người đó không mất phần thưởng đâu:

Chén nước lả là tượng trưng cho việc tốt nho nhỏ. Chúng ta ít có dịp làm những việc tốt lớn lao, nhưng có rất nhiều dịp làm những việc tốt nho nhỏ.

Một việc làm có khả năng an ủi không nhất thiết phải là một việc lớn, mà chỉ cần là một việc sưởi ấm cõi lòng.

c/ Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn:

Cái làm cho trẻ con dễ thương nhất là tâm hồn rộng mở của chúng. Do tâm hồn rộng mở, trẻ con đón nhận một cách ngây thơ tất cả những gì người ta dạy chúng.

Nhưng cũng do tâm hồn rộng mở mà trẻ con dễ bị tổn thương nhất vì bất cứ điều xấu nào cũng có thể xâm nhập vào đấy.

Tội làm gương xấu cho trẻ con đáng bị buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển vì tội đó biến cái dễ thương nhất thành cái tổn thương nhất.

Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dạy: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”, và “Ai làm cớ cho tín hữu bé nhỏ sa ngã thì thà buộc cội đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúng ta hãy sốt sắng cầu xin Chúa:

1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết cố gắng tránh mọi gương xấu/ mà nêu gương tốt cho mọi người.

2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo kẻ khác / dù chưa biết Chúa để tin theo Chúa/ vẫn luôn sống lương thiện và không bao giờ chống đối Chúa.

3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nạn nhân của các gương xấu, nhất là các trẻ nhỏ/ gặp được những bạn bè và những nhà giáo dục biết đem chúng trở về đời sống lương thiện.

4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em trong xứ đạo chúng ta/ biết khoan dung với những người làm gương xấu nhưng không chống đối Chúa/ và biết luôn cố gắng để không làm gương xấu cho ai.

Chủ tế: Lạy Chúa, chung quanh chúng con còn nhiều người làm gương xấu và nhiều người là nạn nhân của gương xấu, xin cho chúng con biết rõ những hậu quả ghê tởm của gương xấu, để không bao giờ làm gương xấu cho ai. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

Trong Thánh lễ

– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi óc bè phái, cục bộ…”

Giải tán

Trong tuần này, chúng ta hãy ghi nhớ và sống một câu Tin Mừng này: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

 

 

 

 

 

5. Bỏ đi và cho đi

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

 

Một trong những tình bạn đẹp mà Linh mục Cao Vĩnh Phan (1924 – 2011) có được với các Đại đức và Thượng tọa phải kể đến tình bạn giữa Đại đức Thích Thiện Hiền và Thích Huệ Tánh. Đại đức Thích Thiện Hiền trụ trì tại chùa Phú Sơn gần nhà thờ giáo xứ Thánh Mẫu, nơi Lm Cao Vĩnh Phan làm Cha xứ từ 1975 đến 1991. Hai người đã kết nghĩa anh em với nhau; Lm Phan là anh và Đại đức là em, bởi vì ngài lớn tuổi hơn. Hai anh em thường gặp nhau, động viên nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Lúc Đại đức đau ốm, Lm Phan đến thăm nom săn sóc, và ngược lại. Thân nhau đến nỗi nhiều lần Đại Đức đã nhờ Lm Phan cạo đầu cho mình.

Giữ lời đã nói với Đại đức: “Thầy tịch trước tôi không quên, thầy tịch sau tôi nhớ mãi”. Lm Phan thường đến thăm viếng Đại đức Thích Thiện Hiền trong thời gian bệnh nặng và có mặt lúc lâm chung cũng như đã tham dự đám tang. Tiếp theo sau nghi thức tôn giáo nhà Phật, Lm Phan cũng đọc Điếu văn phân ưu và một lời nguyện theo đức tin Công giáo.

Sau lễ an táng của Đại đức nhiều người nói với nhau rằng: “Đám tang của Thầy Hiền là đặc biệt hơn cả, vì có Linh mục và bổn đạo giáo xứ Thánh Mẫu tham dự một cách tích cực và có lời phân ưu nồng nhiệt chân tình chưa từng có.” Bà con họ hàng của Đại đức Thiện Hiền cũng đến giáo xứ Thánh Mẫu để cám ơn Cha xứ. Có mấy người ôm lấy ngài và khóc. Họ nghẹn ngào nói: “Như vậy là Thầy chúng tôi đã viên tịch, Cha không còn có dịp mà đến với chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi luôn coi Cha như người thân thay thế Đại đức Thích Thiện Hiền. Xin Cha thương chấp nhận lời khẩn cầu nầy!”

Từ ngày ngài bị bệnh phải nghỉ hưu tại Viện Dưỡng Lão Chí Hòa (cuối năm 1992), nhiều Đại đức, Thượng tọa và đạo hữu Phật giáo vùng Phan Thiết và Mũi Né thường xuyên vào thăm ngài. Có nhiều khi họ đi cả phái đoàn vài ba chục người. Dịp lễ Giáng Sinh năm 1993 có mấy Đại Đức đã đưa các đệ tử và đạo hữu vào thăm cha Phan. Họ nói rằng: “Muốn vào thăm Cha vào dịp lễ Noel vì từ khi Cha đi không còn ai mời đi dự lễ Noel nữa”. Hiểu được nguyện vọng của họ, sau khi trò chuyện thăm hỏi, Lm Phan mời họ vào nhà nguyện viếng hang đá. Sau một lúc quì cầu nguyện, ngài giải thích cho họ về ý nghĩa lễ Giáng Sinh, dựa vào câu Kinh Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Kết thúc buổi gặp gỡ thăm viếng, ngài bộc phát nguyện: “Lạy Chúa, đây là những vị Tăng Ni Phật tử thân thương từ Phan Thiết vào thăm con tại nhà hưu dưỡng nầy. Các vị thật là những “người thiện tâm”, các ngài muốn nghe Chúa nói. Vậy con tha thiết cầu xin Chúa nói cho các ngài hiểu biết về Chúa. Con muốn nói và nói nhiều lắm, nhưng con không đủ sức, và các ngài cũng không đủ thì giờ, vì phải về. Con tin Chúa thiêng liêng quyền phép. Xin Chúa hãy tỏ mình ra cho các vị như xưa Chúa đã tỏ mình ra cho ba Vua và các mục đồng. Con xin dâng tất cả các vị cho Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các vị đi về bằng yên. Con xin Chúa ở với các vị luôn mãi và ban ơn cho các vị và gia quyến để chúng con cùng được làm con Chúa như nhau. Con cầu xin như vậy nhân danh Chúa Giêsu là Chúa của chúng con. Amen!” (Lm Phêrô Đan-Minh, Lm GBT Cao Vĩnh Phan Với Định Hướng Truyền Giáo Mới)

Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu hoàn toàn bác bỏ thứ đạo “pháo đài” độc quyền, độc tôn, độc trị, mà rộng cửa đón nhận những người thiện tâm. Điển hình như cố Linh mục GBT Cao Vĩnh Phan thấm nhuần Lời Chúa, đã gần gũi với quý tu sĩ Phật giáo, cùng đồng hành trên đường hy vọng.

Để có thể đến với tha nhân, nhất là đến với anh em ngoài Kitô giáo, Đức Giêsu yêu cầu xả kỷ, bỏ đi chính bản thân, thậm chí chặt tay, chặt chân, móc mắt, bỏ đi những chướng ngại vật, ngăn cản, hay chệch đường đến với Nước Chúa. Rồi Người còn khuyến khích tích cực cho đi, hy sinh, dấn thân phục vụ vì danh Chúa.

Bỏ đi

Dĩ nhiên chẳng có ai ngây ngô hiểu theo nghĩa đen những ngôn từ gay gắt về xả kỷ của Đức Giêsu. Điều quan trọng là Người chẳng ngại biểu lộ một cách cứng rắn, thậm chí quá khích, kịch liệt chống lại tà tâm, tính tham lam và thói bạo lực của con người.

Con mắt vốn là cửa sổ tâm hồn, mà làm dịp tội, chính là con mắt tà tâm, dục vọng, đam mê hưởng lạc, ham muốn xác thịt, sẽ dẫn dắt bản thân lụy vào cạm bẫy nguy hiểm, chìm vào bùn lầy nhầy nhụa, sa đọa, không còn lối thoát. “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5,28) Do đó, cần dứt khoát đoạn tuyệt với tội lỗi, tựa như móc mắt bỏ đi. “Hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục.”

Còn bàn tay tham lam vơ vét chiếm đoạt bao nhiêu cũng chưa đủ. Bàn tay thủ đoạn, chia rẽ, cướp giật, đánh đấm, gian lận, nhám nhúa, tham ô, rút ruột, móc ngoặc, trừ khử, xô đẩy, xua đuổi, khước từ. Đức Giêsu nghiêm khắc cảnh cáo thói tham lam vụ lợi:”Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12,15) Vì thế, “thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt.”

Hơn nữa, cái chân cứng rắn, đấu đá, tranh giành, bạo lực, bất nhân, vô liêm sỉ, leo lên đầu lên cổ thống trị thiên hạ, áp bức người lành, ức hiếp người yếu, chà đạp nhân phẩm. Tuy nhiên những người khốn khổ, bị đàn áp đó lại là chính Đức Kitô ẩn mình, nên đừng để Chúa phải lên tiếng cảnh cáo như với Saulô: “Khốn cho ngươi là kẻ dám đem chân đạp mũi nhọn.” (Cv 26,14) Thế thì, cần can đảm loại bỏ, chặt đứt đi, “thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục.”

Tóm lại, Đức Giêsu khuyên người Kitô hữu hãy buông xả tất cả những gì dính líu, dây mơ rễ má, tham sân si, ngăn chận, cản trở con đường theo Người và đến với anh chị em: “Vậy ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Lc 14,33)

Cho đi

Loại bỏ được những rào chắn, ngăn cách, bất đồng, chia lìa, hay dửng dưng, xa lạ với tha nhân, mới có thể trao cho nhau cái nhìn dịu dàng, nụ cười tươi tắn, câu chào hỏi thương mến. Trước hết đến với nhau bằng tấm lòng chân tình, thái độ cởi mở, thân thiện. Rồi mới có thể quan tâm đến nhau, cư xử lễ độ, lịch sự và tử tế với nhau, thân ái trao nhau một chút quà mọn, một tấm bánh, hay một ly nước, công khai thể hiện tình người và tình yêu Chúa: “Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

Ly nước chẳng đáng giá chi, nhưng tràn đầy tình yêu Đức Kitô, đang ẩn mình trong hình hài tha nhân tầm thường, nghèo khó, bệnh hoạn, cơ nhỡ, côi cút, bị bỏ rơi, đau khổ. Một việc nhỏ, xoàng xĩnh như cho một ly nước còn được khen thưởng hậu hĩnh, huống chi những việc ý nghĩa hơn càng đẹp lòng Chúa biết bao!

Cho đi tương thân tương ái, không đòi hỏi phải làm những việc bác ái, từ thiện hào phóng, quy mô, vĩ đại, mà thường nhật chỉ là những việc trong tầm tay, như chia sẻ, an ủi, khích lệ, giúp đỡ những người gần gũi, khi họ đang có nhu cầu cấp bách và chính đáng, như chăm lo kẻ khốn khó, thất nghiệp, đau yếu, hoạn nạn.

Cho đi tấm gương sáng chứng nhân, chứ đừng cho đi gương mù gương xấu, kẻo làm méo mó, lệch lạc dung nhan Đức Giêsu. Cố gắng cho đi con người đổi mới, nhân ái, tốt lành đã được Đức Giêsu giải thoát khỏi xiềng xích của xác thịt, ma quỷ và thế gian.

Cho đi không chỉ tấm lòng mà còn cả thân xác, sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người, mọi lúc và mọi nơi. “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14,7-8) Mà Thiên Chúa luôn hiện hữu trong tha nhân, nên sống hay chết cho Chúa, cũng là sống hay chết cho tha nhân vậy.

Cho đi thì sẽ được lãnh thưởng bội hậu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6,38)

“Chính lúc hiến mình, con tập biết hiến mình. Vì nói hiến mình dễ, thực sự hiến mình khó; giảng khuyên hiến mình dài, tình nguyện hiến mình ngắn; hô hào hiến mình đông, bền đỗ hiến mình hiếm.” (Đường Hy Vọng, số 609)

Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình. (Kinh Hòa Bình)

Lạy Mẹ Maria nhân lành, Mẹ đã bỏ đi tất cả ý riêng, để hoàn toàn “Xin Vâng” theo Thánh Ý Chúa. Mẹ đã dấn thân sống cho Chúa và cho tha nhân. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, để luôn vinh dự được Chúa ở cùng. Amen.

 

 

home Mục lục Lưu trữ