Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1365633

SA TAN

Satan

Qua báo chí cũng như qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta thấy xã hội loài người đầy dẫy những tội ác và bất công, nào là tham nhũng hối lộ, nào là cướp của giết người, nào là cao bồi du đãng, nào là rượu chè cờ bạc, nào là xì ke ma tuý, nào là ly dị phá thai…

Nếu hỏi tại sao lại có tình trạng bi đát ấy, người ta sẽ không ngần ngại đưa ra những lý do về xã hội, về kinh tế, về giáo dục…Tuy nhiên, có người lại bảo đó là kết quả những việc làm của ma quỷ.

Nghe qua câu trả lời này chúng ta mỉm cười, vì ma quỉ hiện giờ là một cái gì xa lạ đối với não trạng và sự suy tư của con người thời nay. Vậy thì ma quỉ là như thế nào?

Nói tới ma quỉ hay Satan chúng ta liên tưởng tới những hình vẽ, những bức tượng thời Trung cổ, vừa có sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, luôn ám hại chúng ta. Nó có thể dùng một chiếc đũa thần làm cho chúng ta trở nên xinh đẹp, hay biến chúng ta trở thành một nhà triệu phú, miễn là chúng ta bán linh hồn cho nó, miễn là chúng ta thờ lạy nó.

Đối với chúng ta ngày nay, những hình ảnh đó không còn thích hợp nữa. Ma quỉ dần dần mất đi vai trò và sự quan trọng trong cuộc sống. Phải chăng đó cũng là điều nó mong muốn? Chính trong sự lãng quên này mà nó ra tay hành động, làm đảo lộn trật tự và bậc thang giá trị.

Người xưa người ta thường khuyên nhủ:

– Ai không để tâm tới Thiên Chúa, thì ít nữa đừng làm lợi cho ma quỉ.

Thế nhưng, con người thời nay đã thay đổi câu nói trên:

– Ai không để tâm tới ma quỉ thì ít nữa đừng làm lợi cho Thiên Chúa.

Trong Phúc âm thì khác, Chúa Giêsu đã đặt nặng vấn đề ma quỉ, Ngài gọi nó là chủ của trần gian. Hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, mặc dù không thể sa ngã, nhưng Ngài đã để cho ma quỉ cám dỗ, nhờ đó Ngài chia sẻ thân phận yếu đưới với con người, và vạch trần chiến thuật tinh vi của ma quỷ.

Cám dỗ thứ nhất, đó là nhu cầu vật chất. Ma quỉ lợi dụng cái đói tự nhiên để cám dỗ Chúa, bởi vì bụng đói thì đầu gối phải bò, có thực mới vực được đạo…Nó cũng hứa “cơm áo gạo tiền” cùng với những tiện nghi vật chất cho chúng ta, để rồi chúng ta quên mất lý tưởng theo đuổi và chối bỏ đức tin của mình.

Cám dỗ thứ hai, đó là lòng thèm muốn vinh quang. Nhiều người dễ dàng rơi vào chiếc bẫy của nó. Vì một chút địa vị, vì một chút quyền bính mà người ta sẽ dễ dàng bán Chúa như Giuđa và chối Chúa như Phêrô,

Cám dỗ thứ ba, đó là tham vọng thống trị. Đối với nhiều người thời nay thì tiền bạc và chức quyền vẫn là những cám dỗ thường xuyên, họ có thể đánh đổi tất cả miễn sao được thoả mãn những ước vọng kể trên.

Còn một điều nữa chúng ta cũng cần phải lưu ý: Ma quỉ thời nay không còn mặc lấy một bộ dạng xấu xa như người ta vốn thường tưởng tượng vào thời Trung cổ. Nhưng có thể là một nhân vật tầm vóc, với một bộ áo quần sang trọng nhưng lại chủ trương một lập trường, một quan điểm thật nguy hại, gây chia rẽ và đổ vỡ.

Có thể là những tác phẩm đồ sộ được in ấn một cách mỹ thuật và đẹp mắt nhưng lại chất chứa những điều khả dĩ làm lung lạc đức tin và hoen ố tâm hồn.

Bổn phận của chúng ta là phải vạch trần bộ mặt của ma quỷ. Bởi vì ma quỉ đang ở giữa chúng ta, ẩn núp dưới những chiêu bài chính trị, dưới những tờ bích chương, dưới những hình ảnh quảng cáo, dưới những chương trình truyền thanh truyền hình gây độc hại cho tâm hồn.

Vì thế, hãy tin tưởng vào Chúa và hãy tỉnh thức để xa tránh những mưu chước của ma quỷ, nhờ đó mà chúng ta mới có thể bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn.

 

 

31/ Nhận biết

Lần kia, một vị thầy ước muốn được thoáng nhìn thấy tâm hồn của con người và trắc nghiệm những nhận định của họ về chính bản thân mình. Ông mời ba người đi qua đường vào nhà ông. Quay sang người đầu tiên, ông nói “Giả thử anh nhìn thấy một cái túi đựng đầy những đồng tiền vàng, thì anh sẽ làm gì với cái túi đó?”

Người đàn ông trả lời: “Tôi sẽ trả cái túi đó ngay cho người chủ của nó, tất nhiên là tôi phải biết được ai là chủ nhân”.

Vị thầy kêu lên: “Thật là điên rồ?”. Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ hai.

Người đó đáp “Tôi sẽ không trả lại cái túi đó cho người chủ của nó, mà bỏ ngay vào túi của tôi. Tôi không quá ngu xuẩn đến nỗi để mặc cho thứ của cải từ trời rơi xuống đó trượt khỏi tay tôi như vậy đâu “.

Vị thầy kêu lên: “Đồ vô loại!”. Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ ba.

Người đó đáp “Thưa thầy, làm sao tôi có thể biết được là tôi sẽ làm gì trong trường hợp này? Liệu tôi có khuất phục được khuynh hướng xấu xa chăng? Hoặc sự dữ sẽ nhanh chóng chế ngự tôi, và khiến tôi cứ lấy đi thứ tài sản thuộc về người khác? Tôi không biết nữa. Nhưng nếu có ơn Chúa ban sức mạnh cho tôi chống lại khuynh hướng xấu, thì tôi sẽ trả số tiền đó lại cho người chủ của nó”. Vị thầy kêu lên: “Những lời nói của anh thật là hay. Quả thật anh là một con người khôn ngoan”.

Vị thầy cho rằng người đàn ông đầu tiên là điên rồ. Tại sao? Bởi vì anh ta hoàn toàn thiếu sự nhận biết bản thân mình. Anh ta dám cho rằng mình có đủ sức mạnh, để kháng cự lại chước cám dỗ giữ lại món tiền. Không ai biết chắc chắn rằng mình không thể sa ngã được. Người ta không sa ngã bởi vì yếu đuối, nhưng lại sa ngã là do họ nghĩ rằng mình mạnh mẽ.

Vị thầy gọi người đàn ông thứ hai là hạng vô loại, bởi vì anh ta có ý định giữ lại tài sản không phải thuộc về mình, mà lương tâm không hề day dứt chút nào. Đối với một con người như vậy, chước cám dỗ là một cơ hội để làm cho mình giàu có lên, bằng tài sản của người khác.

Vị thầy khen ngợi người đàn ông thứ ba là một con người vừa tốt bụng, vừa khôn ngoan. Đó là vì anh nhận biết rằng mình yếu đuối giống như tất cả mọi người khác. Anh hy vọng rằng khi đương đầu với chước cám dỗ giữ lại số tiền, thì anh sẽ có sức mạnh để làm được điều đúng đắn. Nhưng anh biết rằng để làm được như vậy, anh cần phải có ơn Chúa giúp, và anh chuẩn bị để tìm kiếm sự giúp đỡ đó.

Tất cả chúng ta đều yếu đuối và dễ sa ngã. Đây có thể là một sự thật gây bối rối, nhưng trong khi liều lĩnh, chúng ta lại không biết đến điều này. Vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta là chúng ta đã thất bại trong việc nhận biết chính mình, trong việc nhận ra sự dữ và đối phó với sự dữ ở ngay trong con người mình. Tuy nhiên, khi nhận biết và chấp nhận sự thật thấp hèn này, thì chúng ta có được một niềm an ủi và sự tự do.

Chúng ta phải đấu tranh chống lại sự dữ nơi những người khác và nơi xã hội. Nhưng cuộc đấu tranh gay go nhất là chống lại sự dữ phát xuất từ ngay bên trong con người của chúng ta. Bản chất của chúng ta là có những xung đột nội tâm cứ thúc giục chúng ta, làm cho chúng ta luôn luôn có thể thực hiện được điều tốt lành, nhưng điều đó không bao giờ là dễ dàng cả. Chiến thắng gay go nhất chính là chiến thắng chính bản thân mình.

Chước cám dỗ của Đức Giêsu không phải là đóng kịch, mà là sự thật. Những cám dỗ của Đức Giêsu là những chước cám dỗ của các Kitô hữu thuộc tất cả mọi thời đại: sống chỉ vì vật chất; tìm kiếm vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa; và từ bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa, để tôn thờ quyền lực và sự nổi tiếng theo thế gian.

Chiến thắng của Đức Giêsu vượt lên trên Satan không phải là chiến thắng một lần cho tất cả. Người đã chiến thắng một cuộc chiến đấu, chứ không phải là một cuộc chiến tranh. Còn có những lần tấn công khác mà chúng ta cần phải cự tuyệt. Một số người cho rằng mình sẽ đạt được một cấp độ, khi họ vượt ra ngoài chước cám dỗ. Đức Giêsu không bao giờ đạt được một cấp độ, các thánh cũng vậy. Thiên Chúa ở với chúng ta trong những cuộc đấu tranh của chúng ta, giúp đỡ chúng ta chế ngự nó.

Thánh Augustinô nói: “Chính thông qua chước cám dỗ, mà chúng ta nhận biết được bản thân mình. Chúng ta không thể chiến thắng đạt được triều thiên của mình, trừ phi chúng ta vượt qua được chước cám dỗ đó, và chúng ta không thể vượt qua được, trừ phi chúng ta đi vào cuộc chiến đấu, và không có cuộc chiến đấu, trừ phi chúng ta có một kẻ thù và những chước cám dỗ mà kẻ thù đó mang lại.

 

 

32/ Cám dỗ

Một số người cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dù quỉ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái gì?

Chước cám dỗ đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỉ đang nói với Đức Giêsu là hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính của Người là nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa. Đây là chước cám dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ. Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình thực sự cần đến.

Chúng ta có những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói “Các ngươi đừng làm việc vì của ăn không thể tồn tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.

Đối với một vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng ta bỏ qua đời sống đó.

Chước cám dỗ thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng thống trị người khác, hơn là trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình yêu bằng quyền lực.

Chước cám dỗ thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự gieo mình xuống khỏi đền thờ), nhằm khơi gợi lòng tin – giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của Người.

Trong suốt sứ vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thấp giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.

Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế. Cả ba chước cám dỗ cuối cùng đều qui về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.

Kinh nghiệm này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.

Chước cám dỗ không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi, không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại mỗi khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỉ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông ấy”.

Tất cả những ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp, đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân theo Lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.

 

 

33/ Cơm bánh

Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống – cuộc sống của thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng ta cần có lương thực. Linh hồn của chúng ta cũng vậy. Linh hồn chúng ta đang khát khao lương thược nuôi dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.

Elvis trở nên rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơi, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 tivi, một toà lâu đài rộng lớn và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.

Anh giãi bày tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều chuyện nhức đầu”.

Mẹ của anh rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có con.

Càng ngày, anh càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.

Thông điệp này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh – ít nhất là không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.

Bạn hãy thử tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ, mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.

Nếu chỉ có cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina Ratushikaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản ở Nga (với tư cách là tù nhân chính trị). Bà nói “Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy nhiên, họ vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn sống được? Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.

Không phải chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.

Đức Giêsu thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn khát khao loại lương thực không thể hư nát – Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.

 

 

34/ Cám dỗ

Thánh Grêgôriô Giáo Hoàng đã viết như sau: Hết mọi ngày trong năm, lòng đạo đức của người tín hữu được diễn tả bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng không hình thức nào quan trọng cho bằng lễ Phục sinh. Bởi vì chính từ sự Phục sinh mà xuất phát tính cách thánh thiện của các lễ khác. Với tất cả nguồn ân sủng vũ trụ đã nhận được đều do bởi cây thập giá của Chúa. Lẽ cố nhiên đó, mừng ngày lễ Phục sinh và để tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa, chúng ta chuẩn bị bằng 40 ngày ăn chay quả là một việc chính đáng. Không riêng gì các Giám mục, linh mục, các phó tế có nhiệm vụ thanh tẩy mình khỏi tội lỗi mà cả toàn thể Giáo Hội. Tất cả mọi người vì là đền thờ của Thiên Chúa phải được tráng lệ trong từng hòn đá huy hoàng, trong từng góc một. Hiểu như thế chúng ta mới ý thức được tính cách nghiêm cẩn và khổ hạnh trong suốt thời gian mùa chay mà chúng ta khai mạc từ thứ tư lễ tro.

Mùa chay là thời kỳ đi bộ, phải vất vả nhọc nhằn mà mục đích là hy sinh chịu khó thanh tẩy để tham dự vào chặng đường khổ nạn của Chúa Kitô. Những hy sinh khổ hạnh trong mùa chay được diễn tả trong hai bài đọc và trong bài Phúc âm của thánh lễ Chúa nhật I Mùa chay. Cuộc đi bộ, cuộc hành trình trong 40 ngày của mùa chay được ví như là cuộc hành trình gian lao đau khổ của dân Do thái trong những năm bị nô lệ bên Ai Cập, bị dân bản xứ hành hạ mạt sát tàn nhẫn.

Trong thời gian nô lệ, dân Do thái đã kêu gào Thiên Chúa nhìn lại số phận đau thương của họ. Quả thật, Chúa đã đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn vào một xứ sở phồn thịnh, nơi đó sữa và mật ong trôi chảy dồi dào.

Quan điểm trên đây thánh Phaolô trình bày lại theo lối văn linh động của ngài bằng quan niệm đức tin, và thực ra đức tin cũng là một lời cầu khẩn lên Thiên Chúa. Chỉ Ngài mới có quyền năng cứu thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

Quan niệm đức tin còn tiếp diễn trong bài Phúc âm của Chúa nhật I Mùa chay được thánh Luca diễn tả: Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu từ sông Giocđan trở về, sau đó Chúa Thánh Thần đưa Ngài đến hoang địa, tại đây Chúa bị cám dỗ trong vòng 40 ngày, nghĩa là Chúa bị ma quỉ quấy phá sau khi đã chịu phép rửa của thánh Gioan, tức là sau khi Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên bố: “Đây là Con Ta yêu dấu”.

Satan biết rằng, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa có quyền năng có thể thực thi những dấu chỉ lớn lao, do đó Satan đến cám dỗ Chúa hãy hành động theo uy quyền của một vị cứu thế theo nghĩa trần gian oai phong lẫm liệt. Hai lần Satan xúi giục Chúa theo danh nghĩa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” Các loại cám dỗ ỷ vào uy thế Thiên Chúa này còn theo mãi cho đến ngày Chúa chịu tử nạn. Chúa đã bị treo trên thập giá rồi mà ma quỉ còn dùng miệng dân chúng để thử thách Chúa một lần sau cùng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa lựa chọn thì hãy tự cứu mình đi”.

Ma quỉ cám dỗ Chúa đi ra ngoài chương trình của Thiên Chúa Cha đã tiền định. Nó xúi giục Ngài là một vị cứu thế theo quan điểm của một người trần gian được người ta hoan hô, chứ không theo ý định của Thiên Chúa. Do đó mà Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỉ khi Ngài nhắc đến lời Kinh Thánh có chép rằng, hãy minh chứng cho thế giới và toàn thể nhân loại biết sở dĩ Chúa xuống trần gian là để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha, và sau đó Ngài đã chiến thắng ma quỉ là Ngài đã tin vào lời của Thiên Chúa Cha.

Cơn cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là tiêu biểu cho sự cám dỗ ngàn đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta trên trần gian này. Ma quỉ xúi giục chúng ta chọn nếp sống tiện nghi, dễ dàng thực thi những gì theo ý muốn riêng tư của mình, chứ không phải sống theo lề luật là thực thi thánh ý của Thiên Chúa.

Trong mùa chay này, chúng ta có nhiệm vụ thanh luyện chính mình để xứng đáng được tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Phục sinh. Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trong cuộc hành trình biến đổi này.

 

 

35/ Cám dỗ

Cách đây vài năm, ngay tại giữa thủ đô Paris của nước Pháp, xuất hiện một Đan viện dòng Trapis, một dòng tu có nếp sống khắc khổ nghiêm ngặt. Người ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao một dòng tu vốn có truyền thống rất lâu đời lại chọn những địa điểm xa cách thành thị để lập những Đan viện, nhờ đó các Đan sĩ hưởng được bầu khí thanh tịnh thoát tục, nối tiếp tinh thần của các ẩn sĩ ngày xưa trong sa mạc hoặc trong rừng vắng, nay lại hiện diện giữa chốn đô thị rực rỡ ánh sáng văn minh, sôi động nhịp sống chính trị, kinh tế và văn hoá này? Phải chăng dòng tu nay đã thay đổi đường hướng cho hợp thời, hợp hoàn cảnh?

Vị viện phụ của Đan viện nói trên đã trả lời như sau:

Dòng vẫn trung thành với truyền thống đan tu và thoát tục của mình trong việc lập một Đan viện ngay giữa chốn phồn hoa đô hội này, bởi vì tại những địa điểm ồn ào, náo nhiệt như vậy chúng tôi khám phá ra một bộ mặt mới của hoang mạc, của rừng rú, của thử thách để nêu một chứng từ, để cất lên một tiếng kêu thức tỉnh.

Nếu như ngày nay Đức Giêsu cần một hoang địa để chay tịnh, cầu nguyện và chịu thử thách, Người có lẽ không phải nhọc công đi đâu xa, nhưng có thể đến bất kỳ một trung tâm thành phố nào trong xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ của thời đại chúng ta. Bởi lẽ theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là địa điểm của thử thách, của sàng lọc, thanh luyện như dân Israel xưa phải vượt qua hoang địa trước khi được vào đất hứa.

Phải chăng xã hội hiện đại của chúng ta hôm nay lại không đầy dẫy tình chất thách đố cam go, sàng lọc và thanh luyện dữ dội như bất kỳ một hoang địa nào thời xưa. Đây là nơi chạm trán của tứ chiếng anh hùng, của đủ mọi bộ mặt, mọi tâm dạ, mọi thủ thuật, mọi mánh lới, mọi chiêu bài, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi thiên thần và mọi gã quỉ ma vương. Đây là nơi vàng thau lẫn lộn, chân tình và dối trá, trung nghĩa và dua nịnh, can trường và hèn nhát, ánh sáng và bóng tối, thánh thiện và tội lỗi, yêu thương và thù hận.

Cũng theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là thế giới của thú dữ, của rắn rết, bọ cạp, là vùng đất chết nơi con người không thể sinh sống, tồn tại. Phải chăng thế giới văn minh hiện nay của chúng ta lại không đầy dẫy những loài thú ăn thịt người, những loài giống rắn hổ mang, những dòng bọ cạp hiểm độc nguỵ trang dưới bộ mặt con người xinh đẹp, sang trọng, học thức, đạo đức, nhân nghĩa? Phải chăng xã hội thừa mứa tiện nghi vật chất của chúng ta hiện nay lại không là một vùng đất chết khi không còn tình người, không còn trái tim trắc ẩn, không còn lòng nhân ái vị tha, không còn tình cảm chia sẻ đùm bọc mà chỉ toàn là lợi dụng, trao đổi, mua bán, vụ lợi, thực dụng, lạnh lùng và sơ cứng?

Phải chăng xã hội văn minh phồn hoa đô hội của chúng ta hiện nay lại không phải là một bãi tha ma khi mà mọi giá trị tinh thần, mọi truyền thống đạo đức đều bị chôn vùi dưới nấm mồ của chủ nghĩa sùng bái vật chất, chủ nghĩa thụ hưởng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vô thần?

Phải chăng xã hội vốn tự hào là đỉnh cao trí tuệ, với khoa học kỹ thuật hùng hậu lại không đang biến thành cõi rừng rú nơi bạo lực được cổ xuý, hận thù được cấp dưỡng, hành vi sát nhân được trả lương, tuyên dương, dù nạn nhân là những trẻ em vô tội, những bào thai chưa kịp nhìn thấy mặt cha mẹ, nơi người nghèo bị khinh miệt, người già yếu tật nguyền bị bạc đãi lãng quên, người thiểu số bị tước bỏ quyền lợi về kinh tế, chính trị?

Nếu như ngày nay Đức Giêsu bước vào hoang địa mới của xã hội loài người hiện đại để bắt đầu cuộc tịnh chay và cầu nguyện, Người có lẽ sẽ không còn gặp những thử thách quá đơn giản và kinh điển về thói mê ăn, tính háo danh và lòng tham lam của cải, thay vào đó Người có lẽ phải đối đầu với trăm ngàn tình huống, trường phái phức tạp tinh vi hơn nhiều. Đó là vấn đề miếng cơm manh áo hằng ngày giữa một thị trường kinh tế toàn cầu hoá, không có đất sống cho tôm tép, cho con sâu chú kiến, mà chỉ có hạng kình ngư cá mập, hùm beo làm mưa làm gió. Đó là nỗi cám dỗ khó chống cưỡng, muốn làm giàu cách nào dễ dãi nhất, ít vất vả nhất, nhanh chóng nhất, dù có thể là vô luân nhất, dơ bẩn nhất như buôn lậu vũ khí, ma tuý, buôn người và rửa tiền.

Có thể trong bối cảnh hoang địa đời mới này, Đức Giêsu sẽ phải dấn thân vào một cuộc chiến đấu cam go và phức tạp gấp trăm ngàn lần hơn và cũng sẽ kéo dài trăm ngàn lần hơn. Có thể Đức Giêsu sẽ phải chật vật trăm ngàn lần hơn khi đối đầu với một Satan trong một bối cảnh xã hội văn minh, kỹ thuật cao, tinh xảo cực kỳ hôm nay. Và có thể Người sẽ phải cô đơn một mình chống lại Maphia trăm ngàn lần bi đát hơn, vì không dễ tìm ra ai đó trong cõi hoang mạc rừng rú của xã hội hôm nay để đóng vai thiên thần đến động viên tiếp sức thêm cho Người.

Rồi có thể trong cuộc chiến với Satan thời đại khoa học điện tử hôm nay, Đức Giêsu sẽ không còn một giây phút rảnh rang để thở, để cầu nguyện, để thân thưa cùng Thiên Chúa Cha, để nhớ lấy một câu Kinh Thánh mà củng cố đức tin cho mình, vì ma quỉ không còn nghỉ giữa hiệp đấu để chờ đợi cuộc tấn công khác như xưa nữa, mà tranh thủ liên tục cả ngày lẫn đêm, luôn cả dịp hưu lễ.

Có thể trong cuộc chiến đấu này, cuối cùng rồi Đức Giêsu sẽ chiến thắng Satan như Người đã từng chiến thắng và sẽ mãi mãi chiến thắng, song còn những kẻ muốn thực sự theo bước Người vào cuộc chiến đó trong bối cảnh của thế giới, của xã hội hôm nay thì chiến thắng vẫn còn là một ẩn số, một thách đố. Vì thế, chúng ta cần phải giữ vững niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh tin kính.

home Mục lục Lưu trữ