Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 57

Tổng truy cập: 1367594

SỰ CAO CẢ CỦA KITÔ HỮU

SỰ CAO CẢ CỦA KITÔ HỮU (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết.

Một lần nữa, chúng ta lặp lại đề tài Chúa muốn ẩn thân. Đức Giêsu không được người ta hiểu, bị đám đông dân chúng bỏ rơi, bây giờ hoàn toàn chỉ chăm lo cách riêng vào việc đào tạo một số môn đệ của Người.

Phát xuất từ những vùng miền Bắc đi về miền Xêxarê Phi-líp-phê, ở nguồn sông Giođan, Đức Giêsu tiến gần về Giê-ru-sa-lem. Người băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Người đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Người không tìm dịp nói chuyện trước công chúng. Người chỉ nói với các tông đồ, là mầm mống của cộng đoàn Kitô hữu tương lai và những gì Người sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo Hội.

Vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời”.

Trong khi Đức Giêsu không muốn người ta dùng tước vị “Con Thiên Chúa”. Người luôn đúng, nhất là trong giai đoạn thứ hai đời sống tác vụ của Người, tước vị “Con Người”. Ngược lại những gì thoạt tiên chúng ta có thể nghĩ, đây không phải là việc nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu. Thực tế, những Kitô hữu đầu tiên, phát xuất từ đạo Do Thái đã gán cho tước vị này một ý nghĩa sâu đậm: Đối với họ, tước vị này ám chỉ Đấng Mêsia do ngôn sứ Đanien đã báo trước (7,13-14). “Con Người” này có nguồn cội từ trời, Người từ trên mây trời mà xuống… Người đến nhân danh Thiên Chúa để hoàn tất công trình của Chúa.

Chúng ta thấy cách nói của Đức Giêsu muốn điều chỉnh lại ý niệm mà các tông đồ đã có về Đấng Mêsia. “Con Người Thần Thánh” từ trên mây trời hiện đến cách vinh quang mà các bạn đang mơ ước, thì Đấng đó sẽ bị giao nộp không chút tự vệ “vào tay loài người”. Các bạn chớ nhầm lẫn Đấng Mêsia, chớ nhầm lẫn Thiên Chúa! Đức Giêsu thực sự do Thiên Chúa mà đến, nhưng không phải là Đấng mà loài người thường tưởng nghĩ.

Bị giao nộp.

Một Thiên Chúa ‘bị giao nộp’, một Thiên Chúa được ‘tăng ban’, một Thiên Chúa ‘Tình yêu’ chứ không phải một Thiên Chúa toàn năng, toàn quyền. Chúng ta tin không phải ở một Thiên Chúa toàn năng, nhưng là một Người Cha Toàn Năng, tin ở Đấng đã trao hiến hết mình, Đấng đã giao nộp mình vì chúng ta, mà Thập giá của Đức Giêsu là “mạc khải” rõ ràng và dứt khoát.

Cụm từ “bị giao nộp vì chúng ta” là những từ chủ yếu trong khoa thần học ban sơ. “Bị giao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25).

“Người đã không tha chính con của Người, mà đã giao nộp cho tất cả chúng ta” (Rm 8,32).

“Người đã thương yêu và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20).

“Anh em hãy sống trong tình bác ái như Chúa Kitô đã thương yêu chúng ta và đã nộp mình” (Ep 5,2).

“Chúa đã giao nộp Người vì tội của chúng ta” (Is 53,2).

Chứng từ này được nhắc lại cho chúng ta mỗi khi cử hành Thánh Thể; “Đây là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.

Họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại.

Kể từ lúc Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêxarê Phi-líp-phê, thì đây là việc loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó. Toàn thể Tin Mừng của Maccô dẫn đưa chúng ta đến chóp đỉnh này: Sự tử nạn và Phục sinh. Đó là trọng tâm kinh Tin kính của chúng ta: Hai biến cố lịch sử. Đây thật là tiểu sử lạ lùng của một con người. Không phải sự sống của Người là quan trọng mà là “cái chết” của Người và việc Người “sống mãi”. Chúng ta không thể không lưu ý con người đó luôn luôn báo trước, cùng một lúc và một cách bình tĩnh rằng, Người sẽ “sống lại” sau khi chết. Đó cũng như Người coi cuộc sống thứ nhất của Người ở Palestine thời đó, không phải là cuộc sống quan trọng nhất.

Ngày nay, chúng ta có thực sự tin rằng Đức Giêsu vẫn đang sống không?

Mầu nhiệm Phục sinh là cốt yếu của Đức tin chúng ta. Và đó là đặc quyền duy nhất và căn cốt của Đức Giêsu. Không có một vĩ nhân nào khác dám tự phụ giải phóng được con người, khỏi định mệnh cuối cùng, là cái chết. Cả Đức Phật và Mahômét hay bất cứ một chủ thuyết nhân bản nào khác, cũng không đưa ra được một giải pháp trước thái độ lo âu lớn lao của con người luôn biết mình sẽ phải chết. Chỉ có Đức Giêsu, một cách bình tĩnh và chân thành đã dám nói: “Họ sẽ giết Tôi, nhưng Tôi sẽ sống lại”.

Đó là ánh sáng chủ yếu Chúa đã soi chiếu trên cái chết: Đức Giêsu biết rằng đó không phải là chấm dứt tất cả. Người biết những gì đang chờ đợi Người. Khi trải qua giây phút bi thảm của “hơi thở cuối cùng”, Đức Giêsu biết rằng Người không rơi vào hố đen của hư vô, nhưng vào vòng tay của Chúa Cha. Và điều đó đã dệt nên bài ca hy vọng của người Kitô hữu trong nghi thức từ biệt cuối cùng với người chết: “Chúa Cha đợi bạn, và cánh tay của Thiên Chúa sẽ mở ra đón bạn”.

Chúng ta cứ tin chắc rằng cái chết là như vậy không? Đây là sứ điệp của mọi người tử vì đạo. Đó là niềm tin vững chắc của những tín hữu đích thực. Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Chúa. Tin Mừng không hề tô vẽ cho các tông đồ. Đó cũng là những con người đáng thương như chúng ta. Thánh Maccô không những nhấn mạnh đến trí óc trì trệ, nông cạn, hẹp hòi của các ông. “Họ không hiểu”(Mc 6,52; 8,17; 8,21; 9,32). Do đó nhóm Mười Hai là một tiêu biểu cho những con người thông thường, trung bình. Người ta tự hỏi làm sao Giáo Hội và suốt dòng lịch sử vĩ đại của Giáo Hội, lại phát sinh từ những tưởng tượng và dự án của các tông đồ được. Quả thực các ông đã được một biến cố thay đổi. Các ông đã được nâng lên cao khỏi chính mình, và được một sức mạnh mới bao bọc. Và luôn diễn ra như thế đối với Giáo Hội.

Nếu chỉ là một Giáo Hội của loài người, thì Giáo Hội đã bị tiêu diệt từ lâu bởi những khiếm khuyết và tội lỗi của các nhà lãnh đạo và thành phần của Giáo Hội. Nhưng chúng ta có nên xét đoán Giáo Hội đơn thuần theo quan điểm của con người không?

Trong lúc này, các tông đồ đã sợ Đức Giêsu và họ giữ một thứ im lặng đến khó chịu “họ đã sợ không dám hỏi Chúa”.

Đức Giêsu và các môn đệ đến thành phố Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?”. Các ông làm thinh.

Các ông chưa nói được lời nào. Các ông giữ im lặng trước câu hỏi của Chúa. Sự “lúng túng” giữa họ trở nên nặng nề như trong một nhóm mà người ta không còn đồng ý với nhau nữa.

Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau về chuyện ai là người lớn hơn cả.

Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của họ!

Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, khiến Người “giao nộp” mạng sống. Còn các ông thì chỉ nghĩ đến những “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Mêsia, và về Thiên Chúa. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Mêsia, một vương quốc trần gian, mà các ông đã tranh luận xem ai là “thủ tướng” khi Chúa và các ông thắng thế.

Nhưng xin các bạn đừng quá nghiêm khắc xét đoán việc các Ngài không hiểu vai trò của Chúa Giêsu. Mặc dù đã được soi dẫn với ánh sáng Phục sinh, ngày nay, chúng ta có thể nói rằng mình chấp nhận sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa, sự im lặng của Người, sự thất bại của Thập giá không? Chúng ta không tiếp tục xin Chúa can thiệp để chiến thắng sao?

Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.

Trong cuộc thương khó mà Chúa vừa loan báo, Chúa Giêsu đã tự hạ thành “kẻ sau rốt và là “đầy tớ” của mọi người. Thực sự, Thiên Chúa là như thế. Tại sao lời khẳng định này lại có vẻ như một cậu phạm thượng đối với một số người? Đúng ra, Thiên Chúa là Đấng trên hết, cao cả nhất, nhưng Chúa cũng là “Người đứng đầu trong phục vụ”, Người đứng đầu trong tình yêu.

Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa và điều đó phải lắm, vì Ta đúng là như thế, thế mà Ta đã rửa chân cho các con, như một người đầy tớ” (Ga 13,13). Thiên Chúa thực sự là Đấng Toàn Năng, nhưng là Toàn Năng để “phục vụ đến cùng”. “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,42-45).

Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ trật tự này: Người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.

Nhưng một lần nữa, đó không phải là để làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chữ” mà thôi! ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, giúp chế ngự xu hướng tranh đấu không ngừng giữa loài người, để thống trị để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.

Người dắt một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai đón tiếp một em nhỏ như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

Trong những tập thể chúng ta sống, trong lòng chúng ta và trên thế giới, bạo lực không ngớt gia tăng. Trong cơn thủy triều đen tối đang dâng lên như thế, Đức Giêsu đề nghị cách tượng trưng sự yếu đuối của đứa trẻ như một lý tưởng. Đứa trẻ là sinh vật nhỏ bé trong xã hội, ít được kính nể, và người ta gạt bỏ nó dễ dàng, kể cả bằng cách tội lỗi mà lại hợp pháp. Đứa trẻ đúng là kẻ “nghèo hèn”, không tự vệ được, “bị giao nộp” cho những kẻ mạnh mẽ quyền thế hơn nó. Nhưng Chúa lật ngược những tiêu chuẩn xã hội về quan niệm ngôi thứ: Người ta nói, kẻ sau rốt là kẻ đứng đầu. Bây giờ Người nói tiếp, dưới mắt Thiên Chúa kẻ nhỏ bé lại là người lớn nhất. Đức Giêsu đặt đứa trẻ ở giữa cộng đoàn Kitô hữu.

Tôi dành ít thời giờ để niệm tưởng hình ảnh Đức Giêsu đang vuốt ve và ôm ấp đứa bé này. Sự cao cả của Kitô hữu được đo nghiệm theo phẩm chất của việc phục vụ những người “thấp hèn” nhất, những kẻ kém may mắn nhất. Chúng ta sẽ bị xét đoán theo tiêu chuẩn đó (Mt (25,31). Vả lại, đây không phải là một sự “nô lệ”, vì chúng ta phục vụ Đức Giêsu khi chúng ta phục vụ những kẻ thấp hèn. Và qua Đức Giêsu, chúng ta phục vụ chính “Đấng” đã tạo nên thế gian và đã trao ban Con Một của Người.

(*)  Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B

AI LÀ NGƯỜI LỚN NHẤT – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

*1. ‘Trên đường’, một lời loan báo làm hoang mang.

Ngay sau khi Phêrô tuyên tín ở miền Xê-sa-rê Phi-lip-phê, lần đầu tiên, Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó và sống lại của Người (Mc 8,27-31). Sau cuộc hiển dung trên núi cao (9,2-8), Chúa đang băng qua miền Galilê cùng môn đệ. “Người không muốn cho ai biết, thánh sử ghi rõ, bởi vì từ này Người muốn dùng thời gian để huấn luyện các môn đệ. Người cố gắng hướng dẫn các ông chấp nhận cái viễn tượng đảo lộn hướng tư duy là: một Đấng Mêsia bị chính dân Người ruồng bỏ.

‘Trên đường’ (câu 33), địa điểm tượng trưng cho cuộc hành trình về Giêrusalem, Người giáo huấn họ bằng cách nhắc lại lời loan báo lần trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” Từ ngữ Chúa dùng hầu như giống hệt lần trước.

Cũng như ở câu 8,31, Đức Giêsu nói về chính mình bằng cụm từ “Con Người”, một nhân vật bí nhiệm và uy quyền, mà ngày tận thế sẽ đến trên đám mây để phán xét loài người (Đn 7,1 3-14).

– Nhưng khác lần trước, lần đó, Chúa loan báo Người sẽ phải “chịu đau khổ nhiều” “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ”, còn ở đây, Người chỉ nói “bị nộp vào tay người đời”, giống những vị tử đạo trong Cựu ước bị nộp vào tay quân bách hại (Gr 26,24; Tv 71,4; Tv 1401 Đn 7,22).

Khi áp dụng cách nói này cho chính mình, Đức Giêsu coi cuộc khổ nạn của Người giống với cuộc bách hại các ngôn sứ và người công chính trong Cựu ước phải chịu; và Người cũng như bước trên con đường trung tín với Thiên Chúa đến tận cái chết.

“Bị nộp”. Đức Giêsu quả thật đã bị Giuđa nộp cho các thượng tế (14,10): bị các thượng tế nộp cho Philatô (15,10) và sau cùng bị Philatô giao nộp cho lý hình (15,15).

Một chi tiết đáng ngạc nhiên: Đức Giêsu nói về cuộc khổ nạn của Người thì hiện tại: Con Người bị nộp vào tay người đời”. Chắc chắn thánh sử muốn chỉ một tương lai gần, khi dùng thì hiện tại. Nhưng cũng có thể ông muốn nói rằng kế hoạch cứu độ: của Chúa Cha đã bắt đầu được thực hiện, tuy không thấy nhưng cũng không thể đảo ngược.

Các môn đệ vẫn một mực nghe mà không hiểu. Hervieux giải thích: Vẫn là vấn đề không hiểu của các môn-đệ trước những cố gắng của Đức Giêsu, khi Người muốn đưa các ông vào mầu nhiệm cuộc đời Người. Như ta đã thấy, Phêrô đã tỏ thái độ phản loạn đích thực khi nghe loan báo về cái chết của Chúa (8, 32) Còn lần nầy, tâm trí kín mít của các môn đệ được tỏ rõ bằng cách các ông không dám hỏi Thầy, không dám bàn tiếp với những thử thách đang chờ đợi Thầy. Qua đó, chúng ta thấy rằng trực diện với cái chết khó chừng nào! (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 133).

*2. ‘Ở nhà’, lời dạy gây kinh ngạc.

Giờ đây chúng ta ở Ca-phác-na-um tức là “ở nhà”, địa điểm tượng trưng cho những cuộc trò chuyện kín đáo, chủ ý dạy dỗ các với cương vị một tôn sư dầy dạn kinh nghiệm, Người hỏi các môn đệ về đề tài mà trên đường các ông đã tranh luận sôi nổi, những cuộc tranh luận mà người ta thường coi là quan trọng trong quá trình huấn luyện của các vị tôn sư. Các ông không dám nói sự thật nên ngậm miệng làm thinh. Bởi vì trong khi Thầy mình loan báo về con đường khổ nạn sắp tới, thì các ông chỉ tranh luận về ngôi thứ, về vinh dự: “Các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả “.

Rồi, Đức Giêsu ngồi xuống gọi “Mười Hai ông lại”. “Mười Hai ông” một danh xưng hiếm thấy nơi Máccô (3,14; 6,7), điều đó nghĩa là giáo huấn mà Chúa sắp nói đây nhằm nhóm các Tông đồ, những người nắm giừ trọng trách trong Giáo Hội tương lai. Giáo huấn này đảo lộn ngôi thứ thường tình trong phẩm trật nhân loại: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.

Hervieux giải thích: Chúa lấy ‘người rốt hết’ đối chọi với ‘người đứng đầu’, lấy ‘người đầy tớ mọi người’ đối chọi với ‘người cai quản’. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người (Sđd, trang 35).

– Và để biết chắc mọi môn đệ đều hiểu, Chúa đã soi sáng lời nói bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa. Thời đó người ta coi trẻ nhỏ là “đồ bỏ” vậy mà Đức Giêsu đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.

Hervieux giải thích tiếp: Cử chỉ này có một tầm quan trọng không ngờ. Đem một em nhỏ đặt vào giữa nhóm môn đệ và ôm hôn nó: các cử chỉ này đều đi ngược phong tục hồi đó. Xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Trái lại, thay vì đối xử với chúng như những người sẽ lớn, người ta coi chúng như “vô giá trị”, như đồ bỏ. Tục lệ còn dạy người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo vì chúng không hiểu biết Lề Luật (Sđd, trang 135- 136).

Như vậy, đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ, em nhỏ ở đây tượng trưng cho những người nghèo, những người bị loại trừ, Đức Giêsu đã trả lời rõ ràng cho vấn đề các ông tranh cãi lúc đi đường: “Ai là người lớn nhất?” – “Tìm kiếm vinh dự là điều trơ trẽn nơi những người theo Đức Giêsu, lúc người đang bước vào con đường khổ nhục của cái chết. Làm “đầy tớ ” mọi người mở cửa pháo đài Hội Thánh cho những người hèn kém nhất, những người nghèo đói nhất, đó là “dịch vụ” mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải thi hành. Để thêm trọng lượng cho giáo huấn này, Đức Giêsu kết luận bằng từ “đón nhận”: Người là Đấng Chúa Cha sai đến. Đón nhận Người qua những ai nhỏ bé là đón nhận chính Chúa. Thiên Chúa mặc hình dáng một trẻ nhỏ đó là một sứ điệp bất ngờ, rất độc đáo của trang Tin Mừng đẹp đẽ hôm nay (Sđd trang 136).

BÀI ĐỌC THÊM

*1. Thang giá trị mới (Đức Cha L. Daloz trong “Qui don est-il?”, DDB, trang 55-56).

Đây là lần thứ hai Đức Giêsu loan báo cho môn đệ điều sẽ xảy đến cho Người. Người biết mình sẽ đi về đâu và người nói không úp mở về cái chết gần kề và sự sống lại của Người. Phải chăng Người đã phải chịu nỗi lo âu về cuộc khổ nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này?”. Người còn lo lắng hơn không hiểu gì và họ sợ không dám hỏi Người. Phải chăng họ cũng tiên cảm được mối nguy đang rình chờ? Chúng ta đôi khi cũng không hiểu Đức Giêsu nói gì. Có lẽ vì ta sợ phải hiểu chăng? Qua im lặng, các môn đệ bình thản ở lại trong sai lầm: Nước Trời mà họ mơ tưởng là nước mà ở đó họ đóng vai ông lớn, là nơi mà họ tranh cãi xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất. Khi Đức Giêsu hỏi họ: “Lúc đi đường các anh đã tranh luận gì thế?”, họ làm thinh. May thay, Đức Giêsu dịu dàng và kiên nhẫn loại bỏ sự im lặng và suy nghĩ sai lầm của họ. Vương quốc của Chúa là vương quốc của người phục vụ, là nơi người trước hết trở nên rốt hết, người nhỏ bé nhất trở nên người lớn nhất. Đức Giêsu hiểu rất rõ bản tính con người. Người không cho phép các môn đệ giam mình trong sự thinh lặng để che giấu nỗi sợ hãi và tham vọng. Người đi bước đầu, loan báo, chất vấn, giải thích. Rồi Người đặt một em bé ở giữa các ông, để tỏ cho các ông thang giá trị mới, nó bắt nguồn từ tình yêu đối với Chúa Cha”.

*2. “Ai là người lớn nhất?” (Noel Quesson, trong “Les entretiens du Dimanche. Année B”, Droguet & Ardant, trang 194-195).

“Trong xã hội loài người, tự nhiên ai cũng muốn chiếm được vị trí quan trọng. Đó cũng là luật lệ của thế giới loài vật, một thế giới rất có phẩm trật: luật rừng xanh, nơi kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu, nơi người lớn thống trị người bé. Nhưng Đức Giêsu đến đảo ngược lô-gic đó: “Ai muốn làm đầu thì hãy làm người rốt hết. Ai muốn làm người lớn thì hãy làm đầy tớ mọi người”.

Những câu nói khiêu khích, cách mạng này không do các tông đồ sáng chế ra đâu, vì chính họ là người mong chiếm được địa vị cao. Nhưng chính Đức Giêsu đã đảo ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Nếu chỉ đổi chủ mà thôi thì không hơn gì: nếu người bị thống trị lại trở thành người thống trị, nào có thay đổi gì. Vậy mà lịch sử loài người lại đầy dẫy những cuộc nguỵ cách mạng, những người hò hét “đả đảo quân bóc lột” lại trở thành nỗi kinh hoàng cho những người thấp cổ bé miệng.

Đức Giêsu đề nghị một giải pháp khác: ông chủ tự nguyện đầy tớ mọi người. Đây là một cuộc cách mạng diễn ra trong nội tâm con người: một cuộc đổi mới tâm hồn, một sự từ bỏ truyền thống trị người khác.

Để làm điều đó Đức Giêsu nêu ra một minh hoạ: đứa bé. Trẻ em là một sinh vật nhỏ bé, không được trọng vọng loài xã hội, không có khả năng tự vệ, lại dễ bị người ta loại bỏ, cả bằng cách phạm pháp, như giết nó ngay khi còn trong bào thai nghĩa là vào lúc nó không có một chút khả năng nào để tự vệ. Đứa bé là một kẻ nghèo hèn đúng nghĩa nhất vì nó chẳng có quyền gì. Lúc nào và ở đâu, người ta cũng có thể trao nó vào tay kẻ mạnh, kẻ có quyền lực.

Vào những ngày này, khi bắt đầu các hoạt động, chúng ta tự hỏi xem mình sẽ phục vụ ở đâu?.

CHÚA NHẬT XXv THƯỜNG NIÊN- B

BÀI HỌC VỀ ĐỨC KHIÊM HẠ (*)-  Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Như Chúa Nhật trước, Chúa Nhật XXV tuần nầy nêu bật viễn cảnh về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh được Đức Giê-su loan báo lần thứ hai theo sách Tin Mừng Mác-cô. Ở nơi chủ đề nầy, ngầm chứa những xung đột có thể dẫn đến ghen tuông, thù hận, thậm chí sát hại đối thủ của mình. Người Công Chính (Bài Đọc I và Tin Mừng) là nạn nhân tiêu biểu cho sự ghen tuông và thù hận nầy.

Kn 2: 12, 17-20

Trong Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, chính vì cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo mà Người Công Chính bị quân vô đạo bách hại cho đến chết.

Gc 3: 16-18; 4: 3

Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê là cuộc bút chiến lên án những ghen tuông tranh chấp xuất phát từ những đam mê và những khuynh hướng xấu. Trái lại, Đức Khôn Ngoan Chúa là yêu thương anh em mình cho đến quên bản thân mình.

Mc 9: 29-36

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài, nhưng các ông chẳng những không chịu hiểu mà còn tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm họ. Chúa Giê-su muốn họ hiểu rằng trong Giáo Hội của Ngài người lớn nhất là người phục vụ mọi người. Đó là bầu khí thân thương của một gia đình trong đó cha mẹ là người lớn nhất lại trở thành người hầu kẻ hạ tận tình phục vụ con cái của mình.

BÀI ĐỌC I (Kn 2: 12, 17-20)

Tác giả sách Khôn Ngoan là một người Do thái sinh trưởng ở thành A-lê-xan-ri-a, ông đã viết tác phẩm của mình vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Thành A-lê-xan-ri-a lúc đó là một trong những trung tâm rực rỡ nhất của văn hóa Hy lạp và đồng thời là một trong những thành phố quan trọng nhất của những người Do thái Hải Ngoại.

Quả thật, cộng đồng Do thái ở đây gìn giữ nét đặc thù của mình. Tuy nhiên, sức cám dỗ của môi trường ngoại giáo chung quanh là một thực tế hằng ngày: tính đa dạng của những lý luận triết học, sự phát triển của các bộ môn khoa học, tôn giáo tổng hợp, sức hấp dẫn của những tôn giáo bí nhiệm, vân vân. Ở thành phố này, số lượng những người Do thái bội giáo càng lúc càng đông. Tác giả viết sách Khôn Ngoan để phòng ngừa những sa ngã mới ở nơi những anh em đồng đạo của ông. Với tâm trí sáng suốt của một hiền nhân, ông ra sức chận đứng sự thù ghét càng ngày càng gia tăng ở giữa họ: từ ước muốn dập tắt những lời trách cứ gây phiền hà cho cuộc sống vô đạo của mình, cho đến ước muốn làm khổ và làm hại người công chính lòng dạ sắc son.

1/.Lập luận cực đoan của quân vô đạo:

Đoạn trích sách Khôn Ngoan nầy không là sấm ngôn trực tiếp liên quan đến cuộc Tử Nạn của Đức Ki-tô, nhưng là một phân tích tâm lý mô tả tình trạng tinh thần của những người Do thái bội giáo trước cuộc sống đạo hạnh của người công chính. Cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo của người công chính khiến quân vô đạo chướng tai gai mắt không thể nào chịu nỗi. Lòng căm tức đã đẩy họ đến lập luận quá khích, dẫn họ đến làm khổ và sát hại người công chính:

“Ta hãy gài bẫy hại người công chính,

vì nó làm vướng chân ta,

nó chống lại các việc ta làm,

trách ta vi phạm lề luật,

và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.

Ta hãy coi những lời nó nói có thật không

và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ ra thế nào”. (2: 12, 17).

Tiến trình thù ghét nầy một ngày kia được áp dụng chống lại Người Công Chính tuyệt hảo là Đức Giê-su. Vì thế, sứ điệp nầy mặc lấy một khía cạnh ngôn sứ.

2/.Người công chính chịu đau khổ:

“Nếu tên công chính là con Thiên Chúa,

hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù” (2: 18).

Tước hiệu “con Thiên Chúa” được dành cho dân Chúa chọn, họ hãnh diện vì Thiên Chúa đã công bố họ là con cái của Ngài. Nhưng trong trường hợp nầy, tước hiệu “con Thiên Chúa” mặc lấy một sấm ngôn, vì đó sẽ là lý do mà Thượng Hội Đồng Do thái sẽ nại đến để kết án tử Đức Giê-su: “Người nầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa”.

“Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó,

để biết nó hiền hòa làm sao,

và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.

Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã,

vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (2: 19-20).

Những lời nầy nhắc nhớ Tv 22 mô tả người công chính bị bách hại kêu gào nỗi khốn khổ của mình, nhưng cũng đặt niềm cậy trông của mình vào Đức Chúa. Chính Thánh Vịnh này mà trên Thập Giá Đức Giê-su thốt lên cách thống thiết: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”.

Những kẻ thù của Đức Giê-su cũng sẽ trích dẫn Thánh Vịnh này để nói với nạn nhân của họ đang hấp hối trên thập giá: “Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 43). Tác giả sách Khôn Ngoan phác họa trước dung mạo Người Công Chính lý tưởng gần một trăm năm sau đó.

BÀI ĐỌC II (Gc 3: 16-18; 4: 3)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Đoạn trích thư hôm nay chứa đựng những lời khuyên bảo theo hình thức châm ngôn gợi nhớ cách thức mà các bậc hiền nhân Cựu Ước đã sử dụng, nhưng mang hơi thở Tin Mừng. Thánh Gia-cô-bê đã nhiều lần khai triển mối phúc thứ nhất: “Phúc thay những người nghèo khổ!”. Đoạn văn trích dẫn hôm nay minh họa một mối phúc khác: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình!”. Đoạn văn nầy có hai phần đối nghịch nhau:

1/.Những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Chúa (3: 16-18)

Trong phần thứ nhất, tác giả liệt kê những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Chúa. “Đức Khôn Ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, mến chuộng điều lành, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (3: 17). Việc liệt kê những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan nhắc nhớ bài ca đức mến trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13: 4-7). Nhưng thánh Gia-cô-bê đặt dấu nhấn chủ yếu trên việc xây dựng hòa bình: “Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính” (3: 18).

2/.Những hận thù, ghen ghét của con người (4: 1-3)

Đối nghịch với những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan Chúa là những xung đột ở bên trong con người, trong đó những ham muốn là nguyên do sâu xa nhất của “những hành động hung ác”. Cung giọng của tác giả trở nên khẩn thiết, văn phong được đẩy cao đến mức ngoa dụ: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (4: 2). Cách diễn tả dữ dội nầy, chúng ta cũng gặp thấy ở nơi thư thứ nhất của thánh Gioan: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân” (1Ga 3: 15). Những từ ngữ và hình ảnh ở đây thuộc thể loại bút chiến.

Là thủ lãnh của cộng đồng tín hữu Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội Mẹ, thánh Gia-cô-bê cảm thấy mình chịu trách nhiệm về những tín hữu ở xa của mình; vì thế, thánh nhân đặt tất cả hồn tông đồ của mình vào những lời kêu gọi sống cuộc đời Ki-tô hữu chân chính.

TIN MỪNG (Mc 9: 30-37)

Trong đoạn trích Tin Mừng hôm nay, ý tình đan quyện vào nhau, tâm tư tình cảm dạt dào cảm xúc. Đức Giê-su thực hiện giai đoạn sau cùng sứ vụ tại miền Ga-li-lê của Ngài. Ngài trở lại lần cuối cùng thành Ca-phác-na-um được xem là bản doanh sứ vụ của Ngài. Từ đó, Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để bước vào con đường Thương Khó và Tử Nạn, Phục Sinh và Lên Trời của Ngài. Chúng ta biết rằng trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần, trong khi Tin Mừng Gioan tường thuật Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần vào các đại lễ trong năm.

1.Loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh:

Khi đi ngang qua miền Ga-li-lê, Đức Giê-su tránh gặp gỡ đám đông; Ngài giới hạn giáo huấn của Ngài chỉ trong vòng các môn đệ của Ngài. Khi Thầy trò đang đi trên đường, Ngài gợi lên lần thứ hai viễn cảnh cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài bằng những ngôn từ hầu như y hệt lời loan báo thứ nhất.

“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”. Động từ “nộp” ở đây có một ý nghĩa rất mạnh, nhưng được dùng ở thể thụ động “bị nộp” muốn nói lên điều gì? Sau nầy, thánh Mác-cô sẽ vạch mặt chỉ tên những kẻ nộp Đức Giê-su đưa Ngài đến cái chết: đó là ông Giu-đa (14: 10), các thượng tế (15: 1) và quan tổng trấn Phi-la-tô (15: 15). Tuy nhiên, đây cũng là hình thức thụ động thần linh thông dụng mà người Do thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân bằng cách tránh nêu danh Người vì lòng tôn kính. Vì thế, cái chết của Đức Giê-su có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra, nhưng nhất là nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà lời loan báo đầu tiên diễn tả: “Con người phải chịu nhiều đau khổ”. Đây không là cái tất yếu của định mệnh mà Đức Giê-su phải chịu, nhưng là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà Đức Giê-su phải thực hiện.

“Vào tay người đời”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ những kẻ thù không có lòng xót thương. Ở đây kiểu nói nầy hình thành nên một sự đối chiếu thống thiết với danh xưng “Con Người”. Qua danh xưng “Con Người”, Đức Giê-su nhấn mạnh nhân tính của Ngài. Như bao nhiêu người khác, Ngài cũng biết đau khổ và sự chết đang chờ đợi Ngài, nhưng vận mệnh của Ngài được hoàn tất theo thị kiến của Đa-ni-en về Con Người trong vinh quang. Vì thế, như trong lần loan báo đầu tiên, trong lời loan báo thứ hai này, sau khi báo trước cuộc Tử Nạn của mình, Đức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài: “Ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”. Như vậy Tử Nạn và Phục Sinh là hai mặt của một thực tại cứu độ bất khả phân.

2/.Nỗi cô đơn của Đức Giê-su:

Mỗi lần Chúa Giê-su loan báo rõ ràng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô đều nhấn mạnh đến “sự ngu muội” chậm hiểu của các môn đệ (8: 32; 9: 32). Các ông không hiểu, nhưng không dám hỏi Ngài; thay vì đó, các ông lại nghĩ đến việc khác. Các ông đinh ninh rằng việc đi lên Giê-ru-sa-lem lần nầy chắc hẳn Thầy mình sẽ thực hiện sứ mạng của Đấng Thiên Sai, Ngài sẽ thiết lập vương triều của Ngài; vì thế, các ông bắt đầu tranh luận với nhau về những đặc quyền đặc lợi, xem ai là người lớn nhất trong nhóm.

Đức Giê-su không dự phần vào cuộc tranh luận của họ; chắc chắn Ngài đi một mình riêng ra. Không ai trong nhóm Mười Hai, những người đã gắn bó với Ngài suốt ba năm nay, hỏi Ngài về vận mệnh đau thương mà Ngài mời gọi họ dự phần vào. Nói cho cùng, ở nơi họ Ngài không gặp thấy sự đồng hội đồng thuyền đồng sinh đồng tử với Ngài. Đây là khúc dạo đầu cho việc bỏ rơi hoàn toàn mà Ngài sẽ nhận biết vào lúc Ngài bị bắt. Chúng ta cảm thấy nỗi đau đớn của Ngài qua cách trình bày giản dị của đoạn Tin Mừng nầy.

3/.Bài học về sự phục vụ:

Khi đến thành Ca-phác-na-um, vào trong nhà, Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”. Các ông làm thinh, không ai dám thú nhận điều làm họ bận lòng trên đường. Nhưng Đức Giê-su không cần ai nói với Ngài. Vả lại, bài học mà Ngài sắp cho họ có thể giúp cho họ hiểu một cách gián tiếp những lời của Ngài mà vào giây phút nầy, họ đã không thể hiểu được: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.

Với giáo huấn về sự phục vụ nầy, Đức Giê-su đả đảo ngược cơ cấu phẩm trật thông thường của nhân loại theo đó người đứng đầu là người chiếm những chỗ ngồi danh dự, ăn trên ngồi trước, hưởng những đặc quyền đặc lợi, mà Ngài đã rất dị ứng ở nơi cách sống của giai cấp lãnh đạo Do thái. Có lần Ngài đã nói lên sứ mạng của Ngài: “Con Người đến không để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ”.

Đức Giê-su sẽ đưa ra một mẫu gương rõ ràng hơn nữa vào bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ, khi Ngài rời chỗ ngồi danh dự của Ngài, mặc bộ đồng phục của người hầu và cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của Ngài (Ga 13: 4-16) kèm theo với lời dạy rõ ràng: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15).

Nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban cho họ một bài học đặc biệt, soi sáng mặc khải trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường tiến về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, ở đó Ngài đích thân hiện thực sứ điệp của Ngài: Ngài sẽ bị đối xử như người rốt hết và sẽ chịu khổ hình như kẻ nô lệ. Sau điều đó, Ngài sẽ là người đầu hết, trưởng tử của một nhân loại mới. Ngài ngầm hướng tư tưởng của các môn đệ Ngài về sấm ngôn Người Tôi Trung đau khổ của I-sai-a, chịu thương chịu khó kể cả hy sinh mạng sống mình để đem lại ơn cứu độ cho muôn người.

4/.Bài học về đức khiêm hạ:

Để có thể nhổ tận gốc rể tính tự cao tự đại và tự mãn của các môn đệ Ngài, Đức Giê-su đưa ra một ví dụ khác. Ngài đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em nầy vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giê-su đối lập thế giới người lớn tự phụ và tham vọng với thế giới trẻ thơ. Trẻ thơ có nhiều đức tính mà người môn đệ của Ngài phải học: chúng biết rõ thân phận nhỏ bé của mình, vì thế, chúng không phô trương sự khôn ngoan và quyền hành của mình, nhưng bày tỏ một niềm tin tưởng đơn sơ và chân thành. Hơn thế nữa, trong Tin Mừng, những người phận nhỏ lại là đoàn chiên của Ngài mà Ngài tận tình chăm sóc và hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10: 11-15). Đó cũng là những “chiên con” mà Ngài sẽ trao gởi cho thánh Phê-rô chăm sóc với lời căn dặn đến ba lần phải yêu mến đoàn chiên của Ngài như yêu mến Ngài hơn bất cứ ai (Ga 21: 15-16).

Trang Tin Mừng nầy là một trong những trang làm chứng về sự chân thật của các tác giả sách Tin Mừng. Các Tông Đồ chẳng có lý do gì để mà tự phụ về mình ở nơi những tình tiết nầy; tuy nhiên họ đã để lại một mẫu gương cho những thế hệ mai sau, họ khiêm tốn nhận ra tâm trí chậm hiểu và thiếu độ nhạy bén của mình.

Sức hấp dẫn và lôi cuốn của Giáo Hội Đức Ki-tô không phải ở nơi việc phô trương những quyền cao chức trọng, nhưng ở nơi thái độ khiêm tốn hạ mình xuống mà phục vụ những anh chị em bé nhỏ cách đơn sơ chân thành. Nói cho cùng, đây là bầu khi thân thương của một gia đình, ở đó cha mẹ là người lớn nhất nhưng đã tự biến mình thành con sen, đứa ở để phục vụ con cái của mình, con cái càng nhỏ thì cha mẹ càng tận tình yêu thương phục vụ hơn nữa.

Giáo Hội phải sống theo mẫu gương của Đức Giê-su. Ngài không tìm cách bảo vệ chính mình, nhưng ra sức bảo vệ những người khác, nhất là những kẻ nghèo hèn, những người cô thân cô thế, những người bị loại trừ. Chính cuộc sống hết lòng cho tha nhân này đã dẫn Ngài đến cái chết, nhưng từ cái chết của Con Thiên Chúa đồng nhất với Chúa Cha trong một tình yêu tận mức dành cho nhân loại, phát sinh ơn cứu độ cho loài người. Đó là sứ điệp mà Ngài gởi đến cho những vị hữu trách trong cộng đoàn dân Chúa: “Ai tiếp một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

home Mục lục Lưu trữ