Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 19

Tổng truy cập: 1364458

SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA

SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA

Chúng ta không sống đời sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít thời gian để sống với Thiên Chúa và lắng nghe lời Người. Phần lớn chúng ta đọc một số kinh sáng và kinh chiều. Nhưng, khổ nỗi, những kinh nguyện ấy thường là những lời quá quen thuộc mà chúng ta đọc một cách máy móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi chạy theo nhưng công việc đang chờ đợi chúng ta. Kinh nguyện như thế giống như mặc áo quần, rồi mới rửa tay của mình khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ cô. Chúng ta cần có sự cầu nguyện tập trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như cơn đói phải được no thoả mà không gì có thể thay thế. Loại kinh nguyện ấy luôn làm cho chúng ta biến đổi và thêm sức mạnh. “Cầu nguyện không phải là xin xỏ. Nó là sự khao khát của linh hồn. Nó là sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối của chúng ta”.

Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh hơn là cầu nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu nguyện bắt đầu ở chỗ mọi diễn tả chấm dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta thốt ra thường chỉ là những làn sóng trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình thức cao nhất của sự tôn thờ là thinh lặng.

Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất chính là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nhưng đối với một số người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian trong khi có rất nhiều việc phải làm.

Ở trong sự hiện diện, không nói hoặc làm điều gì, không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi chúng ta ngừng lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng kể cả thấy mình vô dụng. Phần đông chúng ta có ý thức về giá trị của mình qua việc làm. Họ không biết đương đầu như thế nào với sự ngưng nghỉ và bất động. Kết quả là đời sống của họ nông cạn và hời hợt bên ngoài.

Phần đông con người có xu hướng đặt tình yêu của Thiên Chúa với hoạt động của xã hội. Dĩ nhiên cầu nguyện có thể là một sự tránh né và thoát ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế. Hoạt động của chúng ta có thể là một sự tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và không có cầu nguyện người ta có thể dễ dàng quỵ ngã, hướng ngã thay vì được Thiên Chúa hứng khởi.

Henry David Thoreau đã sống hai năm trong một túp lều trong rừng ở Maine. Ông ta làm gì trong suốt hai năm ấy? Ông trồng một vườn rau, đọc sách, và quan sát thiên nhiên. Nhưng một đôi khi ông không làm gì cả. Ông nói: “Thỉnh thoảng vào một buổi sáng mùa hè, tôi ngồi trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng sớm cho đến trưa, mê man trong mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và bất động yên tĩnh, trong khi bầy chim ca hát xung quanh tôi”.

Ông đã thu hoạch được gì từ điều đó? Ông nói:

“Trong những mùa ấy, tôi lớn lên như ngũ cốc trong đêm. Đó không phải là thời gian bị lấy mất khỏi đời tôi, nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự bớt đi thông thường. Cần cù như những con kiến chưa đủ. Bạn cần cù về điều gì? Đừng sợ cuộc đời bạn sẽ kết thúc; đúng hơn phải sợ cuộc đời chưa bao giờ đã bắt đầu”.

Một số người có thể cho rằng Thoreau là một người mơ mộng lười biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó không phải là thời gian bị lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù chỉ trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.

Với cái nhìn nông cạn, phần việc của Maria có vẻ dễ dàng hơn –cô chỉ việc ngồi đó, và phần việc của Mácta khó khăn hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh ra lợi ích rất lớn lao.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin ngài một lời khuyên khi ngài đã được truyền chức thánh là một bà cụ, bà nói: “Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt mười bốn năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa”.

“Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không?” ngài hỏi.

“Ồ không”, bà nói, “Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao?”.

“Không,” ngài nói. “Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này. Con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa”.

Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì? Không lâu sau, bà ta trở lại và nói: “Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Người”.

Sau cùng, cầu nguyện không phải để nhiều lời nhưng hướng đến sự hiệp thông với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một sự yên nghỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là vấn đề giữ tĩnh lặng trong sự hiện diện của Người hơn là việc đọc kinh.

 

26. Martha và Maria.

Có một bà bếp của cha sở nọ, mỗi lần nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, đều than phiền:

– Phải rồi, nếu không có Martha, thì ai sẽ lau nhà, sẽ nấu ăn, sẽ rửa chén.

Cũng vậy, nếu tôi chỉ ngồi suy nghĩ và bàn luận về những sự cao siêu trên trời, thì chắc chắn chẳng có ai làm những công việc tầm thường ấy. Ngay trong lúc này, hẳn nhiều người trong chúng ta cũng tự hỏi:

– Làm thế nào để dung hòa giữa thái độ của Martha và thái độ của Maria, hầu nhờ đó mà áp dụng vào cuộc sống cụ thể của mỗi người chúng ta.

Thực tế cho hay cuộc sống của chúng ta thì rất bận rộn, chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, chúng ta muốn tham dự thánh lễ thường xuyên hơn, chúng ta muốn đọc và suy gẫm lời Chúa lâu giờ hơn, nhưng kẹt một nỗi chúng ta lại không có thời giờ.

Quả thật, Chúa Giêsu muốn chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Ngài không nói rằng: Khi làm việc như Martha, chứ không thể cầu nguyện như Maria, hay trái lại, khi cầu nguyện như Maria, chúng ta không thể làm việc như Martha. Hai thái độ trên liên hệ mật thiết và bổ túc lẫn cho nhau: Chúng ta vừa phải là Martha vừa phải là Maria. Vậy thì chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào?

Tôi xin thưa: Chúng ta hãy khởi đầu một ngày mới bằng cách dâng lên Chúa lời nguyện vắn tắt sau đây:

– Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa trọn ngày hôm nay.

Còn nếu như có đủ thời giờ, chúng ta hãy cầu nguyện:

– Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm, để tôn vinh danh Chúa, hợp cùng cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con.

Đồng thời, thỉnh thoảng trong ngày, chúng ta hãy lặp lại lời kinh trên, nhờ đó thánh hóa những công việc tầm thường của chúng ta, biến những công việc tầm thường ấy trở thành một lời kinh liên tục, hay nói một cách khác biến cuộc đời chúng ta trở thành một thánh lễ nối dài.

Các vị thánh là những người bận rộn. Với các ngài, cái búa, cái cưa, cái cày, cái cuốc, cái chổi được coi như là những chén thánh ở trên bàn thờ. Tại sao lại như thế?

Tôi xin thưa vì những dụng cụ ấy là những dụng cụ để các ngài làm tôn vinh danh Chúa. Điểm chính yếu trong đời sống đạo đức đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ Chúa trong mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh lễ chúng ta đang tham dự cũng là một hình ảnh lý tưởng để chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Như Martha chúng ta cùng hát, cùng đọc và cùng dâng với mọi người. Như Maria chúng ta lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, cũng như kết hiệp tâm tình để cầu nguyện với Chúa.

Khi rước lễ, Chúa Giêsu sẽ là vị khách quí ngự đến trong tâm hồn chúng ta, như ngày xưa Ngài đã là vị khách quí dưới mái nhà Bêtania. Xin Ngài hãy giúp chúng ta biết thực hiện tinh thần phục vụ như Martha và Maria, đó là hãy làm mọi việc dù tầm thường nhỏ bé nhất vì lòng yêu mến Ngài, nhờ đó những việc nhỏ bé tầm thường này sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.

 

27. Những mẫu gương sáng ngời.

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.

Chọn điều tốt nhất

Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô. Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc. Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy. Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy. Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: “em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay”.

Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý. Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.

“Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được”. Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm. Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài. Không cần phải vất vả như vậy. Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác. Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.

Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được. Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?

Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân

“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần. Abraham chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức, và dùng bữa”. Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.

Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay. Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào? Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng đã đồng hoá mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.

Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô

Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng. Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm. Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực. Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội. Với Phaolô, Ngài “học no học đói”, Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.

Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng. Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người. Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Giêsu Kitô.

Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn có chấp nhận chọn lựa của Maria không? Tại sao?
  2. Theo bạn, hiếu khách có còn giá trị trong xã hội hiện tại không? Xin cho biết lý do.
  3. Có cần phải rao giảng Tin Mừng cho con người thời đại ngày nay không? Tin vào Tin Mừng giúp gì cho con người ngày nay?

 

28. Gia đình chị em Maria – Lm Giacôbê Tạ Chúc

Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người thương mến và giúp đỡ. Trong số đó không thiếu những người phụ nữ đi theo Chúa, cách đặc biệt một gia đình mà Chúa thường đến thăm và quan tâm tận tình: gia đình của chị em bà Matta và Maria. Các Tin mừng ghi nhận ít là ba lần Chúa đến nhà chị em này (Ga 11, 1-45; 12, 1-11; Lc 10, 38-42).

Làng Bêtania

Nói đến gia đình Matta và Maria chúng ta không thể nào không nhắc đến một địa danh lịch sử, gắn liền với tên tuổi của hai Thánh nữ. Bêtania một làng nằm ở phía đông nam núi Cây dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem, trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria (Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là El-Azariyeh, “nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn náu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khoảng 5000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khỏang một giờ đồng hồ”.

Mátta và Maria

Câu chuyện Chúa Giêsu vào nhà Mátta và Maria nghỉ ngơi, khi cùng với các môn đệ đang  trên đường rao giảng Tin mừng, cho chúng ta một nét đẹp trong chân dung của người Tông đồ phục vụ anh chị em mình. Trong khi cô em là Maria đang ngồi lắng nghe lời chúa, thì Mátta tất bật với công việc một người nội trợ thật tuyệt vời. Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ, thái độ đón tiếp của bà. Bởi Chúa cũng cần lắm những cộng sự viên năng nổ, năng động như Mátta. Nếu làm một cuộc so sánh hai chị em thì chúng ta phải khẳng định rằng: Maria là người thiên về đời sống nội tâm, còn Mátta thì hướng đến sự chia sẻ và trao ban. Cả hai đều là những cách thế thể hiện một tình yêu đón nhận từ Thiên Chúa và tặng ban cho con người. Vả lại, Maria là người em nên có khi hơi ỷ lại một chút, công việc bếp núc cũng có phần nặng nhọc và cần đến sự khéo léo và tài tình, nên dành cho người chị thì có lẻ tốt hơn.

Một lần khác, khi ra chào đón Chúa Giêsu vào thăm trong hòan cảnh người em mới qua đời, Mátta bộc bạch cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11,21). Lazarô đã chết, thế nhưng Mátta vẫn tin rằng Chúa Giêsu là sự sống vĩnh cửu của con người. Nói cách khác Mátta tin nhận Thầy Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Messia mà thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.

Lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy

Tin mừng dù ghi nhận sự khác biệt của hai chị em Maria và Mát-ta trong việc đón nhận lời Chúa, một bên là tĩnh lặng của tâm hồn, một bên là xao động của từng đường gân thớ thịt. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận con tim của cả hai đang dạt dào tình yêu mến Thiên Chúa một cách vô bờ bến, trong con người của Mát-ta và Maria.

Kết hợp những nét đẹp rạng ngời của cả hai chị em, mỗi người sẽ thấy được việc lắng nghe và thực thi lời Chúa, chỉ là hai cách thế diễn tả của một tình yêu Giêsu.

 

29. Yêu theo cách của người mình yêu

Trên đường đi Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn hơn ở đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý sống động hơn ở đây. Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen. Cả hai đều yêu kính Chúa Giêsu và ước ao làm vui lòng Chúa. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon. Còn Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Nguời dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.

“Mácta tất bật lo việc phục vụ”. Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để con một mình phục vụ mà Thầy không quan tâm sao?”.

Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mácta! Mácta! Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.

Chúng ta thử tìm những bài học nơi đây:

Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biệt

Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng. Ngược lại, người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề phải trái ở đây. Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ mới là chính đáng.

Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than thở với nến: Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!

Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm

Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giêrusalem. Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ. Để mừng ngày trọng đại này, Mácta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất mà gia đình có thể thực hiện được. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám đông dân chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. “Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản”. Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phật lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.

Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo viết về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu. Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết Chúa nữa.

 

30. Một sự cần thiết

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết tuyệt đối. Vậy thế nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt đối?

Cứ chung mà nói, ai trong chúng ta cũng cần đến tiền bạc cũng như cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng ta không thể sống và nếu có sống, thì cũng sống trong cảnh cùng cực túng thiếu, sống không ra người. Bời đó, ai cũng chịu khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi, làm lụng vất vả, đổ mồ hôi xôi nước mắt để tìm tiền kiếm bạc. Cơm áo gạo tiền là nỗi lo lắng số một của chúng ta. Và trong bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng phải là vấn đề tiền đâu.

Một khi tiền bạc đã rủng rỉnh, người ta lại mơ ước đến quyền hành và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời và để lại trong thời gian một chút danh giá, một chút tiếng tăm.

Đô đốc Byrd là một nhà thám hiểm Nam cực, vì không có đủ tiền, ông đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai giúp đỡ ông về phương diện tiền bạc, thì khi tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy tên người ấy mà đặt cho. Tức thì nhiều người giàu có đã mang tiền đến giúp vì họ muốn cho tên tuổi của mình được tồn tại mãi với thời gian.

Một trường hợp khác, đó là Carnégie, ông vua thép ở Mỹ. Trong việc làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh giữa ông và Pullman, nhiều lúc đã đi tới chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại cho cả đôi bên. Ngày kia, Carnégie đến giặp Pullman và nói:

– Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều điên khùng. Vậy tôi xin đề nghị với ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta hãy hợp tác với nhau.

Nói rồi, Carnégie kể ra những lợi ích to lớn do sự hợp tác đem lại. Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:

– Vậy ông tính đặt tên cho công ty là gì?

– Công ty Pullman chứ sao nữa.

Nghe vậy, Pullman đã mỉm cười, bắt tay và mời Carnégie ở lại dùng cơm tối.

Xem đó, chúng ta thấy đô đốc Byrd và Carnégie đã đánh trúng vào yếu điểm của nhiều người, đó là lòng ham mê danh vọng.

Thế nhưng, tiền bạc và danh vọng có thực sự là điều cần thiết tuyệt đối hay không? Chắc chắn là không. Vì khi phải đối đầu với cái chết, chúng ta sẽ chẳng mang theo được một chút gì sang thế giới bên kia:

– Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,

Chết xuống âm phủ, chẳng mang được gì.

Với chúng ta thì khác, sự cần thiết tuyệt đối chính là phần rỗi linh hồn như lời Chúa đã phán:

– Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.

Tự đời đời, Chúa chẳng cần đến chúng ta. Nếu không có vũ trụ và loài người, thì Chúa vẫn là Chúa. Ngài hoàn toàn đầy đủ và hạnh phúc. Sở dĩ Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được chia sẻ phần hạnh phúc với Ngài.

Bởi vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải nhận biết và thờ phượng Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho linh hồn.

Đúng thế, chúng ta được sinh ra bên ngoài là nhờ cha mẹ. Nhưng không cha mẹ nào dám xác quyết rằng tất cả đều do mình trao ban. Những sự vật rất tầm thường như khí trời, cơm gạo, rau cỏ để cho chúng ta được sống là do ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên Chúa.

Vì thế, sự cần thiết tuyệt đối đó là nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi này, chúng ta đã thiếu sót một chuyện rất quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này mới thực sự là cần thiết.

Cavalière là một nữ tài tử nổi tiếng và gặp nhiều may mắn. Thế nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen tặng cô vẫn cảm thấy trống vắng, khiến cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết. Tự đáy lòng, cô luôn nghe như có tiếng nói:

-Hỡi Cavalière, có phải mi được sinh ra là để bám lấy những cái phù du giả tạo đó hay sao?

Một hôm, người ta không thấy bóng dáng cô ở Paris, kinh thành ánh sáng nữa. Cô đi tới một miền núi, sống âm thầm và cầu nguyện trong một nhà dòng. Hai năm trước khi qua đời, Robert de Pierre, một nhà báo, tìm đến nơi cô đang ở. Thấy cuộc sống quá lặng lẽ và quạnh hưu, nên đã nói:

– Sống như thế này thì có chi là sung sướng.

Nhưng cô đã trả lời:

– Sung sướng lắm chứ. Sung sướng gấp ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó, tôi được sống gần Chúa, được sống trong Chúa và được sống với Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi.

Hãy nhận biết và thờ phượng Chúa, nhờ đó đạt tới cuộc sống vĩnh cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối mà mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phải thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và bon chen.

 

home Mục lục Lưu trữ