Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 26

Tổng truy cập: 1374782

SỨ MỆNH CỦA CHIÊN THIÊN CHÚA

Sứ mệnh của Chiên Thiên Chúa

Hình ảnh con chiên trở nên rất gần gũi với người Do thái. Người ta nuôi chiên thành từng đàn lớn, mục đích đầu tiên vẫn là kinh tế. Chiên cho lông, cho sữa, cho thịt. Thế rồi con chiên đã đi vào sinh hoạt tôn giáo, nó lại mặc lấy nhiều ý nghĩa khác nhau. Chiên được dùng làm lễ vật trong dịp lễ Tạ ơn. Chiên mang tội lỗi con người để chết thay cho người. Máu chiên đã trở nên dấu hiệu cần thiết để con cái Israel không bị sát hại trong ngày dân Do thái xuất hành khỏi Ai Cập.

Gioan tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian. Lời giới thiệu có vẻ quá vắn tắt cho một con người đặc biệt, nhưng chắc hẳn ai cũng hiểu Gioan Tẩy Giả muốn nói gì về Chúa Giêsu: Người đang đến với các ngươi đây, chính Đấng ấy sẽ gánh lấy tội lỗi của trần gian, chết thay cho moị người. Thân xác Người sẽ trở thành lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa đền thay tội lỗi chúng ta.

Lông chiên đem đến cho con người những bộ áo ấm, giúp con người thoát khỏi cái rét lạnh của những ngày đông thì Chiên Thiên Chúa đến cũng mang cho con người sự ấm áp, ấm áp trong tình thương. Những người ngheò khổ đã tìm được chỗ tựa nương, người đau buồn đã tìm được nguồn an ủi, người đau bệnh đã được quan tâm, chữa khỏi. Những kẻ bị xã hội gạt bên lề giờ đã được đoái nhìn. Vai trò Chiên Thiên Chúa có sức mạnh nối kết những xa cách trở thành gần gũi. Những phân cách chia ly giờ được nối lại gần. Sự quan tâm đúng lúc, việc chữa bệnh kịp thời của Chúa Giêsu làm cho những thành phần yếu thế đã trở nên mạnh mẽ và có thể gần gũi mọi người cách tự nhiên không còn phân biệt đối xử.

Sữa và thịt chiên đem cho người ta sự no thỏa trong cuộc đời. Chúa Giêsu đến cũng xoa dịu bao khao khát của nhân loại. Người đã hoá bánh để nuôi dân chúng được ăn no. Người đã cho nước lã thành rượu ngon để thực khách hưởng dùng. Và rồi, chính Chúa Giêsu muốn tất cả những ai ăn thịt và uống máu Người thì không hề đói khát bao giờ. Đây là một sáng kiến diệu kỳ của Chúa Giêsu khi Người lập Bí tích Thánh Thể.

Máu chiên ngày xưa dùng bôi lên cửa nhà như là dấu hiệu để khỏi phải chết, thì máu Chiên Thiên Chúa đã đỗ ra để xoá tội bao người, mang đến cho con người sự sống vĩnh cửu. Máu Chúa Giêsu đã đổ ra mang lại cho cho người một sự tái sinh trong Bí Tích Hoà Giải. Tội lỗi con người đã được tẩy xoá nhờ máu của Chúa Giêsu. Điều đáng nói ở đây, Đấng xoá tội không dùng quyền bính của mình để tha tội nhưng lại dùng máu của mình, nghĩa là phải qua cái chết để tha tội con người.

Chúa Giêsu đã đóng trọn vai trò của con chiên chịu sát tế để cứu độ con người. Ta không thể phủ nhận những gì mà Con Chiên Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chính Ngài đã tự huỷ đi niềm vui, niềm hanh phúc, sự an lành của bản thân mình để mưu cầu sự sống cho kẻ khác. Ai bước trên con đường Đức Chúa Giêsu đã đi đó là con đường dẫn tới đồng thoại thực sự. Hạnh phúc, niềm vui nào cũng phải trả giá bằng vất vả hy sinh. Quả thật, hạnh phúc và niềm vui không đến với ta qua con đường bùa chú. Nó đòi hỏi một sự hy sinh hết mình, một sự dấn thân không ngại ngần để phục vụ người khác.

Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài luôn đóng vai trò con chiên để cứu độ chúng ta, giúp chúng luôn sống trong bình an và hạnh phúc. Vì thế chúng ta cũng hãy đến với anh em đồng loại trong sự hy sinh, dấn thân phục vụ, mang đến niềm vui, tình thương mến cho mọi người.

 

42. Tôi đã thấy

(Trích từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Biết một người là đi vào một mầu nhiệm.

Chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, hai lần Gioan khẳng định: "Tôi đã không biết Người" (cc 31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa biết Ngài là Mêsia. Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (x.Lc 1,36), dù hẳn ông đã có một số thông tin về Ngài.

Và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (x.Mt 3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.

Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ.

Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.

Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là Mêsia.

Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông ban phép rửa.

Bây giờ có thể nói ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã biết sau khi ông đã thấy.

Từ cái biết nhờ thấy, do ơn Thiên Chúa ban, Gioan đã trở nên người làm chứng trung tín.

Ông vui lòng giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga 3,26). Ông vui khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật (Ga 3,30).

Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu.

Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh lọc.

Hành trình của Gioan cũng là của tôi: thấy, biết, làm chứng.

Biết một người là chuyện khó.

Biết Đức Giêsu Kitô còn khó hơn nhiều.

Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người độc đáo này, nơi giao nhau giữa trời và đất, giữa Tạo Hóa và thụ tạo.

Để biết Đức Giêsu, tôi cần thấy Ngài tỏ mình. Không hẳn tôi sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những chuyện đời thường, qua những con người đơn sơ tôi vẫn gặp.

Tôi cần tập thấy Ngài ẩn sau lớp vỏ xù xì của thực tế. Cần thường xuyên làm mới lại cái biết về Đức Kitô, để có tương quan thâm trầm hơn, thân mật hơn với Ngài.

Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, gặp gỡ, chia sẻ chính cuộc đời Ngài, là để mình sống trong Ngài và Ngài sống trong mình, thì biết là nỗ lực của cả một đời Kitô hữu.

Gioan đã làm chứng cho dân về Đấng họ đang đợi.

Con người hôm nay đang đợi ai?

Đức Giêsu do chúng ta trình bày và sống có đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của họ không?

Tôi cần thấy và biết Ngài hơn, để làm chứng tốt hơn.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, thế nào là biết một người? Có bao nhiêu mức độ khác nhau trong việc biết một người? Bạn biết Đức Giêsu ở mức độ nào?

Gioan giới thiệu Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian." Còn bạn sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho con người hôm nay?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp, để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống.

 

43. Ý nghĩa của tình liên đới

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Bài Phúc Âm nói đến ‘ngày hôm sau’, tức là ngày sau khi Gioan Tẩy Giả trả lời cho người Do Thái đến hỏi về sứ mệnh của ngài, và tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài nói: “Ở giữa các ông có một người mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi” (1,26). Danh từ ‘Con Chiên Thiên Chúa’ rất thông thường trong ngôn ngữ thánh sử Gioan, nhất là trong sách Khải Huyền của tác giả. Nó chỉ Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu Kitô hiến tế mình để giải phóng và hồi sinh nhân loại. Cách gọi này rất nhiều ý nghĩa đối với môn đệ Gioan là những người biết rõ nghi thức ăn tiệc chiên Vượt Qua và việc sát tế hằng ngày một con chiên trong Đền thờ, làm của lễ đền tội cho dân chúng. Con Chiên gánh tội trần gian là con chiên tự hiến làm lễ giải phóng dân chúng, theo như các bài ca của ngôn sứ Isaia về Người Tôi Tớ Giavê. Điều này không có nghĩa là các môn đệ hiểu rõ ngay. Nhưng Gioan Tẩy Giả dùng cách nói trên chuẩn bị cho họ hiểu rõ sau này.

Trong đời ta, có khi ta nghe một lời nói, hay trải qua một biến cố mà ngay lúc đó ta chưa thấy rõ tất cả ý nghĩa; chỉ về sau Chúa mới cho ta khám phá ra tất cả tầm mức của nó. Ở đây ta lưu ý tới hai điểm:

1) Tội trần gian.

Trần gian có nghĩa là nhân loại. Tác giả Phúc Âm dùng tiếng ‘tội’ ở số ít (không phải ‘các’ tội lỗi). Như thế ông làm nổi rõ sự liên đới của mọi người trong tai họa sự ác. Nhưng tình liên đới đó trở nên yếu tố thuận lợi cho sự cứu rỗi. Tất cả mọi người đều đồng hưởng ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại. Ơn cứu độ rộng mở đón nhận bất cứ ai. Điều tiên quyết đòi hỏi nơi họ là không từ chối lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, ít ra không từ chối một cách tội lỗi. Không được tẩy xóa khỏi tội lỗi, thì nhân loại sẽ bị kết án. Nhờ Đức Kitô, nhân loại được cứu thoát.

Một khi đã ý thức về tình liên đới của ta trong tai họa tội lỗi, chúng ta hãy cố gắng lật ngược ý nghĩa của tình liên đới ấy bằng cách đi sâu vào con đường hiệp nhất với Đức Giêsu Kitô Cứu Chúa.

2) Phần tôi, tôi đã không biết Người.

Thế ra trong thời gian lâu dài, Gioan đã làm việc, giảng thuyết với ý thức đơn giản là để tuân theo một sứ mệnh mà không biết rõ Đấng mà ngài loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của một ơn gọi chân chính? Người có sứ mệnh chuẩn bị cho Đức Kitô đến trong một linh hồn, một môi trường, trong thế gian phải chấp nhận trường hợp có thể xảy ra là chính mình lại không thấy hiển nhiên rằng Đức Kitô đang ngự đến đó. Phải kiên nhẫn làm việc trong đức tin. Hãy để cho Chúa tự do chọn lựa thời giờ mà một dấu hiệu xảy tới, nếu có, báo tin Đức Thánh Linh ngự xuống.

 

44. Sống đời chứng nhân

Một trong bốn cái ngu mà dân gian thường ví von: nghề mai mối (làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu). Bởi vì cặp uyên ương nào hạnh phúc thì ông mai bà mối được tiếng thơm, nhưng nếu cặp nào cơm không lành canh không ngọt thì mọi lỗi lầm trút lên họ. Ngày xưa, cô dâu chú rể ít khi được biết mặt nhau thì ông mai bà mối phải thật dẻo mồm, nói sao để vừa lòng cả hai họ. Ngày nay thì đỡ vất vả hơn do đôi trai gái đã có thời gian tìm hiểu nhau. Tuy vậy, người mai mối vào thời nào cũng không thể thiếu trong chuyện cưới xin. Bởi đây là người trung gian giúp hai bên thông gia dễ dàng đến với nhau hơn.

Với Lời Chúa hôm nay, ta cũng gặp thấy hình ảnh nhân vật trung gian. Ngoài Đức Giêsu là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người trong công trình cứu rỗi, ta cũng thấy nhiều gương mặt được Đức Kitô mời gọi tham dự vào sứ vụ của Ngài, trong đó có Gioan Tiền Hô, một người được nói đến nhiều trong các Chúa Nhật mùa Vọng trong tư cách là một người dọn đường và giới thiệu Đức Kitô cho muôn dân.

Khi Gioan làm phép rửa cho dân chúng thì Đức Giêsu xuất hiện, Gioan ngại ngùng không dám "rửa" cho Đức Giêsu vì ông biết chính Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng vì vâng ý Chúa mà ông làm theo, và chính trong hoàn cảnh này mà ông đã giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian..." (Gn 1,29-30).

Trái với thái độ ngại ngùng khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan đã mạnh dạn tuyên bố sau đó: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Bởi vì ông đã được Thần Khí mách bảo: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần" (Gn 1,34). Gioan đã thấy, đã tin và đã làm chứng. Đó không chỉ là sứ vụ mà còn là một ân ban cho Gioan. Gioan trở thành ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước và nên như một bản lề mở ra thế giới Tân Ước. Gioan là chứng nhân đầu tiên cho Đức Giêsu. Ông chấp nhận vai trò tiền hô bằng tất cả lời nói và hành động. Gioan không chỉ giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, cho các môn đệ của ông mà còn chấp nhận để môn đệ mình theo Đức Giêsu (x. Gn 1,35-42). Cuối cùng, Gioan đã chết để giữ trọn đức công chính, cái chết dưới con mắt người đời xem ra quá oan ức, nhưng đó là cái chết anh hùng: anh hùng vì dám chết cho sự thật. Gioan hoàn toàn thanh thản chấp nhận cái chết vì đến đây sứ vụ của ông đã hoàn tất. Ông ra đi để Đức Giêsu "lớn lên". Thiên Chúa, qua cái chết của ông, đã tôn vinh ông.

Ca ngợi Gioan như thế không hẳn quá lời. Tuy nhiên, không phải duy nhất thánh Gioan được Chúa mời gọi làm người "mai mối" cho Ngài đến với nhân loại, mà tất cả chúng ta cũng được mời gọi. Không chỉ Gioan mới có khả năng làm chứng cho Thiên Chúa, mà tất cả chúng ta đều được trao ban khả năng đó. Tuy nhiên, có bao giờ bạn thấy bận tâm hay ít ra là thoáng nghĩ đến vấn đến này chưa? Sống giữa một thời đại mà con người đang muốn loại trừ Thiên Chúa, đang cố gắng quên đi những giá trị Kitô giáo, bạn có thấy đức tin của mình cũng đang lung lạc không? Bạn có cảm thấy đau lòng khi nghe ai đó nói rằng: "Nó có đạo mà cũng như không"? Bạn đang cố tâm để duy trì, bảo vệ hình ảnh thiện mỹ của Đấng bạn đang tôn thờ hay chính bạn cũng đang chẳng biết, chẳng nghe, chẳng hiểu gì về Đấng ấy?

Còn nhiều, nhiều lắm những vấn nạn mà cả bạn và tôi đều cần phải định tâm lại để suy cho thông, cho sáng. Tôi biết bạn chẳng bao giờ muốn bỏ Chúa của bạn nhưng có lẽ bạn chưa đủ tự tin, chưa bạo dạn dấn thân đó thôi. Bạn đang được mời gọi để làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa trong chính bạn, để ơn cứu độ của Người đến được với mọi người. Vậy bạn hãy làm ông mai bà mối cho Thiên Chúa với những ai chưa biết Người bằng chính cuộc sống tốt lành của bạn.

 

45. Ơn gọi

Qua việc Chúa gọi Samuel, Gioan, Andrê và Simon, chúng ta nhận thấy, mỗi người có một trường hợp riêng, nhưng tất cả lại qui về một mối duy nhất.

Thực vậy, trong cả bốn trường hợp trên thì sáng kiến kêu gọi luôn luôn là sáng kiến của Chúa, chứ không bao giờ là sáng kiến của chính cá nhân, của chính bản thân các ông.

Samuel thì được Chúa kêu gọi trong đền thờ, giữa đêm khuya thanh vắng. Còn Gioan, Andrê và Phêrô thì lại được kêu gọi giữa thanh thiên bạch nhật trên bờ biển. Tất cả các ông đều chứng thực lời Chúa đã phán với các ông sau này:

- Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái.

Tiếp đến, tất cả các ông, một khi đã nghe biết tiếng gọi của Chúa, đã mau mắn bước theo Chúa, không một chút do dự. Thế nhưng, mỗi người một cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh của mình và cách thế mình được kêu gọi, cũng như theo nhiệm vụ mình được trao phó.

Đúng thế, Samuel được gọi trực tiếp từ thuở nhỏ, nhưng phải nhờ thày cả Heli thì mới hiểu được sứ mệnh Chúa ủy thác. Gioan và Andrê hoàn toàn bị thúc đẩy bởi tính tò mò tự nhiên, nhưng cũng đã phải nhờ tới thầy mình là Gioan Tiền hô mới nhận biết Đức Kitô chính là Thiên Chúa, chính là Đấng Cứu thế muôn dân mong đợi. Còn Simon Phêrô, được anh là Andrê tiến cử và sau đó Chúa Giêsu mới chính thức kêu gọi ông bằng cách đặt cho ông một tên mới. Nếu Gioan, Andrê và Phêrô đều là những tông đồ của Chúa, thì vai trò của mỗi ông trong lòng Giáo hội lại rất khác biệt nhau.

Còn chúng ta thì sao? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy tất cả chúng ta đều đã được Chúa kêu gọi nhưng theo những cách thức khác nhau. Đúng thế, người thì nhận ra tiếng Chúa gọi ngay từ thuở nhỏ, nhưng đến sau mới nhận được ơn soi sáng. Người thì trung thành tiến tới từng bước một, kẻ thì sốt sắng lúc ban đầu, nhưng rồi dần dần trở nên nguội lạnh.

Đồng thời chúng ta cũng được Chúa trao phó cho những nhiệm vụ khác nhau, tùy theo hoàn cảnh gia đình và xã hội, cũng như tùy theo khả năng riêng của mỗi người. Nhưng tất cả chúng ta đều phải hợp nhất trong một thái độ căn bản, là muốn trao về cho Đấng chúng ta tin, tất cả những gì thuộc về chúng ta như lời thánh Phaolô đã diễn tả:

- Thân xác chúng ta thuộc về Đức Kitô, nó sẽ được phục sinh.

Hay nói một cách khác:

- Thân xác của chúng ta là chi thể của Đức Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thân xác chúng ta.

Hay nói đúng hơn, tất cả con người chúng ta ngày càng phải thuộc về Chúa hơn. Và chúng ta chỉ thuộc về Chúa một cách dứt khoát và trọn hảo khi đã đi hết đoạn đường đời của chúng ta.

Mỗi người chúng ta có một hoàn cảnh, một sứ mạng riêng biệt. Thế nhưng, chúng ta cùng theo đuổi một mục đích là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Cũng như trong một cơ thể, nhiệm vụ của tay khác với chân, nhiệm vụ của mắt khác với răng. Tuy nhiên, tất cả cùng theo đuổi một mục đích chung đó là sự sống còn và phát triển của cơ thể. Mặc dù chúng ta có những khác biệt, nhưng liệu tất cả chúng ta đã mau mắn đáp trả tiếng Chúa gọi hay chưa?

 

46. Đền đáp ân tình

Huyền thoại Ấn Độ kể rằng: Thuở trái đất này còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không bao giờ từ chối người nào.

Ngày kia, một lão ông lom khom chống gậy tới than thở với thỏ Pôlixa:

- Suốt mùa nước lũ vừa qua, lão không có gì để ăn, đói lả người, chắc lão sẽ chết nay mai thôi. Trước khi chết, lão chỉ xin một miếng thịt thỏ mà lão rất thèm thuồng bấy lâu. Vậy thỏ Pôlixa có cho lão được không?

Thỏ Pôlixa nhìn ông lão hom hem yếu đuối, tội nghiệp, liền nói:

- Được rồi, ông chờ cháu một lát.

Thế là Pôlixa vội đi kiếm củi, xếp thành đống, mồi lửa và nói:

- Ông chờ thịt cháu chín, rồi ông lấy àm ăn nhé!

Nói xong, thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên, lửa tắt, ông lão biến mất. Thì ra đó là một vị thần được sai tới để thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng Đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.

Huyền thoại nào cũng mang một sứ điệp cho con người. Nếu thỏ Pôlixa là hình ảnh của những ai biết hy sinh thân mình cho kẻ khác, thì “Con Chiên” trong Tin Mừng hôm nay chính là hiện thân của Đấng đã hiến thân vì nhân loại. Đó là Đức Giêsu Kitô mà Gioan đã giới thiệu với các môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).

Chỉ có Con Chiên thanh sạch, hiền lành, bị sát tế không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi.

Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho các tội nhân.

Chỉ có Phép rửa trong Thánh Thần, chính là Máu Đức Giêsu mới có thể tẩy xóa tội lỗi và ban ơn thánh hóa.

Qua lời chứng của Goan Tẩy giả, Giáo hội mời gọi chúng ta yêu mến và đền đáp công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu. Đồng thời, cũng kêu gọi chúng ta hãy đi làm nhân chứng cho Người.

Tình yêu đáp lại tình yêu, ân tình đền đáp ân tình, đó là qui luật cơ bản nhất của con người. Niềm tin của người tín hữu Kitô thiết yếu là sự đáp trả ân tình của Chúa.

Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là thiết tha yêu mến Người, mà còn là quyết tâm sống hiến thân như Người đã sống.

Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là nhìn nhận những ân huệ Người ban, mà còn luôn biết mở rộng lòng ra để sống quảng đại với anh em.

Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là biết yêu thương con người, mà còn là yêu thương không mong đền đáp, là cho đi không tính toán thiệt hơn.

Những người quảng đại đáp trả ân tình của Chúa cũng là những chứng nhân. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người nói năng và hành động qua chúng ta. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người dùng cuộc sống chúng ta để tha thứ và yêu thương. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người mượn con người của chúng ta để tiếp tục hiến thân cho nhân loại.

 

47. Ðược biết Chúa qua giới thiệu

Ngày kia, tôi được một người bà con giới thiệu để làm quen với một người bạn. Không ngờ sau khi tìm hiểu và trao đổi với nhau, cả hai chúng tôi cảm thấy rất hợp nhau. Dần dần chúng tôi đã trở nên tri kỉ với nhau. Gặp bất cứ chuyện vui buồn gì chúng tôi đều chia sẻ với nhau. Nhất là khi gặp khó khăn thì bên này sẽ tìm cách giúp đỡ bên kia. Sau mỗi lần giúp nhau vượt qua khó khăn, chúng tôi đều thầm cám ơn người bà con đã giới thiệu cho chúng tôi quen biết nhau.

Tuần trước với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa chúng ta đã được Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu cho chúng ta: "Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người". (Mt 3, 17b). Bởi vì, Chúa Giêsu đã đón nhận Thánh ý Chúa Cha một cách vui vẻ. Hôm nay, chúng ta được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu cho chúng ta một nét quan trọng của Người nữa: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian". (Ga 1, 29).

Con Chiên là một con vật rất hiền từ. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Chúa Giêsu đã nói: "Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói". (Mt 10, 16). Trước nhất Thánh Gioan cho ta biết Chúa Giêsu là Ðấng hiền từ và nhân ái. Người đến thế gian để đem ơn cứu độ đến cho con người. Hơn nữa, hình ảnh Con Chiên này nhắc ta nhớ đến con chiên của người Do thái trong Cựu ước. Chính nhờ máu chiên bôi trước cửa mà người Do thái đã được cứu. Do đó, hằng năm họ đã mừng lễ Vượt Qua rất lớn. Và ngày nay chúng ta cũng nhờ chính máu của Chúa Giêsu mà được cứu khỏi chết đời đời. Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên con người yếu đuối để chúng ta lấy lại quyền làm con Thiên Chúa. Quyền mà chính tổ tông chúng ta đã từ chối.

Ông bà ta có nói: "Vô tri bất mộ". Ðược Chúa Cha và Thánh Gioan giới thiệu cho chúng ta biết thật về Chúa Giêsu. Như thế, có lẽ gì mà chúng ta không tin vào Người.

Hình ảnh con chiên này cũng được ví cho mỗi người tín hữu chúng ta. Là con chiên của Mục Tử Giêsu, thử hỏi chúng ta đã có biết sống ngoan hiền chưa. Hay là còn nhiều lần chúng ta phải làm cho Chúa và Giáo Hội phải đau khổ và mỏi mệt vì ta. Xin cho chúng ta nhớ rằng khi chúng ta biết sống ngoan hiền như Chúa Giêsu là chúng ta đang giới thiệu Chúa cho anh chị em xung quanh. Vì lẽ còn rất nhiều anh chị em xung quanh chúng ta còn chưa được may mắn biết Chúa như chúng ta.

 

48. Ngài thật là Con Thiên Chúa

Có một người là Giêsu người Nagiarét đi về phía chúng ta. Và Gioan Tẩy Giả lôi kéo sự tò mò của chúng ta.

- Người này đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi.

Làm sao không nghĩ đến đoạn mở đầu? “Ban đầu đã có Ngôi Lời”. Thật là mầu nhiệm! Một người nói về một người khác: Ngài đến sau tôi nhưng đã có trước tôi. Gioan Tẩy Giả thú nhận dứt khoát: “Tôi không biết Ngài”. Và mặc dầu Chúa Giêsu là em họ ông.

Chúng ta cũng thế, cho đến cuối đời chúng ta sẽ phải nói: tôi không biết Ngài. Đây là một điều gì đó của mầu nhiệm Nhập Thể, tức Ngôi Lời làm người, sẽ luôn luôn thoát khỏi chúng ta. Nhưng Tin Mừng được trao ban cho chúng ta để chúng ta nhận biết Chúa Giêsu Kitô để nhờ đó chúng ta được sống cuộc sống vĩnh cửu, nghĩa là cuộc sống thật sự, chính là nhận biết Thiên Chúa trong khi nhận biết Chúa Giêsu Kitô (Ga 17,3).

Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta tiếp xúc lần đầu tiên bằng mệnh từ khá làm cho chúng ta bối rối: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Đây không phải là ngôn ngữ của chúng ta và chúng ta có nguy cơ lặp lại điều này một cách máy móc: thế thì chúng ta nói gì về Chúa Giêsu? Vô tội, hiền lành chăng? Phải, nhưng máu và vinh quang nữa. Vô tội, Ngài đã gánh lấy tội lỗi của muôn người và giải thoát chúng ta khỏi sức nặng đè bẹp các cuộc đời. “Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian”.

Thật là một xác thực kỳ lạ! Một trong những sự xác thực làm chúng ta bừng lên niềm vui nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Ngài. Nhờ chiên này mà người ta có thể tránh được tội lỗi. Tội lỗi sẽ luôn luôn tồn tại, đó là bóng tối của tự do của chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu có thể luôn luôn nâng đỡ chúng ta, sự cứu độ hiện diện ở trong cái luôn luôn này. Tội lỗi là một mối nguy, một sự cố trên đường đi, chứ không bao giờ là sự chết chóc, không bao giờ là ngục tù, chúng ta không thể phạm tội mà không được tha thứ bao lâu chúng ta tin tưởng rằng Chúa Giêsu, Chiên vô tội và quyền năng, xóa bỏ tội lỗi.

Quyền năng sao? Đây là tiếng nhiệm mầu biết bao nói lên đều đó: “Ngài có trước tôi”. Ngài có trước Gioan Tẩy Giả, Ngài có trước mọi người. Ngài là Đấng đang có, đã có và đang đến. Đây là nhũng tiếng dùng để giới hạn Đấng vô cùng: “Tôi đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và tôi làm chứng: Đây là Con Thiên Chúa”.

Một ngày kia, đã có một người tiến về phía những người khác và con người đó là Thiên Chúa.

Đứng trước một điều khẳng định này đi qua mà không đốt cháy trái tim và cuộc đời của họ. Họ tiếp tục sống bên ngoài Chúa Giêsu. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng họ đã không gặp được Chúa Giêsu.

Có những người đã thực sự găp Ngài và họ mong ước sống trong tình yêu mãnh liệt với Ngài. Họ đọc nhiều, họ tìm kiếm sự gặp gỡ Chúa trong việc suy niệm Tin Mừng và trong bài giảng, họ nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”. Nhưng họ vẫn mù loà và bất động trước sự dấn thân của anh em, ít ý thức về nhiệm vụ của con người, không can đảm lắm trong những bất trắc. Khi họ tuyên bố Chúa Giêsu là Thiên Chúa thì họ chỉ làm trò cười mà thôi: ‘Nhìn vào cuộc sống của ngươi, người ta thấy Chúa Giêsu của ngươi là Thiên Chúa ở đâu?’.

Cũng có những người vĩ đại. Họ nói tương tự như trên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”, nhưng họ sống với Chúa Kitô một cuộc đời đầy việc kỳ diệu. Họ rất thân tình, vững mạnh và khiêm hạ khi gánh nặng quá sức họ. Cuộc sống của họ là một kinh nghiệm về Chúa Giêsu. Đối với họ, Ngài mới thật là Con Thiên Chúa.

 

49. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao Gioan lại giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, “Đấng xoá tội trần gian”? Ý nghĩa sâu xa của những từ ngữ đó thế nào?

2. Vai trò của Gioan Tẩy Giả đối với Đức Giêsu như thế nào? Tư cách của ông có xứng với vai trò hay sứ mạng của ông không? Tư cách ấy là gì?

3. Qua tư cách và hành động của Gioan, bạn có thể rút ra kết luận gì cho cuộc đời ngôn sứ của bạn? (nên nhớ mỗi Kitô hữu phải là một ngôn sứ!)

Suy niệm

1. Lời giới thiệu đầu tiên của Gioan về Đức Giêsu

Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa của Gioan, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân loại qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau khi Gioan rửa tội cho Đức Giêsu, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian!”. Muốn hiểu hết ý nghĩa lời giới thiệu ấy, ta cần biết tập tục sau đây của người Do Thái:

Theo truyền thống Do Thái trong sách Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh như thế: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7)

Lời giới thiệu của Gioan còn ngầm nói lên bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu: “Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. Theo lời thiên thần nói khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a, ta biết khi Đức Ma-ri-a thụ thai thì bà Ê-li-sa-bét, đã có thai Gioan được 6 tháng (x. Lc 1,36b). Nghĩa là xét về mặt thể chất, Gioan đã ra đời trước Đức Giêsu nửa năm. Nhưng Gioan lại giới thiệu Đức Giêsu là Đấng “có trước” mình. Như vậy từ ngữ “có trước” ở đây không thể hiểu theo nghĩa thể chất, mà phải theo nghĩa tâm linh, nghĩa là ông ám chỉ nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu.

2. Gioan, người dọn đường cho Đức Giêsu

Để chuẩn bị xa cho việc Đức Giêsu đến với nhân loại, Thiên Chúa đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy hàng mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách khác. Để chuẩn bị gần, Ngài dùng một người tiền hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới thiệu. Người đó là Gioan Tẩy Giả.

Gioan là bà con với Đức Giêsu, vì mẹ của ông Gioan là chị họ của Đức Giêsu (x. Lc 1,35a). Vì thế, chắc chắn ông Gioan và Đức Giêsu đã quen biết nhau, nhưng Gioan không biết hoặc biết không chắc chắn Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giêsu đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: “Chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần"“. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, Gioan bắt đầu làm chứng về Ngài.

3. Những ngôn sứ của Thiên Chúa

Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho ta thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời đại, luôn luôn có sự giao tiếp với Thiên Chúa, và được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is 6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi đó có những trường hợp khó có thể chối từ như trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x. Gn 1,1-2,11). Các ngôn sứ cũng được Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của Ngài (x. Am 3,7), được Ngài hướng dẫn cụ thể những việc phải làm (rất nhiều câu bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các ngôn sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và lời chứng của mình, và lời chứng của họ mới có sức mạnh thuyết phục. Nếu không, lời chứng của họ chỉ là những xác quyết thiếu căn cứ, dựa trên những tin tưởng rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên xưng xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên những tin tưởng chủ quan, không dựa trên những nền tảng chắc chắn mà lại dám lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm trọng.

Tương tự như Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng quở trách, kết án, chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức sắc này (x. Is 56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs 4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt 23,13-32), mà cả vua chúa quan quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12; 14,24-27, đặc biệt Mt 14,4). Điều này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo thì ngoại trừ bề trên mình là chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền chỉ dạy hay sửa sai mình.

Và đã là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng của mình giống như Gioan. Đó là đặc điểm không thể thiếu của những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa. Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ đi chăng nữa! Đó là dấu chứng chắc chắn để phân biệt thật giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ thật là bị “ném đá” và bạc đãi, còn ngôn sứ giả thì được ưu đãi, trọng vọng, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi do những thế lực phản công lý dành cho để thưởng công cho sự im lặng rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).

4. Ngôn sứ phải sống vì Thiên Chúa và tha nhân, không vì mình

Trong cách giới thiệu của Gioan về Đức Giêsu, ta thấy ông luôn luôn làm cho Đức Giêsu nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Chẳng hạn: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”, “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người” (Ga 3,28), “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27). “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi” (Mt 3,11), “Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Khi đã hoàn thành nhiệm vụ, Gioan rút lui vào bóng tối, để Đức Giêsu đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.

Đây cũng là một dấu chứng của ngôn sứ thật. Người ngôn sứ thật phải từ bỏ được chính “cái tôi” của mình, và thể hiện được tinh thần quên mình, tự hủy như Đức Giêsu (Pl 2,6-8). “Không làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình; không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,3-4). Một người coi cái tôi của mình quá lớn chắc chắn không phải là ngôn sứ thật. Họ không thể sống vì Chúa, vì tha nhân được, mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ như vậy: “có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người”.

Rất nhiều người làm ngôn sứ, làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách rộng rãi… nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình thương đối với tha nhân thúc đẩy, mà do tính ham được tiếng khen, lời ca tụng, muốn nổi danh là đạo đức, là có lòng thương người, v.v… Họ đã dùng danh nghĩa Thiên Chúa để tạo nên danh thơm tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc cao sang trong Giáo Hội và xã hội. Tâm lý này đã được Đức Giêsu vạch mặt: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen” (Mt 6,1), Và thánh Phao-lô cho biết sự vô giá trị của những hành động như vậy: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Tính chất khoa trương, thích “phình to bản ngã” này, Đức Giêsu gọi là “men Pha-ri-siêu”: “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả” (Lc 12,1, x. Mt 16,6.11; Mc 8,15). Là người Kitô hữu, là ngôn sứ, chúng ta cần phải tránh loại “men” rất khó tránh này.

Cầu nguyện

Lạy Cha, Đức Giêsu đã đến để thiết lập Giáo Hội, tức một dân tộc ngôn sứ cho Cha ở trần gian. Giáo Hội không chỉ có sứ mạng “tư tế” (thờ phượng Thiên Chúa), mà còn có sứ mạng “vương đế” (làm chủ bản thân, tập thể, ngoại cảnh, lịch sử), và sứ mạng “ngôn sứ” (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương) nữa. Nhưng Giáo Hội đã làm tròn sứ mạng “ngôn sứ” ấy trước mặt các dân tộc chưa? Xin cho chính bản thân con, cũng như mọi Kitô hữu khác ý thức được sứ mạng “ngôn sứ” tức “làm chứng” của mình trong môi trường mình sống, trong xã hội và Giáo Hội, nhất là khi chân lý, công lý và tình thương bị coi thường, bị chà đạp. Xin cho con đức can đảm phải có của một ngôn sứ như Gioan Tẩy Giả, để con thực hiện tốt sứ mạng ngôn sứ của mình. Amen.

home Mục lục Lưu trữ