Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 30

Tổng truy cập: 1375127

SỰ SỐNG MỚI

Sự sống mới

Câu lạc bộ “Bạn giúp bạn” hình thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với sáu thành viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới dấu chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.

Hiện nay, câu lạc bộ “Bạn giúp Bạn” đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm 12 người, trong đó có ba người Công giáo, riêng nữ tu Trần thị Kim Loan, dòng Da minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho người nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.

Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích Thánh tẩy với một đức tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết. Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời còn lại, và anh đã ra đi bình an trong tình yêu của Chúa”.

Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác. Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất hạnh hơn anh.

Kitô hữu là người tin vào Đấng đã chết và đã sống lại. Đấng đang sống sự sống tràn đầy sung mãn của Thiên Chúa, và Người mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong Người cũng là ở trong Cha, và Thầy ở trong anh em”. Chính khi hiện diện một cách thâm sâu trong cung lòng của Thiên Chúa mà người tín hữu nhận được sự sống mãnh liệt phong phú của Đấng Phục sinh: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống”. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm rất sâu sắc về sự sống mới này khi người viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.

Sức sống dồi dào ấy chỉ có thể phát huy và tăng trưởng đến mức sung mãn, là khi người tín hữu dám bước ra khỏi cuộc sống co cụm, ích kỷ của mình, để ôm lấy bao nỗi khốn khổ bất hạnh của anh em. Có yêu thương là có Chúa tỏ mình, có Chúa tỏ mình là có sức sống mới sẽ bùng lên, tuôn trào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”.

Nếu con người ngày nay muốn kéo dài sự sống, thì người tín hữu phải cho họ thấy đời sống trường thọ chỉ có ý nghĩa khi người ta biết sống đời phục vụ trong yêu thương.

Nếu con người ngày nay thích tiện nghi sung túc, thì người tín hữu hãy chứng minh cho họ rằng cuộc sống càng bớt hưởng thụ thì đời sống càng lành mạnh, thanh thoát.

Nếu con người ngày nay lo bảo đảm cho cuộc sống, thì người tín hữu hãy giới thiệu cho họ cái bảo hiểm an toàn nhất là sự sống nước trời.

Lạy Chúa xin tỏ mình ra cho chúng con, để chúng con được kiên vững giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban sự sống Chúa cho chúng con, để cây đời chúng con mãi xanh tươi. Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để cuộc đời chúng con bùng lên sự sống mới.


 

32. Lề luật và tình yêu

Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay là: "Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn của Thầy". Lời dạy của Chúa Giêsu xem ra không êm tai mấy. Hình như giữa tình yêu và lề luật có vẻ như xung khắc nhau. Tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt. Tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái... Trong khi lề luật, các giới răn lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do, nhưng nhờ lề luật & tình yêu chúng ta mới biết đường dẫn tới hạnh phúc.

Nhìn vào đời sống thường ngày chúng ta sẽ thấy được: Có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó kiểm chứng. Có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Chẳng hạn, vâng lời cha mẹ là cách diễn tả tự nhiên lòng hiếu thảo và yêu mến của con cái. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Chúa hơn hết, chính là yêu mến và tuân giữ những điều Chúa truyền dạy. Do đó, lòng yêu mến Chúa thật sự đòi hỏi ta giữ các điều răn của Chúa cũng là điều rất tự nhiên.

Như vậy khi suy nghĩ kỹ ta sẽ thấy lời dạy của Chúa Giêsu rất hợp tình hợp lý. Có thể nói: yêu mến và giữ lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các giới răn là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Và cũng thiếu sức sống khi giữ luật mà không có tình yêu. Không thể thiếu một trong hai. Không thể có tình yêu mà không có dấu hiệu gì được diễn tả ra bên ngoài.

Nếu đời sống chỉ có tình yêu mơ hồ, không được định hướng sẽ dẫn đến lối sống hoàn toàn dựa trên sở thích, cảm tính nhất thời. Ngược lại, đời sống sẽ trở nên nặng nề, máy móc nếu ta chỉ có cố gắng để vác cho xong cái ách lề luật. Một người trong tù cũng đang giữ luật, nhưng anh ta phải giữ luật trong đau khổ và nước mắt. Nhiều khi chính ta cũng đang tự giam mình trong một ngục tù vô hình của lề luật. Hoặc ta đang giữ luật trong sự kiêu ngạo như một Pharisêu. Tất cả những cách giữ luật đó không phải là điều Chúa Giêsu mong muốn.

Ta hãy nhìn vào gương thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ngài chu toàn mọi bổn phận cách thật hoàn hảo. Dù quét nhà, dù giặt dủ, dù làm vườn, dù dọn áo lễ, thánh nữ làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa. Ngài thường nói: “Hãy nhìn hạt sương buổi sáng. Hạt sương tầm thường chẳng có giá trị gì. Nhưng khi ánh nắng mặt trời chiếu vào, hạt sương toả sáng lóng lánh như hạt ngọc quí giá. Những việc chúng ta làm chỉ là những hạt sương tầm thường. Nhưng tình yêu là ánh sáng mặt trời làm cho những việc tầm thường trở nên giá trị". Việc giữ luật của chúng ta sẽ là tầm thường, nặng nề nếu không xuất phát từ tình yêu.

Còn Thánh Phanxicô Atsidi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, người này nói với ngài rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa và giữ giới răn của Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què ngồi bên lề đường. Ngài dừng lại hỏi người hành khất: "Này anh, nếu tôi chữa cho anh thấy được và đi được thì anh có yêu mến tôi không?". Người hành khất trả lời: "Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài, mà tôi còn xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài". Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh Phanxicô quay sang nói với người bạn: "Đó anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được mà còn hứa với tôi như thế huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn, Ngài còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh, vậy mà anh lại không yêu mến Chúa và sống theo lời dạy của Chúa sao?". Thiết tưởng lời của thánh Phanxicô cũng phải là tâm tình ta phải có trong đời sống của mình. Đó là thực sự yêu mến và giữ giời răn của Chúa để ta có được sự sống và hạnh phúc đích thực. Amen.


 

33. Lòng anh em đừng xao xuyến …

Trước khi rời khỏi thế gian nay để về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến...”.

Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phản bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Gioan 13,21-30).. rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Gioan 13,31-36)... sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người “ba lần”, trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Gioan 13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn vô tư tưởng các môn đệ trong đời sống của chúng ta cũng thế có những giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi. Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp, bạo lực, nạn nhân mãn, nạn đời sự ô nhiễm của môi trường, những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra. Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xóa nhòa Đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.

Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: “Lòng anh em đừng xao xuyến!” chúng ta hãy đắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa... về bất cứ điều gì.

“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”

Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: đức tin, sự bình an sâu xa của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa một ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đức tin mà người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều Đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA... Hãy tin vào THẦY...”. Vậy thì Người là ai để nói như thế?

“Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

“ Phải, Đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể. Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể Đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phụng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng khác...và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng khác ấy, Đấng hoàn toàn khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha.

Như thế Đức Giêsu đối diện với cái chết của Ngài, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình: Người sẽ tìm lại nơi Đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.

Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ...

“Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”

Đây là những lời dịu dàng không tả nổi: “Đem về với Thầy... trở lại...” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng hoàn toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất gần, thân thiết chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nổi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.

“Hễ Thầy ở đâu, anh em cũng ở Đó”.

Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở Đó”. Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính “đời sống thánh thiêng” được ban cho chúng ta mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa! Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở Đó con người đã được lập trình để trở thành “như Thiên Chúa” người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!”

“Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”

Đây là một điệp khúc: “Thầy đi...” “chúng con không biết Thầy đi đâu...”. Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? Ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?.

Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống: Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.

Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa Đức Giêsu là “người mở đường”, Người đã mở ra một lối thoát cho cái hữu hạn và cho đặc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về “nhà của Chúa Cha”.

Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.

Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự “mạc khải” này vẫn còn một phần “không thể quan niệm được”: ánh sáng.. nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.

Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai).. bây giờ, anh em biết: Người (thì hiện tại).

Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! Rõ ràng có một thứ hồ nghi, không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết...”. Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế có thể một ngày nào Đó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành trí thức, như lời Đức Gìêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một “cú sốc của tương lai” đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: “Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người!”. Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: “Thời sau hết đã ở Đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người” (Khải Huyền 21,3). Một ngày nào Đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào Đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung: Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.

Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.

Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời Người ở trong Chúa Cha và ai “thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha”. Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người “chứa đầy Thiên Chúa”, một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: “Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy...Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...”

Phải, đã có một con người là Giêsu Nadarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chần của mình và trên một miền đất xác định, đất Israen, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người.. một người sắp chết như mọi người... và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời Đó.. đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.

“Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy chính người làm những việc của mình: Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì chính các việc kia vậy thật Thầy bảo thật anh em ai tin vào Thầy, thì người Đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người Đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.

Thiên đàng không phải là một sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải là một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua sự chua cay hiện tại Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc sống đời đời.

Một thiên đàng để bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người “làm những việc Đức Giêsu làm”: Có một cách nào Đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào Đó cũng chính là cách sống của Đức Giêsu.


 

34. Tình yêu vâng lời

Với thánh Gioan, chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời. “Thánh Gioan chẳng bao giờ cho phép biến tình yêu thành một thứ cảm xúc. Tình yêu được bộc lộ dưới tính cách đạo đức, bày tỏ ra bằng sự vâng lời.” (Barett). Chúng ta biết có nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Có những thanh thiếu niên bảo chúng yêu thương cha mẹ, nhưng lại gây buồn khổ, lo âu cho cha mẹ. Có những ông chồng bảo yêu vợ, có những bà vợ bảo yêu chồng, nhưng lại hay cộc cằn, gắt gỏng, thô lỗ, nhỏ nhen, vô tâm vô tình, làm cho chồng hay vợ mình phải đau khổ. Với Chúa Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng sự vâng lời chân thật.

Nhưng Chúa Giêsu đã không bỏ mặc chúng ta chiến đấu một mình trong đời sống theo Ngài. Ngài sẽ sai một Đấng Giúp Đỡ đến. Bản Việt ngữ gọi là Đấng An Ủi. Khi khảo sát từ ngữ Paracletos này thật kỹ, chúng ta mới lãnh hội được phần nào tính cách phong phú về giáo lý về Chúa Thánh Thần.

Parakletos có nghĩa là một người được gọi đến, chính lý do tại sao, người đó được gọi đến khiến từ ngữ đó có ý nghĩa thật độc đáo. Người Hi lạp thường dùng chữ này theo nhiều nghĩa khác nhau. Có thể là một nhân chứng được tòa mời đến bênh vực cho người nào đó. Có thể là một trạng sư được gọi đến để biện hộ cho bị cáo nặng tội. Có thể là một chuyên viên được gọi đến để cho ý kiến về một trường hợp khó khăn. Chẳng hạn khi một đạo quân xuống tinh thần, người ấy được gọi đến để làm cho đội quân lên tinh thần, lấy lại can đảm. Paracletos luôn luôn là người được gọi đến để giúp đỡ trong lúc khó khăn, lúc cần. Có một thời dịch là Đấng An Ủi, từ này do nguyên ngữ La tinh fortis có nghĩa là dũng cảm: người yên ủi là người khiến kẻ mất tinh thần trở thành dũng cảm. Ngày nay, chữ yên ủi hầu như chỉ còn có nghĩa là làm cho khỏi đau buồn, người an ủi là người thông cảm khi ta có chuyện buồn khổ. Chắc chắn Chúa Thánh Thần đã làm công tác đó, nhưng giới hạn công tác của Ngài vào nhiệm vụ đó thôi, quả là đánh giá Ngài quá thấp một cách đáng buồn. Chúng ta vẫn thường nói đến khả năng đối phó với mọi hoàn cảnh. Đó đúng là công tác của Chúa Thánh Thần, Ngài đến với chúng ta, cất đi mọi khuyết điểm, bất năng của chúng ta, giúp chúng ta đủ sức đối phó với cuộc sống. Chúa Thánh Thần thay thế đời sống thất bại của chúng ta bằng cuộc đời đắc thắng.

Vậy, Chúa Giêsu có ý nói: “Ta giao cho các ngươi một nhiệm vụ nặng nề, Ta sai các ngươi đi thi hành một công tác hết sức khó khăn, nhưng Ta cũng phái theo các ngươi một Đấng Paracletos để hướng dẫn các ngươi biết phải làm gì và giúp các ngươi thực hiện công tác ấy!”

Chúa Giêsu tiếp tục cho biết thế gian không nhận biết Thánh Thần. Chữ “thế gian” ở đây chỉ về những ai sống như không hề có Thiên Chúa. Điểm Chúa Giêsu muốn nói: chúng ta chỉ có thể thấy được điều mà chúng ta có khả năng nhìn thấy. Nhà thiên văn nhìn lên bầu trời sẽ thấy được nhiều điều hơn người thường. Nhìn vào bờ rào, nhà thảo mộc học tìm thấy những khác lạ của cỏ cây hơn một người chẳng biết tý gì về khoa thực vật. Bác sĩ nhìn con người thì khám phá được nhiều hơn một người không chuyên môn. Người am hiểu nghệ thuật nhìn vào bức tranh sẽ chiêm ngưỡng được nhiều hơn về đường nét tuyệt diệu. Người biết chút ít về âm nhạc nghe một bản giao hưởng sẽ thích thú hơn người chẳng biết âm nhạc. Những gì chúng ta trông thấy và từng trải luôn tùy thuộc vào nhãn quan và kinh nghiệm của chúng ta. Vậy người nào đã loại trừ Thiên Chúa sẽ chẳng có giây phút nào trong ngày để trông đợi được nghe Ngài. Người ấy sẽ nghĩ rằng dùng thời giờ như vậy là phí phạm. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhận được Chúa Thánh Thần đến nếu không yên lặng chờ đợi, cầu nguyện, trông mong Ngài đến với mình. Người thế gian rất bận rộn đến nỗi không dành một cơ hội nào để Chúa Thánh Thần có thể đến với họ. Thánh Thần chẳng phá cửa lòng ai bao giờ, Ngài chờ đợi để được tiếp rước. Vậy, suy nghĩ đến những điều kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm và đem đến cho đời sống, chắc chắn chúng ta sẽ dành nhiều thời giờ hơn giữa đời sống bon chen này, để yên lặng chờ đợi Ngài đến với quyền năng trọn vẹn của Ngài.

Lúc này, chắc các môn đệ đã cảm nhận được những việc sắp xảy ra. Hẳn họ đã cảm nghiệm được chuyện bi thảm đang tới gần. Nhưng Chúa Giêsu phán: “Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu”. Từ ngữ “Mồ côi” dùng ở đây có nghĩa là không có cha, từ ngữ này cũng được dùng để chỉ đám môn sinh, đám học trò bị mất thầy, mất đi những lời dạy bảo của người thầy thân yêu. Lúc Socrates chết, Plato nói về các môn sinh của Socrates rằng: “Họ nghĩ họ sẽ phải sống mồ côi suốt quãng đời còn lại như những đứa con mất cha, và họ chẳng biết phải làm gì”. Nhưng Chúa Giêsu bảo các môn đệ rằng, trường hợp của họ thì không như thế, Ngài phán: “Ta sẽ trở lại”.

Ngài nói về sự phục sinh và việc Ngài luôn luôn có mặt bên họ sau khi phục sinh. Họ sẽ thấy Ngài vì Ngài sẽ sống, và vì chính họ cũng sẽ sống. Chúa muốn nói là họ sẽ sống thuộc linh. Lúc này họ bối rối và tê liệt bởi thảm cảnh đang tới gần, nhưng sẽ có ngày mắt họ sẽ mở ra, tâm trí họ hiểu được, lòng họ bừng sáng, chừng đó họ sẽ thật sự nhìn thấy Ngài. Đó đúng là điều đã xảy ra sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Sự phục sinh của Ngài biến thất vọng thành hi vọng, khi đó họ mới biết rõ không chút nghi ngờ rằng Ngài là Con Thiên Chúa.

Qua những lời này, Gioan đề cập đến những ý tưởng chẳng bao giờ rời xa tâm trí ông:

1. Trước nhất và trên hết: có tình yêu thương. Với tông đồ Gioan, tình yêu thương là căn bản của mọi sự. Thiên Chúa yêu thương Chúa Giêsu, Chúa Giêsu yêu thương Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương loài người, Chúa Giêsu yêu thương loài người, loài người yêu thương Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, loài người yêu thương nhau. Trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người với con người, tất cả đều buộc chặt vào nhau bằng sợi dây yêu thương.

2. Một lần nữa, Gioan lại nhấn mạnh sự cần thiết của việc vâng lời. vâng lời là bằng chứng duy nhất của tình yêu thương. Khi Chúa Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra cho những người Ngài yêu mến, chứ không cho các đạo sĩ, các thầy thông giáo hay những người Do thái thù ghét Ngài.

3. Tình yêu vâng lời và tin cậy sẽ đưa đến hai điều. Một là sự an toàn tuyệt đối. Vào ngày toàn thắng khải hoàn của Chúa Cứu Thế, những người yêu thương vâng lời Ngài sẽ được an toàn giữa một thế gian tan nát. Hai là nhận được mạc khải ngày càng đầy đủ hơn. Sự mạc khải của Thiên Chúa là điều đắt giá. Bao giờ cũng có một căn bản đạo đức trong sự mạc khải. Chúa Giêsu chỉ bày tỏ Ngài cho những người vâng giữ các giới răn của Ngài. Chẳng hề có kẻ ác nào nhận được mạc khải của Thiên Chúa. Kẻ ác có thể được Thiên Chúa xử dụng, nhưng chẳng bao giờ được thông công với Ngài. Thiên Chúa tự mạc khải, tự tỏ ra cho người tìm kiếm Ngài. Chỉ có những người dù thất bại mà vẫn biết vươn lên, mới được Thiên Chúa cúi xuống để tiếp xúc. Sự tương thông với Thiên Chúa và sự mạc khải của Thiên Chúa tùy thuộc vào tình yêu thương, và tình yêu thương tùy thuộc vào sự vâng lời. Càng vâng lời Thiên Chúa chúng ta càng hiểu biết Ngài, và người nào đi trong đường lối của Thiên Chúa nhất định là đang được cùng đi với Thiên Chúa


 

35. Yêu là chu toàn lề luật

Tiếp tục trong diễn từ chia tay của Chúa Giêsu với các môn đệ, sau khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình đi trên Con Đường là chính Ngài để đến với Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu lại mời gọi các ông hãy đi trên con đường đó với một lòng yêu mến chân thật. "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (G14,15).

Trong thực tế của cuộc sống, đặc biệt nơi người Việt Nam, chúng ta dể dàng nhận ra nguyên tắc song hành này trong đời sống con người, "yêu ai thì muốn làm đẹp lòng người đó". Trong cuộc sống đức tin, việc chúng ta tuân giữ các giới răn của Chúa, các luật của Giáo hội có phải là một đòi hỏi quá đáng không và con người có thể tuân giữ các giới luật đó không?

Đôi khi trong cách sống đạo của người Kitô hữu đã làm cho những người ngoài Công giáo hiểu rằng: Đạo Công giáo là một tôn giáo với vô số các luật lệ, cấm đoán, làm cái gì cũng tội, cái gì cũng không được phép làm....và như thế những người giữ đạo Công giáo quả là tội nghiệp vì đạo đã làm cho họ mất tự do. Nhưng thật sự có phải như thế không? Cái gì làm cho con người mất tự do?

Trở lại với những trang đầu tiên của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho họ được sống trong ân sủng của Thiên Chúa theo như kiểu nói của "Sách Giáo Lý hỏi thưa" là họ không phải đau khổ và không phải chết. Lý do nào mà Sách giáo lý nói như thế? Có phải họ không phải lao động, có phải họ không phải dấn thân cho nhau?... Chắc hẳn là không phải như thế, bởi chính trong Sách Sáng Thế đã nói: Thiên Chúa đặt con người vào trong vườn cho họ canh tác và giữ vườn. Canh tác là gì nếu không là lao động, canh tác là gì nếu không phải là cộng tác với Chúa làm cho công trình tạo dựng của Chúa ngày một tốt đẹp hơn. Sách giáo lý khi nói họ (nguyên tổ loài người) không phải đau khổ và không phải chết là có ý nói rằng họ sống trong tình yêu tròn đầy với Đấng Tạo Hóa và với nhau nên những gì họ thể hiện với Đấng Tạo Hóa cũng như đối với nhau đều là những hạnh phúc được dấn thân, hạnh phúc gì đã làm đẹp lòng "Người Yêu" và họ muốn dấn thân để được thể hiện tất cả trong tình yêu.

Cũng vậy trong đời sống gia đình người ta không thể nào thấy được tình yêu mà người nam và người nữ trao hiến cho nhau nhưng qua hành động hy sinh cho nhau, phục vụ nhau người ta có thể nhận định được tình yêu hai người trao cho nhau lớn lao như thế nào. Cũng vậy, trong đời sống đức tin, tôi không thể nào thấy được đức tin của tôi to lớn như thế nào, nhưng tôi hoàn toàn có thể biết được tôi có tin Chúa hay không qua việc tôi có hạnh phúc khi tuân giữ các giới răn của Chúa hay không. Khi tôi yêu mến Chúa thật sự thì tôi mới mong ước được đáp lại tình yêu của Ngài bằng việc tuân giữ lời Ngài.

Mà thật ra, việc tuân giữ các giới răn của Chúa không làm cho con người mất tự do nhưng lại làm cho con người có tự do và hạnh phúc thực sự. Bởi bản chất con người là siêu nhiên, con người từ nơi Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa nên khi tuân giữ luật Chúa là con người tháp nhập mình với chính nguồn cội của mình là Thiên Chúa và khi đó con người được hạnh phúc trọn vẹn.

Trong thâm tâm mỗi người Kitô hữu chúng ta, ai cũng muốn yêu mến Chúa cách trọn vẹn. Nhưng cuộc sống đôi khi làm cho chúng ta lu mờ đi khát vọng yêu mến này. Nhớ lời dạy của Chúa Giêsu "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ các điều răn của Thầy" (x Ga14,15) để mỗi người chúng ta biết để tâm thi hành lời dạy của Chúa trong cuộc sống mình, để chúng ta biết yêu mến Chúa nhiều hơn và để chúng ta tìm được hạnh phúc chân thật trong tình yêu của Chúa.


 

home Mục lục Lưu trữ