Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 35
Tổng truy cập: 1376050
SỬA LỖI NHAU
Sửa lỗi cho nhau – Lm Ignatiô Hồ Thông
Ed 33, 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em mình.
Rm 13, 8-10
Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.
Mt 18, 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mátthêu trích dẫn những lời của Đức Giêsu mời gọi các Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách, với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33, 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm thành thánh Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi lưu đày một phần lớn dân cư, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những đồng bào lưu đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.
Bối cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa Ba-by-lon, nơi vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong cảnh lưu đày. Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Diễn ngữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người. Trong câu này, diễn ngữ “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thường sử dụng đặc ngữ này để nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân mõng dòn, yếu đuối và tội lỗi (6, 1-6). Mỗi lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào chỗ của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình như một kẻ vô danh tiểu tốt.
2. Người canh gác:
“Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel”. Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố là “người canh gác nhà Israel”. Người canh gác đứng trên vọng gác tường thành có nhiệm vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà cảnh giác dân thành kịp thời. Vì thế, vai trò của ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ điệp mà còn cảnh báo, đe dọa để kêu gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những án phạt.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên sứ vụ ngôn sứ của ông thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33, 30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân quen và gần gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể ngỏ lời với từng người một những lời cảnh báo trong tình huynh đệ.
3. Bổn phận đối với anh em mình:
Đối với dân Israel, chết không gì khác hơn là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu Ước thường trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa (x. Đnl 30, 15-20; Hc 15, 15-16).
Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18, 20). Số phận của mỗi người không phải luôn luôn bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải trở thành người công chính.
Từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy có bổn phận phải giúp anh em mình biết biện phân tỏ tường, nếu không, đừng nghĩ là mình vô can trước sự hư mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành động nầy mà Đức Giêsu sẽ đích thân căn dặn các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13, 8-10)
Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l#ý của thư gởi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người Kitô hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù phải chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất được.
1. Yêu người theo Cựu Ước:
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ như tội ngoại tình, tội sát nhân, tội trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh nhiên bổn phận yêu người. Yêu người được sách Lê-vi 19, 18 công bố và được thánh Phaolô trích dẫn: “Ngươi phải yêu anh em đồng loại như chính mình”.
2. Yêu người theo Tân Ước:
Theo Cựu Ước, “anh em đồng loại” trước hết là những người cùng chung một dân tộc, đồng bào. Đức Giêsu đã mở rộng huấn lệnh yêu người đến tất cả mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phaolô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Kitô giáo nữa. Thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người bất khả phân ly với huấn lệnh mến Chúa, từ mến Chúa mà yêu người được khơi nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn, chính là theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người khôn cùng. Ở đây, bằng thể thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13, 8 và 9).
TIN MỪNG (Mt 18, 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mátthêu tập hợp những huấn lệnh mà Đức Giêsu đã ngỏ lời với Nhóm Mười Hai, cộng đồng đầu tiên của Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có thể chia thành hai phần: phần thứ nhất (18, 1-14) bắt đầu với “những kẻ bé mọn” và kết thúc với dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18, 15-35) bắt đầu với việc “sửa lỗi cho anh em” và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không biết xót thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong đức ái.
1. Sửa lỗi anh em:
Việc Đức Giêsu mời gọi các môn đệ sửa lỗi cho nhau đã được Luật Mô-sê đề cập đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19, 17). Câu trích dẫn nầy đặt liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Như vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giêsu phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ.
- Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp gỡ riêng tư chỉ giữa hai người, không ai khác hay biết.
- Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.
- Nếu lần nầy cũng thất bại, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị khai trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, tức là một người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện, mà người ta tránh giao tiếp.
Với những lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo ba giai đoạn như trên, chắc chắn Chúa Giêsu muốn dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên nầy theo liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người lỗi phạm.
2. Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giêsu định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng quyền, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng định năng quyền nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20, 23).
Đức Giêsu thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giêsu đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu lực của lời cầu nguyện như thế vào trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn Chúa Giêsu nhắm đến không chỉ việc tiến hành sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa, ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra và sửa lỗi để cộng đoàn không phải mất bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của vị mục tử nhân lành là không muốn bất cứ con chiên nào phải hư mất.
10. Sửa lỗi người anh em
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,
thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác,
nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị:
coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng
Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.
Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen.
11. Trách nhiệm - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một du khách đang rảo qua khu danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào. Họ nói chuyện với nhau về các loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24 năm. Cụ đã gặp chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây ba năm. Vậy ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả lương cho cụ? Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không? Tôi chưa hề gặp ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng lãm cảnh đẹp này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông, tôi chu toàn trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay, ngay bây giờ. Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi cũng được vui hưởng cảnh đẹp.
Ông Adong và bà Evà có hai con trai đầu, Cain và Abel. Vào một ngày kia, Thiên Chúa đã hỏi Cain: Abel, em ngươi đâu rồi? Cain thưa: Con không biết, con là người giữ em con sao? (Stk 4, 9). Vì ghen tương, Cain đã giết em mình, nhưng Cain đã chối từ trách nhiệm. Thiên Chúa thấu tỏ mọi sự trong lòng. Cain và Abel là anh em ruột, đương nhiên anh em là có trách nhiệm nâng đỡ bao bọc lấy nhau. Bất cứ việc gì xảy ra trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội, phải có người chịu trách nhiệm. Người ta thường nói rằng: Tội qui vu trưởng. Thường là người đứng đầu một tổ chức sẽ chịu trách nhiệm trước. Chúng ta không thể đổ thừa quanh. Nhân loại là một loài thụ tạo cao quý có trí khôn, ý chí và tự do. Trách nhiệm của con người liên đới được mở rộng qua các tổ chức xã hội để giúp nhau thăng tiến.
Khi dân số tăng trưởng, con người đã tổ chức cơ cấu đời sống gia đình và xã hội. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất để xây dựng một cộng đoàn xã hội. Chúng ta biết mỗi một cá nhân đều có căn tính riêng biệt. Trong gia đình xã hội có nhiều thành viên khác nhau hợp lại, bao gồm có người khôn kẻ dại, người tốt kẻ xấu, người rộng kẻ hẹp và người mạnh kẻ yếu. Mọi người cần tựa dựa vào nhau để sinh sống. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm liên đới để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tiên tri Ezekiel đã rao giảng về sự giúp nhau sửa đổi: Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi (Ez 33, 9). Chúng ta không thể nhắm mắt, bịt tai và làm ngơ trước những sự dữ hay sự xấu nơi những người anh chị em. Chúng ta có bổn phận nâng đỡ nhau nhận ra những sự sai trái và giúp nhau sửa đổi, đây là một món nợ của tình người.
Vì mang bản tính yếu đuối, hằng ngày mỗi người chúng ta đều phạm lỗi, kẻ ít người nhiều. Có những lỗi nhẹ, dễ dàng xí xóa bỏ qua. Nhưng đôi khi có những thói hư tật xấu đã trở thành thói quen thì cần được chỉ giáo và khuyên răn. Chúng ta biết sự xấu được ngụy trang dưới nhiều cách thế, chúng ta khó có thể lật tẩy để nhận diện ngay. Đôi khi những tật xấu núp dưới bóng của những cử chỉ và lời nói ngon ngọt, êm dịu và nhẹ nhàng. Có những phát biểu tưởng là góp ý tốt lành, nhưng ẩn ý là phê bình, chỉ trích, gièm pha, ăn không nói có… Tất cả cái xấu cũng do cái lưỡi không xương lắt léo nhiều đường. Lời nói như chiếc dao hai lưỡi rất nguy hiểm. Lời nói có thể xây dựng đoàn kết và cũng có thể gây hệ qủa xấu như chia rẽ, thù oán và hại người hại ta. Nếu không xét mình một cách thành thật, chúng ta rất khó nhận ra những lỗi lầm này.
Là anh chị em sinh hoạt chung trong một nhóm, hội đoàn hay cộng đoàn, chúng ta có trách nhiệm nhắc bảo và giúp đỡ nhau sửa sai. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sống tình tương thân tương ái giúp nhau nhận lỗi và sửa lỗi: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em (Mt 18, 15). Biết rằng sửa lỗi anh chị em không phải dễ, vì chúng ta ai cũng phạm lỗi. Chúng ta biết người phạm lỗi là những người yếu đuối. Ít có ai muốn nghe những điều tiêu cực về chính mình. Vì chúng ta dễ tự ái, nên rất khó chấp nhận sự sửa sai của người khác. Thường thì việc người thì sáng, việc nhà thì đui. Chúa Giêsu mách nước cho chúng ta về sự sửa lỗi, trước hết hãy sửa dạy cách kín đáo và riêng tư. Chúng ta phải hết sức tế nhị gợi ý để người khác nhận ra lỗi của họ. Khi nói đến vết thương lòng thì rất dễ nhạy cảm. Những phản ứng tự nhiên của kẻ mắc lỗi thường thì gay gắt khó chịu. Nhưng với lòng từ bi và sự kiên nhẫn, chúng ta có thể thuyết phục người anh chị em chịu nhận sai lầm và trách nhiệm của việc sai trái.
Vì con người có ý chí tự do, nên mỗi người phải chịu trách nhiệm về việc mình đã làm trong cả tư tưởng, lời nói, chữ viết và hành động. Nơi cuộc sống chung, có những trách nhiệm cụ thể cá nhân và có những trách nhiệm liên đới tập thể. Trong đời sống gia đình, người cha, người mẹ và con cái có những bổn phận và trách nhiệm riêng biệt. Nơi cuộc sống xã hội, mỗi tổ chức đều có người chịu trách nhiệm trong lãnh vực của mình. Mỗi thành viên đều có bổn phận góp phần xây dựng cuộc sống chung tốt đẹp. Có phước cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Người dám nhận lãnh trách nhiệm là người trưởng thành. Làm sai thì nhận lỗi sai. Công việc thành công hay thất bại là lẽ thường của đời sống. Khi chối tội, chạy tội, dấu tội hay đổ thừa lỗi lầm cho người khác là thiếu trách nhiệm. Sai thì sửa. Có lỗi thì xin lỗi. Làm tội thì chịu tội. Đối diện với sự xấu, sự dữ và sự thất bại, đôi khi chúng ta cảm thấy ngại ngùng, xấu hổ và chối từ, nhưng chỉ có sự thật sẽ giúp chúng ta tìm lại được sự bình an đích thực.
Chúng ta đang trên đường lữ thứ trần gian. Mỗi ngày chúng ta sống là một ngày hồng ân. Chúng ta không biết chắc chắn về tương lai. Mọi sự cố đều có thể xảy ra. Anh chị em đừng để mắc nợ nhau sự gì. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Rôma đã khuyên: Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai, ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật (Rm 13, 8). Sống giây phút hiện tại cho tròn đủ. Đức ái là yêu thương, tha thứ, nhường nhịn và quảng đại. Chúa Giêsu tóm kết các giới răn vào hai điều: Mến Chúa và yêu người. Yêu thương nhau là tôn trọng nhau. Yêu thì không gây sầu, oán giận, gây thiệt hại hay thù ghét làm khổ người khác. Yêu thương nhau là muốn điều tốt cho nhau và cùng nhau tiến bước trên con đường hoàn thiện: Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật (Rm 13, 10).
Nếu không có ơn Chúa phù trợ, chúng con không thể làm gì được. Cầu nguyện là hơi thở trong đời sống đạo. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện. Nhưng đẹp ý Chúa hơn, nếu nơi nào có hai ba người đồng lòng hợp ý cầu nguyện, thì ơn Chúa sẽ tuôn đổ dồi dào hơn: Thầy bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó (Mt 18, 19). Hai người cùng cầu nguyện nói lên sự hỗ tương, yêu thương, hòa thuận và chung lòng chung ý. Một hình ảnh rất thuyết phục, các dòng tu thường sai từng hai tu sĩ ra đi rao giảng và phục vụ, giống khi xưa, Chúa đã sai từng hai môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng.
Lạy Chúa, chúng con là những Kitô hữu, mang danh của Chúa Kitô, xin cho chúng con biết yêu thương nhau và giúp nhau thăng tiến trên con đường trọn lành.
12. Nghĩa vụ yêu thương
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Yêu thương không làm hại đồng loại” (Rm 13,10)
Yêu thương tha nhân nghĩa là gì? Thánh Phaolô cắt nghĩa: “Yêu thương là không làm hại đồng loại” và “Yêu thương là chu toàn lề luật”. Làm thế nào để cả 2 khía cạnh này tương tác với nhau, hình thành một phương cách thực hiện đức ái Kitô giáo cách cụ thể. Một bên xem ra có vẻ tiêu cực: không làm điều ác, và một bên lại rất tích cực: chu toàn lề luật. Khi nào và thế nào, chúng ta có thể nhận ra rằng chúng ta đang thực hiện những giáo huấn đó?
Không làm điều ác là một đòi hỏi xem ra có vẻ tiên quyết. Nó mời gọi chúng ta suy xét về thái độ sống của chúng ta mang âm hưởng đến cận nhận làm sao? Nó cũng tra vấn xem chúng ta đã hiện lộ lòng mến trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó như thế nào. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta thực hiện một trong những cách thái để diễn bày tình yêu đối với tha nhân là kêu mời họ quay trở về, khi họ lỗi phạm, hầu giúp họ thoát khỏi con đường tội lỗi. Có lẽ không có con đường nào gian nan cho bằng việc sửa lỗi cho cận nhân. Cận nhân đó có thể là một người bạn, một người thân trong gia đình. Cho dù chúng ta thực hiện việc này với lòng thương cảm đích thực, thì đó vẫn là hành vi thực hiện đức mến cao cả nhất.
Khi bạn bè hoặc gia đình báo cho ta biết có ai lỗi phạm điều gì đó, thường chúng ta tức giận ngay lập tức và chẳng quan tâm đến, ít nhất là lúc ban đầu, để lắng nghe xem họ phạm lỗi như thế nào. Nhưng Đức Giêsu khuyến mời chúng ta phải thực hành, bởi vì sửa lỗi cho nhau là hành vi thể hiện tình yêu thương. “ Nếu một người nào đó trong Hội Thánh phạm tội chống lại anh”, Ngài nói “ Anh hãy đi và chỉ cho người đó biết lầm lỗi của họ, khi chỉ có anh và người đó mà thôi”. Tuy nhiên Đức Giêsu cũng tiên liệu nguy cơ là người đó không chấp nhận. “Nếu người đó không nghe anh , hãy mời thêm một hoặc hai người khác cùng đi với anh để anh có thêm nhân chứng hỗ trợ”. Cách thái này cũng rất khó khăn vì nó sẽ chạm vào tự ái và khơi dậy nỗi đau do chính tội lỗi họ đã gây ra.
Phương cách này quả rất gian nan vì nhiều lý do khác nhau. Có khá nhiều trường hợp một người bị anh chị em của mình kết án chỉ dựa trên tiếng đồn hay dư luận, và điều này dễ làm gãy đổ mối tương liên, làm rạn nứt sự thông hiệp trong Giáo hội. Phần đa chúng ta không biết đầy đủ và chính xác về cuộc sống của người anh em chúng ta. Yêu thương tha nhân một cách trọn vẹn để có thể sửa chữa lỗi lầm cho nhau, đòi hỏi chúng ta phải sống với nhau thân tình một cách thật sự. Khởi đầu của lòng mến là không làm điều gì đó hại đến anh em mình. Vì thế, chính chúng ta phải tìm hiểu kỹ càng về tha nhân và phải dành nhiều thời gian để xây dựng mối tương giao huynh đệ cách sâu xa.
Chúng ta sẽ bắt đầu hiểu biết về người anh em khi chúng ta đối xử với họ trong mối tương giao thân hữu thực sự. Điều này đặt căn bản trên tình yêu, theo sự chỉ dạy qua giáo huấn của Hội Thánh và các giới răn. Thánh Phaolô nói rằng “Đây là điều chúng ta mắc nợ nhau”, mắc nợ lòng yêu thương. Quả thật, Thánh Phaolô đã xác quyết, ai yêu mến anh em mình người đó chu toàn lề luật. Ngài có ý nói rằng, tất cả lề luật “ chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian…” và những giới răn khác, được tóm kết trong một điều duy nhất “Hãy yêu thương cận nhân như chính mình”.
Nhưng ý niệm “tóm kết” ở đây được dịch bởi hạn từ “plêrioô” cũng có thể dịch là “chu toàn”. Theo Thánh Phaolô, chu toàn lề luật không có nghĩa là tổng tóm các lề luật lại. Ngài còn diễn tả sâu xa hơn, là tất cả những ai “chu toàn lề luật”, họ liên kết với Đức Kitô xuyên qua đời sống của họ, được biểu thị bằng đức tin, được diễn tả trong đức ái, và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Lề luật không phải được giản lược trong một phạm trù duy nhất, như từ ngữ “tóm gọn” diễn tả, nhưng việc chu toàn lề luật chính là biết dàn trải tình yêu đến mọi ngõ ngách của cuộc sống, để lòng mến đối với tha nhân điều hướng cuộc sống chúng ta, ngay cả tại những nơi mà lề luật không nói tới một cách cụ thể.
Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, điều mà Thánh Phaolô nói ở đây và cả trong thơ Gal 5,14, khi đề cập tới việc tóm gọn lề luật mà sách Lêvi 14,18 nói tới , chính là “hãy yêu đồng loại như chính mình”. Song Ngài cũng gợi nhắc đến câu nói của Chúa Giêsu ở một chỗ khác “với hạn từ Shenma”. Sách Đệ nhị luật 6,4-5 có viết: Đức Chúa, Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ hết sức anh em. “Shenma” nói lên niềm tin của người Do Thái, quy tập vào tình yêu của một đấng, là chính Thiên Chúa.
Tại sao? Thánh Phaolô đã trải nghiệm sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, nhưng Ngài còn có môt mục đích sâu xa hơn. Trong khi chúng ta dễ dàng nói “yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực ngươi” ( Đệ Nhị Luật 6,5), chúng ta rất dễ lẫn lộn và bối rối khi muốn thực hiện lòng mến đối với tha nhân cũng theo dạng thức này. Thánh Phaolô hiểu điều đó, nên Ngài đã xác quyết cách thế để chu toàn lề luật là đừng làm hại người khác. Đó cũng là phương cách để chúng ta diễn bày tình yêu cụ thể của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta có thể sờ chạm đến được.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam