Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1367609

SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN

Sức mạnh của đức tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận cuồng phong, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu.

Nói đến sức mạnh, chúng ta nghĩ đến những trận động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh đã giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.

Nhưng còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả mà lại luôn luôn ở trong tầm tay con người. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo.

Niềm tin tôn giáo không bao giờ bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào có thể xoá bỏ được niềm tin tôn giáo. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh xác tín đó.

1. Sức mạnh đức tin vượt thắng những thách đố.

Trong chuyến hành hương Rôma, tôi có dịp đi viếng những hang toại đạo. Đi trong hang như là tìm về cội nguồn đức tin. Nơi đây biểu lộ sức mạnh đức tin của bao thế hệ tiền nhân. Giáo hội giữ vững niềm tin trên nền tảng tử đạo của biết bao con người nằm dưới hang này trong 300 năm đầu bị bách hại. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang rất lạnh lẽo. Mùi tử khí vẫn còn thoang thoảng đâu đây. Đi trong hầm mộ lạnh lùng, hoang vắng, lối ngõ ngoằn ngoèo, tôi cảm nghiệm được ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Sự chết luôn luôn đe dọa rình rập cướp lấy mạng sống con người. Bước đi trong lòng tin và lòng cảm phục nên người hành hương lại cảm nhận sự ấm áp, thân tình gần gũi với các thế hệ tiền bối. Gia sản của Giáo Hội là đây.Tại nơi này, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong ba thế kỷ. Sức mạnh đức tin thật là kỳ diệu.

Suốt ba trăm năm bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn trăm ngàn Vị Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.

Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.

Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà cửa, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…Với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man. Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ. Trong 117 Thánh Tử Đạo được tuyên phong, có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

Người ta nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác để buộc các tín hữu chối bỏ đức tin.

- Thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích".

- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.

- Cha Điểm và Cha Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.

Dù chịu mọi cực hình tàn bạo, bị hành hạ tra tấn khủng bố, các ngài vẫn không chối bỏ đức tin. Vua chúa, quan quyền, binh lính phải sững sờ kinh ngạc và kính phục lòng tin sắt son của các ngài.

Thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm Trọng Khảm. Nhờ sức mạnh đức tin, các ngài chấp nhận mất chức quyền, mất danh vọng thế gian và sẵn sàng hiến dâng mạng sống.

Thánh Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhờ sức mạnh đức tin nên ngài đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.

Thánh Tôma Thiện, Phaolô Bột, đầu xanh tuổi trẻ, tương lai còn dài, nhiều hứa hẹn. Các ngài đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Chúa nhờ sức mạnh đức tin.

Các Thánh Tử Đạo vui lòng đón chịu mọi cực hình đau đớn, chấp nhận mọi thua thiệt, vui lòng mất hết địa vị bổng bộc và hiên ngang tiến ra pháp trường đón nhận cái chết như một mối phúc, minh chứng lòng trung thành của mình đối với Đức Kitô. Cái chết của các ngài làm sáng lên sức mạnh đức tin.

2. Những thách đố Đức Tin thời nay.

Làm sao chúng ta có thể sống đức tin mạnh mẽ như các Thánh Tử Đạo. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời xưa.

Nhưng ngày nay có rất nhiều thách đố đức tin với tín hữu Việt Nam.

- Vô thần duy vật

Thách đố trước hết đối với Đức Tin chính là môi trường mà chúng ta đang sống và “hít thở”, đó là một xã hội vô thần duy vật. Đây một xã hội tự bản chất chối bỏ Thiên Chúa, đề cao vật chất và quyền lực. Sự chối bỏ Thiên Chúa sẽ là nguyên nhân đưa tới sự sa đọa của con người và xã hội. Khi một xã hội vắng bóng Thiên Chúa, người ta sẽ tạo ra những “thiên chúa khác” nơi một con người hoặc nơi vật chất như người Do Thái trong Cựu Ước đã đúc ‘bò vàng” để thờ như thờ Thiên Chúa. Xã hội chạy theo sức hấp dẫn của đồng tiền. Của cải và quyền lực lên ngôi. Thang giá trị đạo đức bị đảo lộn. Người ta tìm mọi cách kiếm tiền để có quyền. Khi có chức quyền thì càng kiếm được nhiều tiền. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền. Để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ… Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội.

- Gian dối và lừa lọc lên ngôi

Thách đố thứ hai của Đức Tin, đó là xã hội Việt Nam đang báo động bởi đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn. Đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Mấy câu thơ sau đây có thể tóm tắt thực trạng xã hội:

“Nhân phẩm ngày nay giảm giá rồi,

Chỉ còn thực phẩm tăng giá thôi,

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực,

Chân lý chân giò một giá thôi.”

Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Có những người Công Giáo cũng hành xử như người không tin, cũng lừa lọc, gian lận đủ cách để làm sao mình có lợi.

- Sự đề cao hưởng thụ cá nhân

Chúng ta đang phải đối diện với một nền văn hóa bị thống trị bởi lối sống hưởng thụ ích kỷ. Trong đó, con người chạy theo lối sống hưởng thụ cá nhân, biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Tương quan yêu thương và nhân bản bị xếp sau tương quan trao đổi và lợi ích kinh tế. Xã hội này đã sinh ra những đứa con “quái thai” trong cách sống: bằng mọi cách để kiếm tiền và hì hục hưởng thụ! Khi sống theo lối sống này, con người trở nên ích kỷ, quy ngã, hời hợt, và ít quan tâm đến người khác, thiếu khả năng liên vị, không biết tôn trọng và yêu thương người khác. Quan sát cách hành xử của người Việt Nam ở nơi công cộng và nhất là khi tham gia giao thông, sẽ thấy người ta tranh giành nhau, chụp giật và manh mún theo kiểu mạnh ai người ấy thắng, cá lớn nuốt cá bé. Cách sống nói lên não trạng và tâm tính con người. Đó là một tình trạng đáng buồn cho xã hội Việt Nam hôm nay!

- Chủ trương duy tương đối

Còn có một thách đố lớn hơn đối với Đức Tin mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI luôn cảnh báo, đó là chủ trương duy tương đối. Chủ trương này khiến cho con người hôm nay không còn muốn chấp nhận các chân lý tuyệt đối nữa, không quy chiếu và sống theo một chuẩn mực luân lý hay giá trị đạo đức khách quan nào nữa. Tất cả là tương đối và mỗi người có thể thay đổi các chân lý và sống theo những chọn lựa và chuẩn mực cá nhân. Đây là sai lầm căn bản dẫn đến những sai lầm khác của con người hôm nay. (x. Những thách đố đối với Đức Tin trong xã hội hôm nay; lamhong.org).

Những lối sống và não trạng trên đã và đang len lỏi vào các ngõ xóm, các xứ đạo của chúng ta.

3. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô

Năm Đức Tin là thời gian và cơ hội quý báu giúp mọi Kitô hữu “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9).

Đức Giáo Hoàng Biển Đức dạy: “Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thuận tiện để tăng cường việc cử hành Đức Tin”. Cử hành đức tin là tuyên xưng, sống và làm chứng cho Đức Tin. Tuyên xưng Đức Tin như Kinh Tin Kính dạy và như Hội Thánh công bố. Tuyên xưng Đức Tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng. Cử hành Đức Tin bằng việc nhiệt thành dấn thân thực hiện công cuộc truyền giáo với cách thức mới mẻ và hiệu năng hơn. Cử hành Đức Tin bằng sự chuyên cần cử hành và lãnh nhận các bí tích. Cử hành các bí tích là cử hành mầu nhiệm các đức tin, nhất là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.

Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa chúng ta đi vào đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Hội Thánh của Người. Đức Tin là bảo chứng mang lại ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.

Đức Tin bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài. Chúng ta được tiếp thêm sức mạnh Đức Tin để sống đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. “Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7), chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh Đức Tin.

 

52.Tử đạo

Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ:

- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.

Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.

Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.

Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.

Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.

Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:

- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.

Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.

Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.

Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.

Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:

- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.

Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.

Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.

Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.

 

53.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)

Bạn thân mến!

Không biết các bạn có thấy ngộ ngộ bật cười không, mỗi khi mừng lễ các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam? Tại sao máu đổ mà lại cứ vui nhỉ? Nếu như thế, thì không biết có hợp thời và hợp lý không đấy, thưa các bạn?

Vâng, có lý do chính đáng và còn thật là phải đạo nữa đấy, các bạn ạ!

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cách riêng Giáo hội Việt Nam, chúng ta hân hoan vui sướng, có khi cả nhảy nhót nữa là khác, để reo mừng các bậc Cha Anh của chúng ta đã đoạt giải chiến thắng trong trận chiến oanh liệt giữ vững Đức Tin Kitô giáo. Chúng ta vui là phải thôi, vì chúng ta đang vui cái niềm vui của Thập giá Chúa Kitô, Ông tổ sáng lập đạo Công Giáo. Vì nhờ có thập giá Chúa Kitô, mà loài người chúng ta mới có niềm vui ơn cứu độ. Cũng thế, nhờ máu các Thánh Tử Đạo đổ ra mà mùa gặt truyền giáo của Giáo hội Việt Nam đã, đang, và sẽ tiếp tục còn nở rộ trong các thế hệ mai sau.

Vậy thì, mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải mừng thế nào cho đúng với ý của Giáo hội Mẹ?

Thưa, chúng ta cũng phải theo gương các Ngài để có cái nhìn tươi sáng trước mọi đau khổ thử thách trong ngoài hồn xác. Dù Tình yêu có đòi hỏi yêu sách chúng ta, chúng ta vẫn kiên trung theo Chúa đến cùng, và cho dẫu yêu sách có mang mặc nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ, nhiều khước từ trong cuộc sống, ta vẫn cứ can đảm tiến lên theo lời hiệu triệu của Đấng đã nói: Cứ tin tưởng, Ta đã thắng thế gian rồi! Vì mừng lễ đổ máu mà! Vì có đau khổ mới có vinh quang mà! Và vì không đổ máu không có ơn cứu chuộc cho mình và cho người khác.

Các Thánh Tử Đạo đã hiểu rất sâu điều đó và đã làm gương rất chói sáng cho chúng ta trong việc đặt Chúa trên hết và trước hết. Với ánh nhìn đầy đức tin, các ngài đã coi các khổ hình chịu vì Chúa là một niềm vui, niềm hạnh phúc, nên các ngài hiên ngang, hiên ngang đến khó hiểu, giữa những khổ hình đủ loại do lòng độc ác con người có thể nghĩ ra. Thật đúng các ngài đã nói với con cháu là chúng ta hôm nay lời Thánh Phaolô: Không ai, không gì, không hình khổ nào có thể tách các ngài ra khỏi Tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn đức tin đã khiến các ngài coi khổ hình như là ân huệ của niềm vui Chúa trao tặng cho mình mà trường hợp của Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành sau đây là một bằng chứng:

Trong 117 Thánh Tử Đạo, chỉ có một vị là Thánh Nữ, ngài là một người mẹ của sáu người con. Đó là Thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là Bà Đê.

Thánh Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 tại Bái Điển, tỉnh Thanh Hóa. Lên 17 tuổi, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Nhất, sinh hạ được sáu người con. Suốt đời bà âm thầm kiên nhẫn xây dựng tổ ấm yêu thương gia đình và biến gia đình thành nguồn suối tình thương. Bà sống đạo đức gương mẫu, hy sinh giúp chồng con, đặc biệt nuôi dạy con chu đáo theo tình thần giáo dục công giáo. Dù khi con cái đã lớn khôn lập gia đình, bà vẫn luôn theo dõi lòng đạo của các con, thúc giục con cái năng tham dự Thánh Lễ và nhận lãnh các bí tích. Bản thân bà rất siêng năng xưng tội rước lễ.

Ông bà Đê có lòng bác ái hay thương giúp đỡ người khác, nhất là trọng kính và giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục đến trú ẩn. Chính đức bác ái cùng lòng kính yêu các linh mục và tha thiết với việc truyền giáo ấy, đã đưa bà Thánh Đê đến phúc tử vì đạo.

Số là khi quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh kéo lính đến vây làng Phúc Nhạc vào sáng lễ Phục Sinh 14.4.1841, bà Đê cùng với ông trùm Cơ vội vàng đưa linh mục Lý trốn dưới một cái rãnh sau vườn nhà bà. Nhưng sau một hồi lục soát gắt gao từ trong nhà ra tới ngoài vườn, quân của Trịnh Quang Khanh bắt được Cha Lý. Bà Thành và ông trùm Cơ cũng bị bắt làm một với Cha.

Trong lao tù, Anê Lê Thị Thành bi đánh đập, tra khảo nhiều lần. Lần kia quan quyền đánh bà bằng roi, nhưng thấy bà vẫn gan dạ chịu đựng một cách vui vẻ, nên lại cho dùng thanh củi lớn mà quất vào chân bà, bà vẫn không thối chí. Khi chồng vào thăm trong tù, bà nói với chồng lời đầy đức tin như sau: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông chưa chắc chịu nổi, nhưng tôi được ơn Đức Mẹ giúp sức, nên không cảm thấy đau đớn gì” Lần khác nữa, quan dùng trò dã man hơn, buộc hai ống quần của bà lại, rồi bỏ rắn độc vào bên trong. Bà hoảng sợ, nhưng bà cầu nguyện tha thiết khiến Chúa nhận lời ban cho bà sức mạnh phi thường để chịu đựng những thử thách vượt quá sức người của bà. Thế là bà vẫn giữ được bình tĩnh một cách lạ lùng. Bà đứng yên không nhúc nhích. Rắn không cắn bà và tìm cách chui ra ngoài. Quan thấy thế, điên tiết lên, càng ra lệnh đánh bà dữ dằn hơn trước.

Một nhân chứng tên là Đang về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân hình bà đầy máu mủ. Vậy mà bà vẫn vui vẻ và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Con cái đến thăm bà, thấy mẹ thương tích vì đòn vọt, khóc lóc thương mẹ, bà âu yếm vỗ về các con, khuyên chúng về kiên tâm cầu nguyện cho mẹ. Chẳng hạn cô Lucia Nụ, con gái út của bà đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần mẹ loang lổ máu, đã òa lên khóc nức nở. Bà an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy con ạ! Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc”. Bà còn nhắn nhủ cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa Giêsu cho đến cùng. Rồi chẳng bao lâu nữa, mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”. Chồng bà cũng đến khuyên giục bà nên nghĩ đến con cháu mà về với chúng. Bà trả lời: “Anh hãy về lo cho con, hãy trông cậy Chúa phù hộ cho anh đủ sức nuôi dưỡng chúng, còn phần tôi, tôi sẽ phó thác và theo Chúa đến cùng…”

Vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy máu mủ, lại do điều kiện vệ sinh trong tù quá tồi tệ và không đủ thuốc thang, bà Anê Đê Lê Thị Thành kiệt sức vì đòn vọt và bị bệnh kiết lỵ, nên đã chết trong tù ngày 12.7.1841 tại Nam Định, thọ 60 tuổi, sau khi dâng lời kinh cuối cùng: “Giêsu, Maria, Giuse, con xin phó thác linh hồn và xác con trong tay Chúa”.

Đức Piô X phong chân phước cho Bà ngày 2.5.1909. Và Đức Gioan Phaolô II suy tôn Bà lên bậc Hiển Thánh ngày 19.6.1988,cùng với 116 vị Thánh khác.

Các bạn ơi, các Thánh tử đạo là thế đó đấy, các bạn ạ. Các Ngài chấp nhận mọi hình khổ khác nhau, nhưng các Ngài cùng sống chết chung cho cùng một Niềm Tin, một Lý Tưởng Giêsu, với sự vui tươi hớn hở hiên ngang hãnh diện, khiến chúng ta vô cùng cảm phục và cả đến thèm khát số phận may mắn của các Ngài nữa.

Thật ra, nếu bạn và tôi để ý một chút thì sẽ nhận ra rằng: hoàn cảnh của tôi cũng như của bạn, Chúa vẫn đang cho có rất nhiều cơ hội để chúng ta thể hiện việc sống chết cho niềm tin vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh, có khi cũng chẳng kém anh hùng và hiển hách so với các bậc Cha Anh chúng ta xưa đâu, các bạn!

Xin phép đan cử một vài trong muôn ngàn, bạn nhé:

* Khi các bạn đi đường mà gặp một người hành khất đáng thương lắm, dù đang vội, các bạn cũng cố gắng dừng lại để chia sẻ một chút gọi là tấm lòng với người anh chị em con cùng Cha trên trời đó, nhưng lại rơi hoàn cảnh khó khăn, để ta có dịp thể hiện lòng bác ái, để từ trời Thiên Chúa nhìn xuống thấy: anh chị em chúng nó biết thương yêu, nâng đỡ, đùm bọc lấy nhau trong cuộc sống… Phải chăng đó cũng là một cuộc tử đạo nho nhỏ đấy, bạn nhỉ?

* Khi các bạn gặp một người mà bạn chẳng ưa, chẳng thích chút nào, nhất là họ mới xúc phạm đến mình, làm cho mình đau khổ nữa, tính tự nhiên bạn chỉ muốn quay mặt đi không nhìn, không tiếp, nhưng nghĩ tới họ cũng là anh chị em con cùng Cha Mẹ trên trời với mình, và bạn đã vì Chúa để làm ngược với tính tự nhiên đó, để sau bao nhiêu cám dỗ, giằng co, cuối cùng bạn đã chiến thắng được chính mình, để trao cho họ một nụ cười thân ái, cảm thông, tha thứ…, thì quả là bạn vừa mới thực trải qua một cuộc tử vì đạo không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng dẹp bỏ tự ái, ý riêng để làm theo điều răn mới Chúa truyền dạy trước khi Ngài chịu chết.

* Khi đang mạnh khỏe, bỗng nhiên một cơn bệnh hiểm nghèo ập tới, và bạn đã hết sức tìm thầy chạy thuốc nhưng chẳng thuyên giảm; trái lại, bệnh càng nặng thêm. Lúc đó, nếu bạn cố gắng để dần dần vui vẻ vâng theo Thánh ý Chúa định hoàn toàn, thì bạn ơi, bạn đang là vị anh hùng tử đạo rồi đấy!

* Mỗi khi bạn cảm thấy chán ngại đi tham dự Thánh lễ Chủ nhật, rồi sau đó vì lòng mến Chúa, bạn lại tiếp tục đi; mỗi khi bạn cảm thấy khó chịu không muốn làm điều tốt lành cha mẹ dạy bảo mà mình không thích, sau đó vì lòng kính mến Chúa, vì đức Hiếu thảo, bạn lại ép mình để vâng lời; mỗi khi ai đó làm bạn khó chịu, tính tự nhiên chỉ muốn giận, muốn sùng lên la cho bõ ghét, nhưng nghĩ tới Chúa luôn xử nhân từ với mình là kẻ có tội, bạn dịu xuống và nhẹ nhàng bỏ qua; mỗi khi ai đó nói xấu vu khống cho bạn điều bạn chẳng có, lúc đấy chỉ muốn chơi lại cho họ bẽ mặt để trả thù, nhưng vì nghĩ tới thân phận con người, cả mình nữa, ai chả yếu đuối, nên vì mến Chúa yêu người như Chúa truyền dạy, bạn sẵn lòng tha thứ cho qua phà, thì phải nói thật với bạn là bạn đang tiến vào Thiên Đàng như các Thánh tử đạo Cha Ông chúng ta đấy! *Và nếu bạn được bác sĩ cho biết là bệnh của bạn các bác sĩ bó tay, bạn chỉ còn sống tối đa có sáu tháng nữa thôi. Lúc đầu thật buồn, nhưng sau bạn lấy lại bình tĩnh chấp nhận Thánh Ý Chúa để sẵn sàng vui vẻ ra đi, ai đến thăm bạn cũng thấy bạn tươi cười, thì bạn đang là vị thánh tử đạo vì Thánh ý Chúa rồi đấy!

Mừng các Thánh Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam trong khuôn khổ Năm Đức Tin của Giáo Hội hôm nay, Mẹ Giáo hội cũng đang thiết tha mời gọi mỗi người hãy là những chứng nhân sống động của Đức Tin trong đời sống hằng ngày hơn, bằng việc luôn sống và làm việc dưới ánh nhìn yêu thương Hiền Phụ của Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình; đồng thời, can đảm mạnh bạo dấn thân hy sinh làm theo lời Chúa truyền dậy qua Giáo hội, qua các Bề trên, qua các biến cố to nhỏ trong ngoài hồn xác… Có như vậy, mới thật đúng là chúng ta đang bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa; có như vậy, chúng ta mới đang là những môn đệ đích danh của Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

 

54.Các chứng nhân Kitô giáo

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Hằng năm cứ vào dịp đại lễ kính nhớ Tổ tiên ông bà Tử Đạo Việt Nam, đoàn tín hữu, con dân đất Việt lại thêm một lần được củng cố niềm tin. Ít ra, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Để sống xứng danh là cháu con các anh hùng tử đạo, Kitô hữu Việt Nam cần hiên ngang, anh dũng một cách nào đó trong niềm tin, trong cách sống đạo của mình. Trong tâm tình ấy, xin phác họa đôi nét về chân dung các Thánh Tử đạo Việt Nam như là những chứng nhân Kitô giáo.

1. Chứng từ khả tín của các chứng nhân: Xin được gọi các Ngài bằng nghĩa gốc của từ “tử đạo” là “chứng nhân” (martyr).

Thiết tưởng cần trở về với nghĩa gốc là chứng nhân hơn là tử đạo, cho dù hai từ tử đạo đã quá phổ biến trong cách dùng. Bởi vì hai từ tử đạo có vẻ như đang bị méo mó ý nghĩa một cách nào đó khi mà vô tuyến truyền hình tường thuật những người ôm bom tự sát để giết hại nhiều người, trong đó có cả thường dân vô tội, và họ cũng tự cho là tử vì đạo. Hơn nữa một thánh tử đạo trong tôn giáo này chưa chắc được kính trọng bởi người của tôn giáo khác cho bằng các thánh hiển tu hay các thánh xả thân vì tình yêu đồng loại.

Nói đến chứng nhân là nói đến những người dùng chính cuộc sống của mình, dùng cả sự sống và sự chết của mình để làm chứng cho một lý tưởng cao đẹp như nền hòa bình của nhân loại hay sự độc lập tự do của dân tộc… hoặc cho một niềm tin tôn giáo. Khi có ai, có một tập thể nào hiến dâng cả cuộc sống, hiến dâng cả mạng sống để làm chứng về một chân lý nào đó thì chứng từ ấy có tính khả tín nghĩa là chân lý có tính thuyết phục và đáng tin theo. Tuy nhiên mức độ khả tín của các chứng từ còn tùy thuộc vào cách thế làm chứng của các chứng nhân.

Qua cuộc sống, nhất là sự hiến dâng mạng sống của các chứng nhân Kitô giáo, của cha ông anh hùng hy sinh vì đức tin, chúng ta nhận ra mức độ trỗi vượt của tính thuyết phục nơi cách làm chứng của các Ngài. Nếu xét về hình thức chịu cực hình cho đến chết như bị “rũ tù” (bị tra tấn và giam tù cho đến chết), “xữ giảo” (bị thắt cổ cho chết),”xữ trảm” (bị chém đầu), “lăng trì” (bị ném cho voi chà đạp, xé xác), hay “bá đao” (bị róc từng mãnh thịt cho đến chết), thì các bậc cha ông chúng ta tuy có bị khổ hình ghê rợn, thế nhưng các anh hùng dân tộc nhiều khi cũng đã can đảm đón nhận các cực hình tương tự không kém.

Nét trổi vượt và cũng là nét khác biệt nơi chứng từ của cha ông chúng ta đó là cách thế đón nhận khổ hình. Không một ai tự mình quyên sinh và nhất là khi bị khổ hình, không một ai căm phẩn, hận thù hay hô đả đảo những người bắt bớ, giết hại mình. Các Ngài khoan thai, an bình, có khi tỏ vẻ hân hoan và cầu nguyện cho cả người giết hại mình đến độ nhiều “đao phủ” đã phải thành khẩn xin tha thứ trước khi hành hình các Ngài. Một thái độ làm chứng nhân khó thấy, hiếm thấy và có thể nói là không thấy có nơi các anh hùng dân tộc khi chịu cực hình, chịu chết vì lý tưởng. Và đây chính là nét khả tín tuyệt vời của nhứng chứng nhân bỏ mình vì “danh Đức Kitô”.

2. Nội hàm chứng từ của các chứng nhân Kitô giáo: Nghĩa là các chứng nhân Kitô giáo, cách riêng tổ tiên anh hùng Việt Nam chúng ta đã hiến dâng cả cuộc sống, cả mạng sống để làm chứng về những điều gì? Xin thưa đó là về “chân lý đức tin” và “Tin Mừng cứu độ”.

Chân lý đức tin: Chân lý đức tin Kitô giáo thì nhiều, nhưng có thể nói một chân lý nền tảng mà tổ tiên ta đã anh dũng làm chứng đó là: Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, ta phải tôn thờ và yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ta, vì ngoài Người ra thì không có đấng nào khác (x.Dnl 6,4-7; Mc 12,28-34).

Tôn thờ một ai đó, một Đấng nào đó là nói lên sự thần phục, sự lệ thuộc của mình với Đấng ấy, với người ấy. Môt trong những hình thức biểu lộ sự thần phục hay thờ phượng đó là sự phủ phục. Ta phủ phục trước một Đấng nào đó là ta nhìn nhận những gì ta đang là, ta đang có đều do Đấng ấy ban tặng. Kitô hữu chỉ dâng tâm tình thần phục, phượng thờ này lên một mình Thiên Chúa mà thôi. Và dĩ nhiên tâm tình, thái độ ấy kéo theo hệ quả tất yếu là xem các loài khác như mặt trời, mặt trăng, sông núi…chỉ là loài thọ tạo do Chúa dựng nên. Ngay cả loài thọ tạo cao trọng nhất trong các loài hữu hình là loài người thì dù là kẻ quyền thế, nhiều tiền, cao đức, trọng vị…cũng chỉ là loài phàm hèn không hơn không kém. Có thể có người, có vị đáng trọng, đáng kính vì tài đức cao dầy, nhưng không phải là người để ta phải lệ thuộc hay thần phục, nghĩa là bày tỏ sự tôn thờ.

Sự thường một ai đó, khi đã ở ngôi cao, khi đã nắm trong tay quyền lớn thì rất dễ bị cám dỗ muốn tuyệt đối hóa uy quyền của mình. Và một trong những cách thế để tuyệt đối hóa quyền lực và danh phận của mình thì phải tự phong thần, phong thánh cho mình bằng cách này cách khác. Các vua chúa ngày xưa đã từng tự xưng là thiên tử (con trời) và thế là bắt mọi người thần phục mình cách tuyệt đối. Nếu sống và hành xử như “con của trời” thì vẫn tốt, đằng này họ lại hành xử như là những“ông trời con”. Xưa vua Nabunôcônôdo của đế quốc Ba Tư ngày xưa đã cho tạc tượng mình để bắt thần dân thờ lạy. Và nay vẫn có người, có tập thể muốn kẻ khác lệ thuộc mình bằng việc “thần thánh” hóa bản thân hay luật pháp hóa cái thể chế, cái tổ chức, cơ cấu của mình.

Ngày nay người ta khi đã có quyền, có thế cũng có thể bắt kẻ khác suy tôn mình, suy tôn tập thể của mình…là muôn năm, là bất diệt… Và thế là hễ có ai không chịu thần phục, không chịu lệ thuộc thì tức khắc sẽ bị bắt bớ, đàn áp, thậm chí là loại trừ. Vác thập giá là thân phận của Kitô hữu mọi thời, mọi nơi. Tuy nhiên đó là niềm vinh dự cho đoàn con cái Chúa, vì là cách thế tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất hùng hồn và rõ nét.

- Tin Mừng cứu độ: Đây cũng là một điều chính yếu nữa mà các anh hùng “tử đạo” đã làm chứng bằng giá máu của mình. Tin mừng cứu độ là tình yêu của Thiên Chúa đuợc thể hiện cách hoàn hảo, trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô chính là Tin Vui, Tin bình an cho nhân loại và cho mọi loại. Cuộc đời, các hoạt động và lời giảng dạy của Đức Kitô là Tin vui, tin an bình cho con người. “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

Không phải chỉ yêu thương những người dễ yêu, yêu những người thân cận, người làm ơn làm phúc cho mình…mà còn yêu cả những người bé mọn, cô thế, cô thân, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ hay chính kiến và yêu cả những người thù ghét mình, làm hại mình (x.Lc 6,27-35).

Tổ tiên ông bà “tử đạo” chúng ta đã mình chứng cho Tin vui cứu độ ấy bằng cuộc sống của mình cho dù phải bị hiểu lầm là bỏ ông, bỏ bà, bỏ tổ tiên, cho dù phải bị gán ghép là phản quốc, bán dân hại nước. Quả thật với một tình yêu không biên giới ấy, xưa kia Đức Giêsu đã từng bị nhiều người đồng hương Nagiarét căm phẩn tìm cách xô xuống vực thẳm (x.Lc 4,28-29). Người cũng đã từng bị nhiều người tự cho mình là công chính tố cáo là hay lui tới và cùng ăn uống với “quân thu thuế và phường tội lỗi” (x.Lc 15,1-2).

Trò không thể hơn thầy. Nếu người ta đã đối xử với Thầy Giêsu ra sao thì các môn đệ cũng sẽ chung số phận ấy nếu họ sống chứng nhân cho Chân lý đức tin và cho Tin Mừng tình thương (x.Ga 15,18-27). Chân dung các chứng nhân đã được một tác giả vô danh khoảng đầu thế kỷ thứ II mô tả cách sống động như sau:“ Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian, nhưng là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt lên trên những đòi hỏi của luật pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, nhưng lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi sự, nhưng lạ dư dật mọi sự. Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục họ lại được vinh quang. Danh thơm của họ bị chà đạp nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng. Khi làm điều thiên, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Khi bị trừng phạt, họ làm như được sống. Người Do Thái giao chiến với họ như những kẻ ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, còn những kẻ ghét họ thì không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ” (Trích thư gửi ông Điônhêtô – Bài đọc 2 – Kinh Sách Mùa Phục Sinh – Thứ Tư – Tuần V).

 

55.Các tôi trung kiên cường

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Từ ngữ "tử đạo" vốn dễ được mến mộ theo nguyên nghĩa của từ gốc. Tử đạo là làm chứng. Các Thánh Tử đạo là những vị đáng tôn kính cách đặc biệt. Trong Kitô giáo, các Ngài được xếp sau hàng các Thánh Tông đồ và một vài Đấng đặc biệt như Mẹ Maria, Thánh cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả. Thế nhưng, chúng ta cần chân nhận một thực tế đó là hàng Thánh Tử đạo thường mang tính cục bộ của từng tôn giáo. Một vị tử đạo trong tôn giáo này chưa hẳn được trân trọng bởi người tôn giáo khác so với các bậc Thánh hiển tu, nhất là những vi Thánh có đời sống nổi bật về đức ái. Hơn nữa hai từ tử đạo ngày nay xem ra đang bị lợi dụng và cả lạm dụng khiến người ta dễ nghi ngờ, khi mà đang có đó những người ôm bom tự sát làm thiệt hại mạng sống của nhiều người vô tội.

Nói rằng các Thánh Tử đạo là những người chịu chết vì đạo thật không sai. Tuy nhiên cái nhìn này còn hạn chế và mang dáng vẻ tiêu cực. Xin mạo muội gọi các Ngài là những vị "Thánh sống đạo bằng cả giá máu". Các Ngài sống đạo kính mến Chúa và yêu thương tha nhân bằng cả mạng sống mình.

"Chúa Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 23-24). Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu ngõ những lời ấy với tất cả mọi người. Chính vì thế, đã là Kitô hữu thì chúng ta phải là những người sống đạo bằng cả giá máu. Dĩ nhiên là có người đổ máu ra cách hữu hình và có người đổ máu ra cách vô hình. Theo nội dung của bài Tin Mừng trong Thánh Lễ này, xin được gợi ý về một trong những cách thế sống đạo đến hy sinh bằng cả giá máu, đó là trung thành một cách hiên ngang với Chúa Kitô và Lời của Người. "Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy..." (Lc 9 26).

Trung thành một cách hiên ngang với Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế: Theo Chúa Giêsu là phải trung thành với công cuộc cứu thế, độ nhân, phải thực thi đức bác ái với hết mọi người, bất phân chủng tộc, màu da hay chính kiến, phải sống yêu thương trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp nghịch cảnh. Quả thật cái tâm lý tìm kiếm hiệu năng trước mắt, đã khiến chúng ta tính toán quá nhiều theo cách nghĩ suy nhân loại. Một đôi khi ta cần biết khôn ngoan "đừng quẳng ngọc trai trước mặt heo". Nhưng cũng đừng quên Thiên Chúa không ngần ngại gieo hạt giống trên các thửa đất, có khi rơi vãi trên cả vệ đường. Chỉ cần có hạt rơi vào đất tốt thì kết quả thu được sẽ lợi hơn nhiều so với phần xem như hoang phí. Hơn nữa, với ơn Chúa và sự cộng tác của con người thì dù là vệ đường, là đất cằn khô, đất gai góc đều có thể trở nên đất tốt. Khi trong tay đã đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần, khi điều kiện ngoại cảnh đang thuận lợi thì sẽ có đó nhiều người tuy khác niềm tin vẫn có thể thi hành việc độ thế cứu nhân. Khi điều kiện còn thiếu, hoàn cảnh còn khó khăn mà ta vẫn kiên trì trong đức ái thì đức ái của ta mới nên giống tình Chúa đã yêu thương ta. Vì khi ấy tình yêu ta dành cho tha nhân mới đậm nét vị tha.

Trung thành và hiên ngang với Lời cứu độ: Một trong những cơn cám dỗ tinh tế ma quỷ gieo vào lòng chúng ta đó là cải biến nội dung lời mạc khải cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài. Dù rằng Hội Thánh dạy ta cần học hỏi, nghiên cứu để phân biệt đâu là ý tác giả Thánh Kinh muốn trình bày theo hình thức văn chương, theo nền văn hóa của từng thời kỳ và đâu là Thánh ý Chúa muốn dạy. Có thể có sự không trùng khớp giữa những gì các tác giả nhân loại trình bày với Ý Chúa muốn dạy. Điều này ta dễ nhận ra trong Cựu Ước và cả trong Tân Ước. Tuy nhiên luôn có đó những lời mà các nhà nghiên cứu đã đồng thuận đúng là những lời đích thị từ miệng Đấng Cứu Thế (ipsisima verba). Lời Chúa, cách riêng lời của của Giêsu như lưỡi gươm sắc bén, phân rẽ tâm hồn. Chính vì thế tính thách đố luôn có trong Lời Chúa. Chúng ta nhận ra điều này nơi miệng các sứ ngôn thời Cựu Ước và cách rõ nét nơi Lời của Đấng Cứu độ. Tin Mừng tường thuật rằng khi nghe những lời của Chúa Giêsu, nhiều Biệt Phái và luật sĩ đã phải tím bầm ruột gan.

Không một ai được phép tự tiện uốn nắn nội dung Lời Chúa vì bất cứ lý do gì. Hãy để cho Lời Chúa trực diện với lòng ta, với tha nhân, với môi trường xã hội, với mọi thể chế, luật lệ của con người. Xin đừng nhân danh hiệu năng mà cắt xén hay cải biên lời Chúa. Xin chớ nhân danh đức ái mà uốn ép lời Chúa cho "mềm mại" và "dễ nghe". Những điều "dễ nghe" và "mềm mại" thường là thiếu sự thật, ít trung thực và nếu có thì chỉ là phiếm diện. Ánh sáng thì chói chang. Sự thật thì mất lòng. Khi ta trung thành cách hiên với lời cứu độ thì thập giá luôn có đó.

Các tiên tổ anh hùng Tử đạo của chúng ta quả thực là những vị đã sống đạo yêu thương cho đến cùng. Martinô Thọ, Phanxicô Trung, Micae Hy, Emmanuel Triệu...không chỉ yêu thương vợ con, cha mẹ nhiệt tâm, nhiệt tình mà còn yêu thương bà con lối xóm, những người khốn khổ bất hạnh, yêu thương quê hương dân tộc, yêu cả vua quan, những người đang hành hạ mình. Và trên hết các Ngài yêu mến Đấng các Ngài tôn thờ, Thiên Chúa toàn năng, chí tôn, chí thiện. Các Ngài đã trung thành với Thầy Chí Thánh và lời của Người một cách dũng cảm, hiên ngang. "Tâu bệ hạ, đánh Tây thì hạ thần đánh hết mình, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ" (Thánh Phanxicô Trung) " Chúng tôi không phạm tội ác, không chống lệnh vua, không lỗi luật nước, chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu" (thánh Phaolô Khoan). Dòng máu đào đổ ra chỉ là điểm đến của một cuộc đời sống đạo đến cùng mà thôi. Quả thật nếu như máu có đổ đến giọt cuối cùng mà không sống đạo yêu thương thì chỉ là tử nạn chứ không có tử đạo.

 

home Mục lục Lưu trữ