Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1364516

SUY NIỆM CỦA GIÁO PHẬN VĨNH LONG

SUY NIỆM CỦA GIÁO PHẬN VĨNH LONG

Anh chị em thân mến.

Người Việt Nam thường nêu lên câu: "ách giữa đàng mang vào cổ" để tránh né những việc mà họ cho là không mang lại ích lợi gì cho mình mà nhiều khi con mang đến những phiền phức không đâu.

Vừa qua trên một trang báo, tôi đọc thấy một câu chuyện thương tâm: một cô gái trẻ bị bảy chàng thanh niên hãm hiếp. Vì quá khiếp đảm, thần kinh bị suy sụp nặng. Tôi tự hỏi vì sao có tình trạng như thế. Cô ta đi lạc đường, tìm cách hỏi thăm đường về nhà, nhưng mọi người tưởng cô là người không tốt nên tìm cách xa lánh, không dám tiếp xúc. Trời tối dần, việc gì đến rồi cũng phải đến. Nếu những người khách qua đường quan tâm hơn một chút thì không việc gì xảy đến. Nếu họ dám để ra một chút ít thời giờ để lắng nghe, nếu họ chịu để cho con tim của mình biết rung động một chút, để đáp ứng nhu cầu của người khác. Nếu họ biết quên mình một chút mà hướng đến người khác, thì mọi sự sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều.

Trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho người thông luật một thí dụ điển hình để thực hành luật yêu thương. Ông ta thuộc lòng hơn 600 điều luật trong sách, ông ta tuân giữ thật chu đáo. Nhưng chỉ giữ trong lý thuyết, còn thực hành cụ thể thì: "ai là người thân cận của tôi". Ngài cho một câu chuyện và bảo: "ngươi hãy đi và làm như thế". Người thân cận để thực hành yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai, khi những người đó có nhu cầu cần thiết đến sự giúp đỡ, lòng thương xót, sự tha thứ. Yêu thương thì không còn chọn lựa, không còn phân biệt đẳng cấp sang hèn. Đó mới là điều mà Chúa Giêsu bảo: "Ngươi hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta, thuộc kinh thánh rất nhiều, thuộc giáo lý cũng rất nhiều, còn kinh đọc thì không biết bao nhiêu mà kể cho cùng. Nhưng để thực hành những gì mình biết, những gì mình gọi là đã giữ từ nhỏ thì thật là rắc rối. Chúng ta cũng không biết ai là người thân cận để thi hành lề luật. Chúng ta thuộc lòng mười điều răn, rồi còn tóm lại hai điều: kính mến Chúa và thương yêu người.

Nhưng thương yêu ai và bằng cách nào thì không bao giờ dám nghĩ đến. Vì chúng ta giữ đạo làm sao không thiệt hại bản thân, không mất mát những gì mình có, không đụng đến quyền lợi cá nhân, chúng ta cũng sợ ách giữa đàng mang vào cổ, nên không thể nào nhìn thấy được nhu cầu của người thân cận để thi hành luật yêu thương được. Nhiều lần chúng ta cũng hỏi như người thông luật trong bài phúc âm: "ai là người thân cận của tôi"? Chúa Giêsu không chỉ cho chúng một câu chuyện, nhưng rất nhiều và rất nhiều, Ngài cũng bảo chúng ta nhiều lần: "hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta để ra một phút suy tư, nhìn lại những gì mình đã làm gọi là giữ đạo, để xem mình đã sống đạo như thế nào?

Biết bao lần, chúng ta từ chối những lời van xin thống thiết của người khác khi họ cần đến chúng ta. Rất nhiều lần chúng ta né tránh những việc mà đáng lẽ ra mình phải làm để cho người khác vơi đi phần nào khó khăn. Cũng rất nhiều lần chúng ta từ chối vì nhiều lý do: không phải việc của tôi, hay tôi không có thời gian, không có khả năng. Hay một câu nói hết sức không chút tình người "đừng dại mà vướng vào". Có phải đó là những lúc mà chúng ta sống đạo đó sao? Vậy thì lời Chúa Giêsu bảo chúng ta "hãy đi và làm như thế", chúng ta thực hành như thế nào? Không lẽ lời đó chỉ có giá trị cách đây 2000 còn bây giờ thì không giá trị gì cho chúng ta sao? Như vậy thì vô ích quá.

Nếu chúng ta biết nói một lời dịu dàng khi cần thiết, biết nở một nụ cười an ủi, biết mở rộng vòng tay để đón nhận ai cần đến, biết để cho con tim rung động trước những cảnh thương tâm và sẵn sàng hành động, thì lúc đó, Lời của Chúa Giêsu "hãy đi và làm như thế", đã thực sự được thể hiện cách chu đáo nơi bản thân của chúng ta rồi đó.

Xin Chúa cho mọi người biết thực hành yêu thương cách sống động trong cuộc sống đời thường.

 

70.Suy niệm 2 của Gp Vĩnh Long

BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG

1. “Thương người như thể thương thân”, hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”: những câu ca dao tục ngữ như thế nói lên sự thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống cho dù có thể có những khác biệt. Thế nhưng trong cuộc sống không thiếu những người chỉ biết quan tâm đến mình mà chẳng hề biết giúp đỡ người khác, dù trong lúc đó họ rất cần đến sự giúp đỡ của ta. Đó cũng là thái độ vô tâm của thầy tư tế và thầy trợ tế (Lêvi) đối với người bị nạn như trong dụ ngôn mà Chúa dùng để nói với người thông luật, thái độ này đối nghịch với thái độ đầy nhân ái của người bị xem là ngoại đạo Samaria.

2. Thầy tư tế và trợ tế trên lộ trình của mình đã thấy một nạn nhân bị kẻ cướp đánh nhừ tử, nhưng cả hai đều bỏ qua, như thể không hay biết gì! Các ông tránh qua một bên vì sợ những phiền luỵ có thể đến với mình, khi dừng chân lại giúp người bị nạn. Bởi biết đâu kẻ cướp còn đang rình rập gần xa đâu đó? Biết đâu nạn nhân nầy không có một xu dính túi, nếu dừng lại giúp đỡ vừa mất thời giờ, công sức và tiền bạc? Biết đâu khi giúp nạn nhân nầy sau đó còn phải mất giờ làm chứng khi nhà chức trách đến làm việc? Còn nếu nạn nhân nầy đã chết rồi, mà đụng chạm như thế thì bị mắc uế…! Có nhiều lý do, nhưng tự trung lại những bậc thầy nầy chỉ biết luật mến Chúa yêu người trên lý thuyết. Còn trong thực tế, các thầy chẳng quan tâm gì đến nỗi khốn khổ của người khác!

3. Ngược lại người Samaria, bị xem là kẻ ngoại lai, vô đạo lại cư xử rất nhân đạo “thương người như thể thương thân”. Đang trên lộ trình, có thể anh rất bận rộn, nhưng khi thấy người bị nạn giờ đây việc hàng đầu của anh là cứu người. Bất chấp người đó có đồng chủng, đồng đạo với mình hay không, điều này không cần thiết! Tin Mừng cho thấy anh tự tay chăm sóc nạn nhân, anh cũng không sợ hao tốn sức lực, tiền bạc, ô uế…gì cả. Anh hiểu rằng tình người và mạng người là trên hết. Không biết anh biết luật bác ái đến mức độ nào? Nhưng anh đã thực thi bác ái. Anh đã bén nhạy cảm thông trước nỗi đau của đồng loại. Anh đã giữ luật nội tâm.

Thầy tư tế và trợ tế xem ra không phạm một tội gì, nhưng lại bỏ qua việc phải làm, đó là giúp đỡ người bị nạn. Còn người Samaria thật đáng khen đã làm một điều khi nhận ra điều mình phải làm.

4. Chúa bảo người thông luật đang đối thoại với Chúa, cũng là bảo mọi người chúng ta cứ “làm như vậy” là sẽ được sống. Chúng ta lưu ý cụm từ “làm như vậy” được lập đi lập lại (x. Lc 10,28; 37), tức là muốn có được sự sống đời đời hãy thực thi, hãy làm việc bác ái đối với người khác chứ không chỉ nói suông. Trong Tin Mừng Matthêu chương 25 nói về việc phán xét chung, tiêu chuẩn hàng đầu được Chúa đưa ra đó là chúng ta có thực thi bác ái đối với tha nhân, hiện thân của Thiên Chúa, nhất là những người đau khổ, thiếu thốn đang cần sự giúp đỡ của ta hay không? Có thể nói, những việc bác ái như là tấm vé thông hành để ta vào NướcTrời. Hãy biến lòng yêu thương thành những hành động cụ thể, bởi nếu chỉ nói suông hay chỉ có lòng yêu thương mà không thể hiện bằng việc làm thì đâu có lợi ích gì cho người mình yêu thương! Ta vẫn thường nghe nói:“Từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài”. Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào 2 bàn tay: hôm nay tôi đã làm gì cho Đức Giêsu và với Đức Giêsu?

5. Ngay cả về phương diện tự nhiên, sống trên đời này không ai mà không cần đến sự giúp đỡ người khác, không ai là một hòn đảo, chúng ta vẫn thường nghe nói “sỏi đá cũng cần có nhau”, vật vô tri vô giác mà còn phải nương tựa vào nhau. Hôm nay ta chưa gặp hoạn nạn, nhưng biết đâu một ngày rất gần chúng ta lại cần đến sự giúp đỡ của người khác, cho nên hãy tập tinh thần nhạy bén quan tâm, giúp đỡ người khác. Muốn vậy phải bỏ bớt cái tôi ích kỷ, cái vô tâm của mình.

Mỗi người hãy nhìn lại, là thành viên của gia đình, cộng đoàn, nhóm tông đồ… nhưng chúng ta có thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ nỗi niềm đau đớn tinh thần cũng như thể xác của người thân trong gia đình, của cộng đoàn, của nhóm mình hay không? Hay chúng ta vẫn vô tâm trước những đau khổ của người khác? Hay chúng ta thay vì xoa dịu lại còn gây thêm đau khổ cho người khác?

6. Hành động bác ái còn có tác dụng rất lớn trong việc truyền giáo. Tôi biết được nhiều người trở lại đạo vì họ cảm kích việc bác ái của người Công Giáo. Chẳng hạn như ở họ đạo mà tôi đang phục vụ, có nhiều người Công Giáo sống xa nhà thờ, xen lẫn với bà con lương dân, khi các gia đình Công Giáo hay các gia đình lương dân nầy có tang chế, những người giáo dân trong họ đạo không quản ngại xa xôi, hao tốn đến giúp về tinh thần lẫn vật chất… những việc làm như thế rất đánh động bà con lương dân và sau đó thường có những người xin học đạo. Như thế hành vi bác ái không những chứng tỏ chúng ta là môn đệ thật của Đức Giêsu, mà còn có thể qua đó giúp tha nhân đến với Chúa nữa.

7. Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau. Thật vậy, yêu thương giúp đỡ người khác mà thiếu lòng yêu mến Chúa thì việc làm đó khó bền vững và thường dẫn tới tự cao tự mãn. Yêu thương giúp đỡ người khác như là dấu chỉ của lòng yêu mến Chúa, như thánh Giacôbê đã từng dạy rằng: đức tin không có việc làm là đức tin chết. Hay như mẹ Têrêsa đã nói: hoa trái của đức tin là bác ái, hoa trái của bác ái là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết quan tâm giúp đỡ nhau, như là giúp cho chính Chúa. Amen.

 

71.Suy niệm 3 của Gp Vĩnh Long

AI LÀ ANH EM?

“Thưa Thầy, nhưng ai là anh em thật của tôi.” (Lc 10, 29)

Trước năm 75, có một bài hát sinh hoạt lời như sau: “kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?” Đúng, kẻ thù không phải là con người; bài hát kể tiếp: kẻ thù chính là sự gian ác – vô luân – hờn câm… Bởi vì nếu kẻ thù là con người, thì khi ta giết họ, ta sẽ ở với ai đây. Sau năm 75, Có một câu người ta hay lấy làm châm ngôn: “Bạn bè, phải giúp đỡ; kẻ thù, phải tiêu diệt”. Câu này chắc chắn có nhiều người không nhận. đây chình là đề tài ta sẽ suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.

a. Một vài ghi chú để hiểu rõ bài dụ ngôn này:

* con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô: lối 20 cs, băng qua sa mạc gồ ghề khúc khuỷ, đến ngày hôm nay vẫn còn nhiều bọn cướp lộng hành

* Thày Tư tế: theo luật có bổn phận lo việc phụng tự lễ bái. Ông vừa làm phận sự xong và từ Giêrusalem trở về Giêricô. Hiện tại, ông không có gì ngăn trở để giúp đỡ nạn nhân này, nhưng ông né tránh vì nghĩ mình đã đủ bổn phận rồi.

* Thầy Lêvi: tuy Luật có định, ai đụng vào xác chết là bị ô uế trong ngày đó (Lv 11, 24); nhưng người bị cướp này vẫn chưa chết mà! Chúng ta cũng nên biết trong Đệ nhị Luật còn qui định (Đnl 22, 4): khi thấy bò hay lừa bị ngã, thì đỡ nó dậy… Bò hay lừa mà Luật còn định như thế, huống cho con người ta. Vậy mà Thầy Lêvi vẫn bỏ đi; đây là một thiếu sót lớn lắm…

* người Samaritanô: dân Samaria cũng gốc là người Do thái, nhưng tách lìa nhau từ năm 935 vì lý do Do thái bị chia làm hai nước nam và Bắc, thời vua Omri. Dân Samaria sống chung với dân ngoại nên bị lây nhiễm thói tục ngoại bang. Sau thời lưu đày, Nêhêmia đưa dân trở về quê hương và xây lại đền thờ Giêrusalem. Người Do thái khinh bỉ dân Samaria nên đã không cho họ góp phần vào việc xây lại đền thờ; vì thế, họ tức giận nên đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Samaria cũng tôn thờ một Chúa Giavê, nhưng chỉ tin vào 5 cuốn sách đầu của Cựu Ước mà thôi. Giữa người Do thái và Samaria luôn có sự kỳ thị kình chống nhau rất lớn. Chúa Kitô muốn dùng hình ảnh người Samaritanô nhân hậu không phải để đả kích người do thái, nhưng chắc chắn Chúa muốn nói lên tình yêu chân thật xuất phát từ trái tim, không phải từ nguồn gốc, địa vị hay chủng tộc…

b. Chúng ta hôm nay nghĩ gì đây? Người ta có thể nói: Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu nói lên các hình ảnh khá rõ nét: hình ảnh người Samaritanô chính là Đức Kitô. Con đường Giêricô: là con đường ở trần gian. Quán trọ: là Hội thánh Chúa Kitô. Dầu và rượu: hình ảnh phép Thánh Thể. Người bị cướp: con người, nhân loại chúng ta…

Đây là một trong những dụ ngôn rất đẹp, Luca muốn ghi lại để gởi cho người Do thái; (vì Tin Mừng của Luca viết ra là để dành cho người Do thái đọc) nói lên lòng mến Chúa yêu người đích thực hệ tại ở đâu, phải thể hiện ra sao, để có được sự sống vĩnh cửu. Như trên ta thấy, người Samaritanô nhân hậu, đã sẵn sàng cuối xuống ôm lấy đau thương của anh em mình, dù người đó là ai: Do thái hay Samria, người đó có yêu thương kính trọng mình hay không. Tấm lòng bao dung nhân ái của người Samaritanô cao cả quá! Ngay hôm nay, nhân loại hô hào yêu thương, quảng đại, tha thứ, xoá bỏ hận thù, nhưng thực sự được mấy người. Con người ngày nay không chỉ đói lương thực, mà còn đói cả tình thương nữa!

c. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện chân thành như sau: Lạy Chúa xin dạy cho con biết sống bao dung, quảng đại, tha thứ như người Samritanô nhân lành, để giảm đi cơn đói khát của nhân loại không phải chỉ cơm bánh hàng ngày, mà là những đau thương nước mắt, nhất là cơn đói tình thương. Amen.

 

72.Có xót thương mới được cứu độ

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

"Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (Lc 10, 25). Đây là câu hỏi của nhà thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay và cũng là tiếng vọng được vang lên từ trong sâu thẳm của con người ở mọi nơi và mọi thời. Tuy nhiên, muốn có sự sống đời đời cần phải có ý ngay lành và phải thực thi đức ái trong lòng mến thì mới hy vọng đạt được.

Hôm nay, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đưa tới sự sống ấy qua dụ ngôn người Samari nhân hậu. Qua đó, Ngài cũng mời gọi mỗi người hãy xót thương như thế thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

1. Bối cảnh câu chuyện

Khởi đi từ câu chuyện giữa Đức Giêsu và người thông luật: ông này lên tiếng hỏi: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (Lc 10, 25). Dựa trên những hiềm khích sẵn có, nên câu hỏi này không phải xuất phát từ ý hướng ngay lành, nhưng nó là một sự gài bẫy để như một cái cớ nhằm cơ hội đánh bại Đức Giêsu nếu Ngài bị lỡ lời! Điều mà ông ta mong mỏi, đó là hy vọng Đức Giêsu sẽ đưa ra một mớ lý thuyết, một lô nghi lễ và dày đặc những nguyên tắc để trả lời!!! Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tước lấy vũ khí ngay trong tay đối phương khi Ngài hỏi ngược lại vấn đề: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" (Lc 10, 26). Người thông luật đã trả lời cách chính xác: “Yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận như chính mình” (x. Lc 10,27). Nghe xong, Đức Giêsu đã dạy cho ông ta một bài học sống động ngay trên chính câu trả lời của ông, Ngài nói: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống" (Lc 10, 28).

Chính câu hồi đáp này đã làm cho người thông luật chưng hửng và thất bại. Bởi lẽ, câu hỏi của Đức Giêsu đã làm đảo lộn tình thế. Từ chỗ Ngài là đối tượng để gài bẫy, đến chỗ chính cái bẫy ấy đã tố cáo và vạch trần những điều ám muội bởi lương tâm đê tiện của nhóm thông luật mà ông là người đại diện.

Thấy được lối sống hình thức của nhà thông luật, nên Đức Giêsu mới kể cho ông nghe dụ ngôn về người Samari nhân hậu.

Câu chuyện ấy là: một người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Bất ngờ anh bị bọn cướp tấn công. Khiến anh ta nửa sống nửa chết. Có một thầy Lêvi đi qua, ông trông thấy rồi bỏ đi. Một Tư tế cũng lựa chọn như vậy. Nhưng người Samari trông thấy, ông đã chạnh lòng thương và ra tay cứu giúp.

Tưởng cũng nên biết thêm: Giêrusalem cao cách mặt nước biển 766 mét. Trong khoảng 32 km, con đường này đã đổ dốc tới 1.200 mét. Từ Giêrusalem xuống Giêrikhô có rất nhiều đèo và đường xá chật hẹp, quanh co, khúc khửu. Đây là điều kiện thuận lợi cho bọn cướp hoành hành. Vì thế, người ta thường gọi đoạn đường này là “con đường máu”, ai muốn được an toàn khi đi trên con đường này thì hoặc là đi thành từng đoàn hay phải tính giờ để về nhà lúc mặt trời chưa lặn.

2. Ý nghĩa câu chuyện

Khi kể cho nhà thông luật câu chuyện trên, Đức Giêsu muốn vận dụng nó vào trong bối cảnh cụ thể, nhằm dạy cho ông ta một bài học sống động về việc thi hành luật.

Để hiểu sâu sắc ý nghĩa của nó, chúng ta cùng phân tích ý nghĩa của từng nhân vật.

Trước tiên là khách bộ hành: vị khách này không được Đức Giêsu nói rõ là ai, hình dạng ra sao hay thuộc dân tộc nào, mà chỉ nói là người lữ khách lâm nạn. Nhưng cứ theo sự thường thì có lẽ là người Dothái và ông ta phải là một người rất liều lĩnh. Bởi vì chỉ đi có một mình mà lại mang nhiều tư trang hành lý. Vì thế, ông ta bị cướp và bị đánh đập là lẽ đương nhiên trên con đường đầy nguy hiểm này.

Tuy nhiên, điều đáng nói là hình ảnh của những người đi đường khi trông thấy người lâm nạn.

Trước tiên là thầy Tư tế: ông ta trông thấy nạn nhân nằm quằn quại bên lề đường. Nhanh tay, nhanh mắt, thầy Tư tế đã tránh sang một bên và bỏ qua. Có lẽ vị tư tế này không dám đụng vào nạn nhân vì sợ bị ô uế bởi Luật. Vì trong Luật có chép rằng: nếu ai đụng vào người đã chết thì bị ô uế đến 7 ngày (x. Ds 19,11). Vì thế, có thể ông ta suy diễn: nếu giúp đỡ người bị nạn, ông sẽ không còn thanh sạch để xứng đáng tế lễ, và đương nhiên ông bị mất phiên phục vụ trong đền thờ! Như vậy, thầy Tư tế này đã có lựa chọn: ông ta đặt lễ nghi trên tình thương. Đền thờ và nghi lễ đã làm cho lòng trắc ẩn của ông bị đóng khung bởi luật.

Thứ đến là thầy Lêvi: cũng cùng một lựa chọn như thầy Tư tế, nên ông đã ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi khổ đau của người gặp nạn. Tuy chỉ là người giúp việc cho thầy Tư tế. Bổn phận của ông cũng theo đó mà nhẹ nhàng hơn. Thế nhưng, ông không dám đụng vì sợ liên lụy, nên đã “đào vi thượng sách” cho an thân.

Cuối cùng là người Samari: ông cũng thấy người gặp nạn như thầy Tư tế và Lêvi. Nhưng, thay vì tránh né, phủi tay, ông đã chạnh lòng thương và đến để cứu giúp người lâm nạn.

Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu lên tiếng hỏi: “Ai là người thân cận của người gặp nạn?” (x. Lc 10, 36). Nhà thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy". Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (Lc 10, 37).

3. Sứ điệp Lời Chúa

Có lẽ khi đọc qua câu chuyện trên, nhiều người trong chúng ta không khỏi bức xúc và buông những lời chỉ trích nặng nề đến những người đã vô tâm và lạnh lùng không giúp đỡ người lâm nạn. Đồng thời không ngớt trầm trồ khen ngợi người Samari nhân hậu.

Tuy nhiên, nếu suy niệm dưới ánh sáng đức tin và dưới cái nhìn liên đới, hẳn chúng ta thật bỡ ngỡ vì những hình ảnh và lựa chọn của thầy Tư tế và Lêvi trong câu chuyện trên lại đang tiếp diễn nơi những hành vi và lựa chọn của chúng ta. Còn tấm lòng và nghĩa cử nhân ái của người Samari lại quá xa vời trong đời sống đạo của mỗi người!

Vì thế, không lạ gì khi chúng ta vẫn thấy đây đó sự dửng dưng, vô cảm và thiếu vắng lòng thương xót ngay tại những trung tâm tôn giáo với nhiều lễ nghi tối ngày... Hay vẫn còn đó biết bao người đói khát, rét mướt, không nhà cửa ngay tại những trung tâm thành phố sầm uất, tráng lệ. Hoặc biết bao trẻ em mồ côi, người già neo đơn không nơi nương tựa đang ngày đên cầu cứu tại các chợ trời, gầm cầu!!!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: dù là ai, làm việc gì, trong đạo hay ngoài đời, ngôn hành phải đồng nhất. Nếu chỉ tập trung lo tổ chức lễ nghi hay sự kiện nhằm mục đích “võ sĩ dương oai” mà quên đi việc thăng tiến con người, nhất là người nghèo, khổ đau, bị gạt ra bên lề xã hội, thì tất cả mọi chuyện chúng ta làm chẳng khác gì một tay hề trên sân khấu tôn giáo! Điều đáng nói, đó là: chúng ta sẽ phải trả lời trước Vị Thẩm Phán chí công, giàu lòng thương xót trong ngày chung thẩm về đức ái mà mình có với tha nhân chứ không phải là những thành công nơi những công trình hay lễ nghi bề ngoài. Mặt khác, nếu vì kiêu ngạo mà bám víu vào một mớ kiến thức rồi đưa ra những khái niệm, định nghĩa để phân tích phải - trái, nhưng không hề có lòng xót thương như người Samari, thì chắc chắn ơn cứu độ sẽ vuột mất ngay trong tay chúng ta. Hãy nhớ lại lối sống giả nhân giả nghĩa và kết cục bi đát của Giuđa để làm bài học cho chính mình!

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho cho chúng con có được tấm lòng thương xót như người Samari, để khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa được hiện tại hóa nơi hình ảnh và hành vi của mỗi chúng con. Được như thế, chúng con mới hy vọng có được sự sống đời đời. Amen.

 

 

73.Hãy về và làm như vậy – Giuse Vinc. Ngọc Biển

Trong xã hội hiện thời, chúng ta thấy tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng. Chuyện đâm thuê, chém mướn, bóc lột là những tội ác đang hoành hành trong thời đại của chúng ta hôm nay.

Đứng trước tình trạng đó, hơn bao giờ hết, tình yêu thương, vị tha, lòng bao dung là điều cần thiết để làm vơi đi những đau thương, mất mát.

Bài Tin Mừng hôm nay khơi gợi cho chúng ta về tình yêu hướng tha, lòng bao dung vô vị lợi đó.

1. Bối cảnh vấn đề

Câu chuyện được khởi đi bằng việc trao đổi giữa Đức Giêsu và một người thông luật: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Câu hỏi này nếu thoáng nghe, thoạt nghĩ, chúng ta sẽ dễ dàng kết luận rằng nhà thông luật này có vẻ khao khát đi tìm hạnh phúc viên mãn. Nhưng kỳ thực đây chỉ là câu hỏi nhằm thử Đức Giêsu để gài bẫy và hạ thấp uy tín của Ngài mà thôi.

Bởi vì trong luật Cựu Ước có tới 613 điều, trong đó có 365 điều cấm không được làm và có 248 điều buộc phải làm. Một bộ luật khổng lồ đã làm cho dân phải khốn đốn và không ai có thể chu toàn. Họ không biết khởi đầu từ đâu và kết thúc ở điều luật nào! Và, đâu là điều quan trọng nhất. Ngay trong nội bộ của những nhà thông luật cũng chưa đưa ra được điều luật nào là chính yếu. Đây chính là cơ hội để họ thử Đức Giêsu.

Tuy nhiên, qua câu hỏi của vị Luật Sĩ: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Thay vì trả lời trực tiếp cho ông ta biết phải làm sao, Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ, từ người thụ động sang thế thượng phong khi hỏi lại ông ta: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?". Qua câu hỏi mang tính chất vấn như vậy, Đức Giêsu đã tước được vũ khí từ đối phương, và như một mũi tên xoáy sâu vào tận căn của ông ta, buộc ông phải nói lên điều mà ông đã biết: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi (Đnl 6,5), và hãy thương mến anh em như chính mình" (Lv 19,8). Tuy nhiên, vì biết được lối sống giả hình của giới học giả Do Thái, họ luôn đeo ách nặng nề trên dân và buộc dân phải thi hành, còn chính họ thì lại không giữ (x. Mt 23, 27-28). Vì thế, Đức Giêsu đã bảo ông ta: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống".

Qua câu nói đó của Đức Giêsu, Ngài đã tố cáo lối sống cứng ngắc của họ; đồng thời bẻ gãy mưu mô của họ; mặt khác, Ngài cũng khơi gợi lên trong lòng họ hướng chiều về điều thiện và khuyên họ nên làm để được sự sống đời đời.

Khi bị thất thế hoàn toàn, nhà thông luật như muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Đức Giêsu dựa trên câu hỏi của ông để kể cho ông dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Kết thúc câu chuyện, lại một lần nữa Đức Giêsu hỏi ông ta: "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Đức Giêsu đã nói cho ông ta biết rằng: hãy về và làm như thế thì sẽ được cứu độ, chứ không phải chỉ kêu: 'Lạy Chúa! lạy Chúa!' là được vào Nước Trời cả đâu!

2. Sứ điệp Lời Chúa cho mỗi chúng ta

"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.... Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Đây phải là điều răn quan trọng nhất và là thước đo đời sống đạo của mỗi chúng ta. Nếu yêu Chúa mà không yêu người thì chúng ta tự mâu thuẫn với chính mình. Chính thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: tin phải đi đôi với hành động, nếu tin mà không hành động thì đức tin chết. Quả thật, Chúa là Đấng chúng ta không thấy, còn con người thì ai cũng thấy trong cuộc sống. Mến Chúa mà lại không yêu người thì là kẻ nói dối. Quả thực, Thánh Gioan đã nói: "Nếu ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1 Ga 4:20). Và "Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4:21).

Nhưng điều quan trọng là ta yêu người như thế nào? Đây mới là điều quan trọng!

Người Luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu đâu là người thân cận của ông ta, và Ngài đã trả lời cho ông thấy người thân cận chính là anh em của mình, và phải yêu thương họ như chính mình. Qua câu nói đó, Ngài muốn chúng ta đi xa hơn để vượt ra khỏi ranh giới chủng tộc, quốc gia, giai cấp, địa vị để yêu thương bằng một tình yêu vị tha thay thế cho vị ngã. Người Samaritanô đã chạnh lòng thương đến người bị nạn, ông đã coi nỗi đau khổ của người bị nạn chính là nỗi đau của ông, nên ông cảm thấy trách nhiệm và cần phải giúp đỡ người bị nạn. Tình thương đã khiến cho ông gần tha nhân hơn là những rào cản tôn giáo, dân tộc.

Có vị linh mục nọ than phiền về lối sống đạo của giáo dân một cách xót xa, ngài nói: giáo dân ở đây họ thích rước sách linh đình. Cứ rước kiệu nhiều là họ mừng. Họ thích trống to, kèn lớn, ăn mặc đẹp để đi rước.... Nếu đội bên kia trống to, kèn lớn hơn thì bên này phải tìm mọi cách để của mình bằng hoặc to hơn bên họ. Nhưng xót xa thay, nhiều người trong giáo xứ bỏ lễ, nhiều năm không xưng tội. Giới trẻ lao vào con đường nghiện ngập, cờ bạc... Họ sẵn sàng đánh chửi lẫn nhau. Họ sống như những người không biết Chúa. Nếu có mời gọi họ đi học Giáo lý, Kinh Thánh thì họ bảo không có giờ, nhưng lại vùi đầu trong các sòng bạc cả ngày lẫn đêm.... Đời sống đạo như thế thì làm sao chống chọi được với những trào lưu tục hóa tinh vi trong xã hội hôm nay! Một thực trạng đáng lo ngại.

Thật vậy, nếu chỉ sống đạo cách hình thức hay hời hợt bên ngoài, chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng như những tư tế, trợ tế trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.

Như vậy, sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy yêu thương tha nhân với một tình yêu chân thành, quả cảm. Khi yêu thương như vậy, chúng ta đang đi vào và ở trong Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi vì "Thiên Chúa là Tình Yêu"; đồng thời mỗi chúng ta hãy vượt ra khỏi những thứ bề ngoài để sống một cuộc đời có Chúa thực sự. Được như thế, nỗi đau của người anh em cũng là của chính ta. Và khi giúp đỡ người anh em đang đau khổ là chúng ta đang góp phần làm cho thế giới này vơi đi phần nào sự bất công do những trào lưu tục hóa gây nên; mặt khác, qua họ, Thiên Chúa muốn gặp gỡ chính chúng ta và mời chúng ta sống hiệp thông với Ngài.

Ước gì, Lời Chúa nói: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa! lạy Chúa!' là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7:21) sẽ là lời cật vấn lương tâm của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu Chúa trên hết mọi sự; đồng thời cũng biết yêu người anh chị em chúng con cách chân thành và sẵn sang giúp đỡ họ như Chúa dạy qua bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

74.Tôi đã để đi qua - Lm Mark Link

Chủ đề: "Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn, như Đức Giêsu đã làm."

Một bà đứng bên lề đường đang chờ đèn báo để sang đường. Đối diện với bà bên kia đường là một thiếu nữ khoảng 17 tuổi. Cô ta cũng đợi để sang đường. Bà không thể nào không thấy là thiếu nữ này đang khóc. Thật vậy, nỗi buồn của cô quá lớn đến nỗi cô không thèm giấu nó. Trong khoảnh khắc ánh mắt hai người gặp nhau. Dù chỉ là khoảnh khắc nhưng cũng đủ để bà thấy được sự đau khổ lớn lao ngập đầy đôi mắt người thiếu nữ. Cô gái xoay mặt nhìn chỗ khác.

Khi đèn báo bật sáng. Mỗi người bước khỏi lề và khởi sự bước sang đường. Khi thiếu nữ gần đến, người đàn bà có thể thấy cô thật xinh xắn, ngoại trừ nỗi buồn hiện rõ trên khuôn mặt.

Ngay khi hai người sắp sửa gặp nhau, bản năng làm mẹ của bà bỗng nhiên nổi dậy. Mọi thứ trong người bà như muốn đến với cô ta để an ủi cô.

Ao ước đó lại càng gia tăng vì người thiếu nữ này cũng trạc tuổi cô con gái của bà. Nhưng bà đã để cô đi qua. Ngay cả một lời thăm hỏi cũng không. Bà chỉ để cô đi qua mà không nói một lời. Nhiều giờ sau, đôi mắt ngập tràn đau khổ của cô gái vẫn tiếp tục ám ảnh bà. Bà luôn luôn tự hỏi, "Tại sao mình không quay lại hỏi thăm, 'Cưng ơi, tôi có thể giúp gì cho cô không?' Nhưng mình đã không làm vậy. Mình bước đi. Chắc chắc là cô ta có thể khước từ mình và nghĩ mình là người tò mò. Nhưng có sao đâu! "Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ cho cô ấy biết được là có ai đó quan tâm đến cô. Nhưng mình đã bỏ đi. Mình đã làm như thể cô ấy không hiện diện."

Câu chuyện có thật đó là một trong các câu chuyện cho thấy điều Đức Giêsu muốn nói trong dụ ngôn thật hay của bài phúc âm hôm nay. Đó là: Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn của Đức Giêsu, chúng ta cần biết chút đỉnh về hoàn cảnh thời bấy giờ. Con đường trong dụ ngôn của Đức Giêsu không phải trong tưởng tượng. Thật vậy, đó là một con đường rất nổi tiếng. Đó là con đường duy nhất thời xưa đi từ Giêrusalem đến Giêrikhô. Lúc ấy con đường ngoằn ngoèo vì các tảng đá lớn. Hậu quả là con đường trở thành sào huyệt nổi tiếng của bọn cướp.

Một lá thư viết từ năm 171 AD than phiền với nhà chức trách về tội ác xảy ra trên con đường này. Có những hồ sơ lịch sử ghi nhận việc người đi đường phải nộp tiền mãi lộ cho bọn cướp để được yên ổn băng qua. Chính con đường nổi tiếng này đã làm khung cảnh thực tế cho dụ ngôn của Đức Giêsu về người Samari nhân hậu. Trong dụ ngôn, Đức Giêsu vẽ ra ba loại người khác nhau: một người tư tế, một thầy Lêvi, và một người Samari.

Trước hết, người tư tế. Có lẽ ông đang trên đường đến Giêrusalem để tế lễ trong Đền Thờ. Có lẽ ông nghĩ nạn nhân nằm bên vệ đường đã chết nên ông đi qua. Nếu một tư tế chạm đến xác người chết, ông bị nhiễm uế và tạm thời bị cấm không được vào Đền Thờ. Do đó, người tư tế không muốn dính dáng đến.

Kế đó là người Lêvi. Ông ta cũng giống như thầy phó tế ngày nay. Không rõ lý do tại sao ông lại bỏ qua. Có lẽ lý do của ông cũng giống như của người tư tế. Hoặc có lẽ ông sợ nạn nhân này chỉ giả vờ và sẽ tấn công ông nếu ông đến giúp. Do đó, thầy Lêvi cũng không muốn dính líu tới.

Sau cùng, đó là người Samari. Khi đề cao người Samari thành anh hùng trong dụ ngôn, Đức Giêsu chắc đã làm thính giả phải bàng hoàng sửng sốt, vì họ thường tránh xa người Samari như quân phản loạn không đạo đức đàng hoàng. Người Samari bị cấm không được vào Đền Thờ. Tiến lễ của họ bị từ chối, và lời chứng của họ không được chấp nhận ở toà án.

Nhưng Đức Giêsu biết việc Người làm khi đưa người Samari thành anh hùng trong câu chuyện. Người muốn dạy cho lớp thính giả Do Thái thấy rằng tình yêu thì không có biên giới. Tình yêu đến với mọi người đang có nhu cầu. Nó không bỏ qua. Nó dừng lại để giúp đỡ; nó muốn dính líu, bất kể người đó là ai.

Và điều đó đưa chúng ta trở lại câu chuyện của người phụ nữ và cô gái phiền muộn. Đến với cô ta và giúp đỡ cô ta thì thật dễ. Như chính bà đã nói: "Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ để cô ta biết là có ai đó lưu tâm đến cô." Và, nhiều khi, đó là điều mà tất cả những gì một người đau buồn muốn được biết.

Thường những gì họ cần thì không phải tốn nhiều sức lực của chúng ta, không phải mất nhiều thời giờ của chúng ta, không phải tốn kém nhiều tiền bạc của chúng ta. Thường tất cả những gì họ cần thì đơn giản là được thấy chúng ta lưu tâm đến họ.

Và dụ ngôn hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn đến sự tương giao của chúng ta với người khác. Nó mời gọi chúng ta hãy tự hỏi chính mình: Chúng ta đáp ứng thế nào với nhu cầu của người khác? Chúng ta có dừng bước và sẵn sàng giúp đỡ họ không? Hay chúng ta bỏ đi, làm như họ không hiện diện?

Đặc biệt, chúng ta có thi hành điều này đối với các phần tử trong gia đình chúng ta hay không? Một dữ kiện buồn thảm của đời sống là đôi khi chúng ta đối xử với người lạ còn tốt hơn với người thân, như vợ chồng, cha mẹ, hay con cái.

Dụ ngôn hôm nay không mời gọi chúng ta đi ra xa, nguy hiểm đến tính mạng và trở thành anh hùng. Nó mời gọi chúng ta đến với người khác, liều mất sự tự cao tự đại của mình và trở nên nhân bản hơn. Nó mời gọi chúng ta lên tiếng hỏi, "Tôi có thể giúp gì không?" Và nếu lời ngỏ ý của chúng ta bị từ chối thì sao? Như người phụ nữ trong câu chuyện nó, "Thì có sao đâu!" Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta lưu tâm đến hộ. Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta đã ngỏ lời, "Tôi có thể giúp gì không?"

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con cặp mắt để nhìn thấy sự đau khổ trong ánh mắt của người khác, nhất là những người trong chính gia đình chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đôi tai để nghe tiếng than khóc của người khác, nhất là những người cùng dòng máu với chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng trắc ẩn để dám dính dáng đến nhu cầu của người khác, nhất là nhu cầu của những người thân yêu của chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự khiêm tốn đừng bao giờ bỏ qua vì sợ bị khước từ. Nhưng xin ban cho chúng con sự can đảm để đến với họ và hỏi họ, "Tôi có thể giúp gì không?"

 

75.Luật Samaritanô – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Câu chuyện kể của Chúa Giêsu về người Samarianô nhân hậu đã khởi hứng cho một câu chuyện phim khá lý thú. Nội dung chuyện phim như sau: Một cô sinh viên trường y đang học năm cuối chương trình y khoa một lần kia chứng kiến một người đứng tuổi mập mạp đang trong cơn đột quỵ. Hoàn cảnh lúc ấy thật cấp bách, theo sự hiểu biết về y khoa mà cô sinh viên đã tiếp thu ở nhà trường thì cần phải có một tiểu phẩu nhỏ nơi cổ nạn nhân mới có thể cứu sống nạn nhân kịp thời trước khi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Cô sinh viên ngành y ấy đã theo tiếng lương tâm mà làm tiểu phẩu trước khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nạn nhân được cứu sống, nhưng lại bị một di chứng là khó phát âm vì khi làm tiểu phẩu, cô sinh viên chưa tốt nghiệp ấy bị một sai sót nhỏ. Cô sinh viên bị nạn nhân kiện. Nhiều thế lực không tốt cũng nhân cơ hội ấy để kiện luôn cả khoa và trường mà cô sinh viên đang theo học. Vụ kiện làm xôn xao dư luận, trở thành đề tại “hot” và cô sinh viên đang ở trong cảnh thế bí chỉ vì lý do chính là chưa tốt nghiệp, chưa có bằng chứng nhận được phép hành nghề y khoa. Và nhà trường cũng như bị liên lụy trách nhiệm đáng kể. Câu chuyện tưởng như không có hậu ấy đã thay đổi vào phút chót khi viên luật sư trẻ đầy tâm huyết đã tìm ra một luật để bào chữa đó là luật Samaritanô. Câu chuyện phim trở thành có hậu khi cô sinh viên được tòa tuyên vô tội.

Thánh tông đồ dân ngoại nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn mọi Lề Luật” (Rm 13,8). Có thể nói rằng luật tình yêu là luật của các luật. Tuy nhiên cần xác định thế nào là yêu thương. Dưới khía cạnh tiêu cực, “đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại”(Rm 13,10). Khổng Tử dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Theo Tanmút Do Thái giáo thì Rapbi Hinlen cũng nói: “Đừng làm cho người khác điều chính mình không thích”. Ông Tobia cha, đã khuyên bảo người con một đạo lý tương tự như trên: “Này con, hãy cẩn thận trong mọi việc con làm, và hãy tỏ ra con là nhà gia giáo trong mọi cách ăn thói ở của con. Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả”(Tb 4,14-15). Chúa Kitô đã đưa luật tình yêu này đến tận cùng với chiều kích tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môsê và các lời ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

Bài Tin mừng Chúa Nhật XV TN C tường thuật khi được Chúa Giêsu hỏi rằng trong Luật đã viết những gì thì vị thông luật đã trả lời đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng ông ta trả lời chính xác và hãy làm như vậy thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp (x.Lc 10,25). Kitô hữu chúng ta ít băn khoăn hay tranh luận về giới luật phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn. Quả thật nếu đã tin nhận Thiên Chúa là căn nguyên và là cứu cánh của mọi vật mọi loài, nhất là loài người chúng ta thì việc phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là lẽ tất yếu. Tuy nhiên, cũng như vị thông luật kia, chúng ta nhiều khi cảm thấy khó khăn với giới luật yêu tha nhân như chính mình.

Cựu Ước ghi rõ là phải yêu người thân cận như chính mình. Thế thì ai là người thân cận của chúng ta? Hạn từ người thân cận dường như giả thiết một sự giới hạn nào đó cả về mối tương quan cũng như điều kiện hoàn cảnh. Người Do Thái vốn ưu tiên đặt nặng mối dây tương quan niềm tin tôn giáo, kế đến là là mối tương quan màu da quốc tịch… Và chắc chắn trong phạm trù người thân cận không hề có kẻ thù. Chúng ta nhận ra điều này khi họ được dạy rằng “hãy yêu thương đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43).

Chúa Giêsu đã làm chưng hửng vị thông luật kia, khi mở rộng phạm trù người thân cận đến tất cả mọi người, không trừ ai. Người lại còn khẳng định tính tất yếu và vô điều kiện của giới luật yêu người. Câu chuyện “người Samaritanô nhân hậu” là một ví dụ minh họa rõ nét. Dù là luật của nghi lễ tế tự như trường hợp vị tư tế hay dù là một sự cẩn trọng, khôn ngoan cần có như trường hợp của vị trợ tế hay dù bất cứ lý do gì cũng không thể là nguyên cớ khiến ta xao nhãng hay thoái thác nghĩa vụ sống yêu thương. Theo nội dung câu chuyện kể, khi truyền cho vị thông luật là hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu thì Chúa Giêsu nhắc nhớ vị ấy cũng như chúng ta rằng đừng hỏi ai là người thân cận của tôi mà hãy tự hỏi tôi là người thân cận của những ai. Chúng ta phải trở nên người thân cận của tất cả những ai đang cần đến lòng xót thương, ngay ở đây và lúc này.

Là Kitô hữu, chúng ta không thể bỏ qua nội dung dụ ngôn cuộc phán xét chung trong Tin mừng Matthêu đã được Giáo hội viết thành lời kinh “mười bốn mối thương người”. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống…Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta….Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không choTa ăn; Ta khát các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc…”(Mt 25,31-46).

“Hãy đi và hãy làm như người Samaritanô nhân hậu!” Một lệnh truyền mang tính cấp thiết vì nó liên hệ đến hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, con phải là người thân cận của ai đây? Không phải ở đâu xa hay là ngày mai, nhưng hôm nay và ở nơi này, lạy Chúa, những ai đang cần lòng thương xót, sự cứu giúp và nâng đỡ của con? Nếu thật lòng và xác tín với lời cầu nguyện trên, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

 

76.Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI THÂN CẬN

Phải làm gì để được sống đời đời? Bản tóm tắt Lề Luật nói rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều răn lớn nhất; mà cả hai tác giả Nhất Lãm khác cũng có (x. Mc 12,28-31) có một câu hỏi khác, riêng của Luca, câu hỏi về người thân cận; câu hỏi này được làm sáng tỏ bằng dụ ngôn người Samari tốt lành (cc. 29-37), những tác giả Tin Mừng không ngừng lại giữa đường; đoạn nói về hai chị em Matta và Maria, cho phép ông tiếp tục minh hoạ cho điều răn lớn nhất (cc. 38-42). Dụ ngôn đã giải thích phải hiểu thế nào là yêu người thân cận; câu chuyện về hai chị em cũng làm một công việc tương tự về điều răn yêu mến Chúa. Toàn bộ bản văn dạy phải trao ban có người khác trong khi tiếp nhận từ Chúa.

1. Điều Răn Lớn: 10,25-28

Và này có người thông luật kia đứng lên, một trong những kẻ khôn ngoan và thông thái vắng mặt ở hoạt cảnh trước. Muốn thử thách Chúa Giêsu về kiến thức của Ngài trong vấn đề Luật, ông ta ép buộc Ngài tự tuyên bố về điều Ngài quan tâm, dựa vào truyền thống và suy tư cá nhân của Ngài, đối với cái cốt yếu và quan trọng nhất trong Luật (S. Légasse). Để đạt mục đích này, ông ta đặt ra một câu hỏi, đã được thoả thuận trong Do Thái giáo, về điều răn lớn nhất (x. Mc 12,28) hoặc về những phương thế để đón nhận sự sống của Thiên Chúa (như ở đây và ở Lc 18,18). Lời đáp của Chúa Giêsu thực ra là một câu hỏi ngược lại về luật; như đối thủ của mình, Ngài biết rằng đọc Kinh Thánh chính là giải thích Kinh Thánh. Vì thế Ngài mới hỏi: về vấn đề này: ông đọc thế nào?

Lúc đó Luật sĩ trưng ra điều luật của Đnl 6,4 mà mọi người Do Thái đạo đức đọc hai lần một ngày trong kinh Shema Israel và nó đòi hỏi nơi họ một sự gắn bó hoàn toàn vào Thiên Chúa duy nhất. Rồi ông ta nói thêm điều luật của Lv 19,18 về tình yêu người thân cận. Khi đặt hai câu ấy nối tiếp nhau, ông đã tuân theo truyền thống Do Thái đánh giá tình yêu tha nhân bằng cách đặt nó ngang tầm mức với tình yêu Thiên Chúa. Một cách đọc Kinh Thánh như vậy hoàn toàn ăn khớp với lời giải thích của Chúa Giêsu, chính Người đã đặt ra tình yêu kẻ thù ở trung tâm của ơn gọi Kitô hữu (x. 6,27tt). Trong khi tán thành ý kiến của ông, Chúa Giêsu mời vị luật sĩ đem ra thi hành giới răn yêu thương thương theo hai chiều kích: làm như vậy thì sẽ được hưởng sự sống tròn đầy mà câu hỏi ban đầu đã nói đến. Độc giả cũng được mời gọi nối kết với hoạt cảnh trước (10,21-24): kết quả cuối cùng của tình yêu đối với Thiên Chúa và với người thân cận nảy sinh qua năm tháng, phải chăng không là việc hiểu biết Chúa Cha? Nếu ông luật sĩ thực hành luật mà ông đã phụng tự, ông sẽ trở lại tình trạng của những người bé mọn và sẽ thấy được sự hiện diện hoạt động của Thiên Chúa.

2. Dụ Ngôn Người Samari Tốt Lành: 10,29-37

Hoạt cảnh lại tiếp diễn bởi vì ông luật sĩ đặt một câu hỏi mới, mà ông cho là tuỳ phụ thôi: ông muốn tỏ ra mình có lý khi đặt vấn nạn ban đầu. Ở đây Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi. Đưa ra một định nghĩa về người thân cận có thể sẽ rơi vào cái chi li của luật mà Ngài đã từng trách các Kinh sư và nhóm Pharisêu; Chúa Giêsu sẽ trở thành một luật sĩ mất! Trái lại, Ngài kể một dụ ngôn (cc.30-35) mà Ngài sẽ kết thúc bằng một câu hỏi ngược lại (c.36).

Trong hoạt cảnh, những người ẩn danh được biết qua vai trò xã hội hay tôn giáo của họ: kẻ cướp và chủ quán cư ngụ tại con đường này; thầy tư tế và Lêvi là khách qua đường, người Samari đi đường. Người này là một tên lạc giáo chỉ chấp nhận có Luật thành văn là bộ Ngũ thư và từ chối hoàn toàn luật truyền khẩu. Dưới mắt ông luật sĩ, anh ta hoàn toàn trái ngược với hai vị đáng kính phục vụ Đền Thờ. Còn về con người nửa sống nửa chết thì không hề có một lý lịch xã hội nào; người ta cũng chẳng biết anh ta có phải là Do Thái hay không nữa. Khi dàn dựng các nhân vật như thế, Chúa Giêsu tránh được cái lôgich của câu hỏi mà ông luật sĩ đặt ra, có thể đưa Ngài tới chỗ trình bày người thân cận dưới dáng vẻ một anh chàng Samari nửa sống nửa chết. Thế nhưng, người Samari là một trong những người đi đường ấy. Cũng như các công chức của Đền Thờ, ông nhìn thấy kẻ bị thương. Nhưng người kia đứng cách xa bởi vì biết chừng đâu đó là một tử thi và sẽ làm họ bị nhiễm uế: họ tuân giữ Luật cấm (Ds 19,11-16). Trái lại, người Samari chạnh lòng thương – cũng chính là thái độ của Chúa khi thấy bà goá ở Nain (7,13). Trong khi các giáo sĩ, vì tôn trọng Luật về sự trong sạch, tách rời tình yêu Chúa khỏi tình yêu người thân cận (xc.27) và”tránh qua bên kia” mà đi, thì người Samari lại săn sóc người bị thương, một hành động được diễn tả bằng sáu động từ ở câu 34 và tiếp tục những biến thái ở câu 35. Thực vậy, ông ta trao tiền cho chủ quán để ông này săn sóc người xa lạ này thay cho ông. Như thế, thay vì phải ở lại do biến cố bất ngờ, ông một mình tiếp tục lên đường. Nếu ông dự trù trở lại để thanh toán tổn phí phải trả thêm, ông không nói đến việc sẽ hỏi tin tức về người ông đã cứu giúp.

Phù hợp với tâm trạng của các nhân vật trong dụ ngôn, câu hỏi ngược lại đầy năng động của Chúa Giêsu đặt ra làm biến đổi câu hỏi của ông luật sĩ (câu 33 so sánh với câu 29). Ông luật sĩ tự đặt mình làm trung tâm thế giới khi hỏi ai là người thân cận của ông. Chúa Giêsu đảo ngược vấn đề:”Ai đã là người thân cận của người bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thân cận là người tỏ lòng thương xót chứ không phải kẻ thụ hưởng lòng thương xót.”Người thân cận không còn phải là người khác để yêu thương, nhưng là kẻ đã tỏ ra gần gũi với họ, mà là chủ thể của hành động đã được làm vì anh ta” (J.Delorme). Người thông luật đã trả lời được chính xác khi bảo người thân cận chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót (Cl 37). Chẳng sao cả: chính một kẻ lạc giáo, tức là có một tương quan sai lạc với luật, đã biết giữ luật của Lêvi 19,18 chứ không phải các chuyên viên phụng tự… Lúc đó, Chúa Giêsu chỉ cần kêu mời ông luật sĩ cũng làm những việc giống như vậy.

 

77.Chú giải của Noel Quesson

Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người Pha-ri-sêu tin có đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những người Sa-đu-xê-ô không tin chuyện đó.

Ngày nay, những người ở xung quanh chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó. Vậy, điều này không có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định thì vấn đề đời sống vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con người có thể tự đặt ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo hiểm. Pascal đã thử đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với "sự đánh cuộc của Pascal" (Tư tường 343): "Thiên Chúa hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nhưng chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi. Điều này không cố ý bạn đã bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn "Thiên Chúa hiện hữu”, nếu bạn thắng, bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả. Vậy bạn hãy đánh cuộc Người hiện hữu không chút ngần ngại... Ở đây bạn được một cuộc sống vô cùng với hạnh phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con số hữu hạn, những khả năng mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn. Điều này loại bỏ hết mọi do dự... "

Thực vậy, hai giả thuyết (Thiên Chúa hiện hữu... Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một trọng lượng. Nếu chúng ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn lựa giữa "mặt sấp" và "mặt ngửa": một cơ may trên một con số giới hạn các ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy ra (tất cả... hoặc không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào mà không ngần ngại chọn lựa, "Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện sự chọn lựa ấy? bạn sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một người bạn chân thành, trung thực.

Thực ra, bạn sẽ không sống trong những lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui; nhưng bạn sẽ không có những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn sẽ thu được những điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực hiện trên con đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư vô của điều mà bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho một điều chắc chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy".

Mọi thời đại và trong mọi nền văn minh, con người đều hy vọng vào "một đời sau”. Đức Giêsu thường nói về nó. Người cũng nói rằng "đời sống vĩnh cửu” ấy đã được bắt đầu. Đối với những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa hoàn thành, dĩ nhiên rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có nó? Đó là câu hỏi của người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.

Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn người và người thân cận như chính mình" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".

Trước hết, người thông Luật đọc lại kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma, trích ra từ sách Đệ Nhị Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày nhiều lần. Nhưng Người thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.

Để được sự sống đời đời, phải yêu thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm thấy trong hai Tin Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22, 34-40; Máccô 12, 28-31). Nhưng chính Lu ca không còn phân biệt một giới răn "thứ nhất" và một giới răn "thứ hai" lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người thân cận không thể tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế không?

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người nhân cận của tôi?”

Cho tới lúc này, chúng ta chưa thấy có gì độc đáo.

Giáo huấn của Đức Giêsu không khác Luật của Cựu Ước... và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.

Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho câu hỏi: "Ai là người thân của của tôi?" sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả "kẻ thù” mình.

Đức Giêsu đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi...

Một "thầy tư tế", một "thầy Lê vi"! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai chuyên viên về sự thờ phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ mỉ Luật và các nghi thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ về việc không nên làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có một thái độ hoàn toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không phải của Kitô giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh "không giúp đỡ người đang gặp nguy hiểm". Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và Luật Do Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được "sờ vào máu” để được ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ tại Đền thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ không muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.

Bằng việc cố ý chọn lựa hai ví dụ đó, Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng của Kinh Thánh (Ô-sê 6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không tôn trọng Luật phụng tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình yêu thương huynh đệ (Mát-thêu 9,13- 12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa. Thiên Chúa gắn cho sự "thực hành" bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền thờ nếu trước tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!

Tôi có là một Người "hành đạo" chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa nào?

Tôi có "thực hành" bác ái, có quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác không?

Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác?

Luca là thánh sử duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng nhân hậu, thương xót, của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.

Các bạn hãy đọc lại sáu hành động của lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của Thiên Chúa, đây sự thờ phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới sẽ biến đổi lịch sử cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.

Và đó là một "Người Sa-ma-ri"! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của những Người Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét không chịu "thực hành" tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao giờ đặt chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài ngày, Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức Giêsu lại lấy một người như thế để làm gương!

“Ông chạnh lòng thương xót... " "esplanchnisthè" Động từ tiếng Hy-lạp này chứa đựng một hình ảnh: "Splanchna" chính là "ruột gan, bộ lòng". Vậy phải dịch là: "ông xúc động đến ruột gan". Và từ ấy trong tiếng Do Thái hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng mang cùng một ý nghĩa: "Rahamim" cũng chỉ "ruột gan", "lòng mẹ", "tấm lòng", “sự dịu dàng", "lòng tốt", "lòng trắc ẩn sâu xa". Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ "chạnh lòng thương" chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước những đám đông khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).

Các Giáo phụ, vốn gắn với những phương thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ ngôn này bằng cách áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng thế, trước tiên không phải là một sách bàn về đạo đức những là sự "công bố", sự "mạc khải" về tình yêu thương của Thiên Chúa: người Sa-ma-ri tốt lành, trước hết chính là Đức Giêsu... người đi đường bị thương gần chết, chính là nhân loại bị sự ác quất ngã... quán trọ, chính là Giáo Hội nơi Đức Giêsu đưa con người đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng tuyệt diệu này thành một bài học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng này nói với chúng ta "Thiên Chúa làm điều gì cho con người". Người không ngừng "sinh ra" con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình", thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ hiền của Thiên Chúa, và chúng ta, đối với người "thân cận" của mình chúng ta phải chia sẻ lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên không phải là một "khoa đạo đức” điều đó không có nghĩa là Tin Mừng không chứa đựng những yêu sách đạo đức... vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi nguyên tắc.

Hãy yêu thương! phải, bạn hãy yêu thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là "sự thờ phụng" thật. Tại sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. "Thiên Chúa là tình yêu, và ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!" (1 Gioan 4,8). Hỡi thầy tư tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên Chúa không thích lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp mặt Người thân cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. "Bạn có yêu không? Bạn có yêu thương tôi không?" Và không chỉ bằng lời chứ?

Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay lũ cướp?" Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".

Đức Giêsu lật ngược hoàn toàn ý niệm về người thân cận. Người thông luật đã hỏi: "Ai là người thân cận của tôi? (theo nghĩa thụ động)... trong ý nghĩa này, chính " những người khác" là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông: "Bạn tỏ ra mình là người thân cận của ai?" (theo nghĩa chủ động)... trong nghĩa này, chính chúng ta phải là người thân cận" của những người khác, hoặc là không. Người, “thân cận", nghịch lý siêu phàm của Đức Giêsu, lại chính là “tôi" khi tôi đến gần những người khác với lòng yêu thương Người tạ không c.ăn tự hỏi "ai" là người thân cận của tôi... nhưng "tôi" sẽ là người thân cận của mọi người, không phân biệt như thế nào?..ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!

home Mục lục Lưu trữ