Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1370637

TẠI SAO CHÚA GIÊSU SỚM SAI CÁC TÔNG ĐỒ ĐI RAO GIẢNG…?

TẠI SAO CHÚA GIÊSU SỚM SAI CÁC TÔNG ĐỒ ĐI RAO GIẢNG…?

Bài chia sẻ tuần trước đã nói đến sự kiện Chúa Kitô chẳng những không nản trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Người, trái lại, Người lại còn hăng say đi rao giảng ở các làng lân cận đó nữa. Chưa hết, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người thậm chí còn sai cả các môn đệ của Người đi làm việc rao giảng như Người nữa. Vấn đề được đặt ra ở đây là, chính bản thân Người còn chưa làm cho dân chúng tin tưởng Người, thì thành phần mới theo Người chẳng được bao lâu, thành phần vì thể chưa hiểu được Người là mấy, làm sao có đủ khả năng và tư cách làm chứng cho Người, nhờ đó làm cho Người được nhận biết và yêu mến? Thật thế, sự kiện Chúa Kitô sai các môn đệ sớm đi rao giảng đây đã cho thấy chẳng những tính cách khẩn trương của việc truyền giáo mà còn cho thấy cả cốt lõi của vấn đề thừa sai nữa.

Nếu Lời Thần Linh nhập thể để mạc khải cho loài người biết Mầu Nhiệm Thần Linh bằng chính ngôn ngữ và hành động của một Con Người là Chúa Kitô, thì việc Chúa Kitô sai các tông đồ đi cũng là cách Người muốn dùng chính những con người thuần nhân tầm thường hơn Người để nói với các thành phần dân chúng bình dân. Chính vì thế các vị thừa sai đích thực và trung thực còn được gọi là thành phần ngôn sứ của Thiên Chúa, của Chúa Kitô, Đấng đã được Cha sai thế nào cũng sai các tông đồ như vậy. Như thế, nếu bản chất của Giáo Hội lữ hành là truyền giáo, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã ý thức và tuyên ngôn trong Sắc Lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes” (đầu đoạn 2), thì ơn gọi của Kitô hữu không phải chỉ là ơn gọi nên thánh mà còn là ơn gọi thừa sai, đúng hơn là một ơn gọi duy nhất lưỡng diện mà người viết vẫn diễn tả bằng cụm từ “sống thánh chứng nhân”. Đúng thế, nếu khi lãnh nhận bí tích rửa tội, con người đã được thánh hóa, được nên thánh, đã là thánh trong Chúa Kitô và bởi Thần Linh của Người, thì đời sống của Kitô hữu chẳng qua là để thể hiện hay bộc lộ bản chất thánh thiện của một người con Thiên Chúa ra mà thôi. Để rồi, càng trung thực phản ảnh bản chất thánh thiện của mình là con Thiên Chúa, bằng một đức mến trọn hảo, được thể hiện ở một nội tâm liên lỉ khao khát Chúa và sẵn sàng tuân hợp ý Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như ở một cuộc đời hăng say hoạt động tông đồ, dấn thân phục vụ cho đến tận tuyệt, đến độ hoàn toàn phản ảnh Đấng Thiên Sai Tử Giá.

Vâng, “thừa sai” là gì, nếu không phải là được sai đi, với tư cách là “tông đồ”, một danh xưng theo tiếng Hy Lạp là apostolos có nghĩa là “được sai đi”. Vậy nếu người được sai đi để làm việc cho người sai phái thì họ sẽ được người sai phái cung cấp cho có đủ những gì cần thiết để làm việc cho họ và chu toàn sứ mệnh được ủy thác. Đó là trường hợp của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, dù không được ở từ đầu đến cuối với Chúa Kitô như các Nhóm 12 Vị Tông Đồ, trái lại, còn có một quá khứ hoàn toàn phản lại Kitô giáo, nhưng cũng đã chớp nhoáng trở thành một vị tông đồ, và là một vị có thể nói nổi nhất trong thành phần Tông Đồ, đến nỗi, danh xưng tông đồ đã được đồng hóa với con người Phaolô, ở chỗ, khi nghe trống đến danh xưng Thánh Tông Đồ, dù không nói rõ tên vị nào, cũng hiểu là Thánh Phaolô. Vậy Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã được Đấng Sai Phái ngài trang bị cho ngài ra sao, nếu không phải, như thánh nhân nói đến trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô ở bài đọc thứ hai, đó là “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để hoàn toàn hiểu được mầu nhiệm, hiểu được dự án Thiên Chúa đã ấn định nơi Chúa Kitô, một dự án được thực hiện khi thời gian viên trọn, tức là làm cho tất cả mọi sự trên trời dưới đất qui phục quyền thủ lãnh của Chúa Kitô”.

Trong bài đọc thứ nhất chúng ta cũng thấy trường hợp tương tự của tiên tri Amos, vị đã bị tư tế Amaziah ở Bethel đuổi đi về đất Do Thái, chứ không cho nói tiên tri ở Bethel của vị tư tế này. Tiên tri Amos đã nói với vị tư tế ấy rằng: “Tôi không phải là tiên tri, tôi cũng không thuộc về nhóm các tiên tri; tôi là một mục tử và là một người hái sung. Chúa đã chọn tôi là một kẻ đang chăn dắt thú vật khi phán cùng tôi rằng ngươi hãy đi nói tiên tri cùng dân Do Thái của Ta”. Chính việc tuân phục và phó thác làm theo ý Đấng đã sai phái mình là tất cả nghệ thuật truyền giáo và là tư cách đích thực của một vị thừa sai, thành phần ra đi để hoàn tất ý Đấng Sai Phái mình, và cũng nhờ tinh thần phục vụ vô tư này họ mới có thể gặt hái được thành quả của việc truyền giáo, ở chỗ làm cho những ai gặp họ đếu thấy rằng họ thực sự được sai đi, để rồi qua họ, Chúa Kitô là Đấng Sai Phái họ được nhận biết và yêu mến.

Riêng các vị tông đồ tiên khởi trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Đấng sai phái các vị trang bị cho như thế nào để các vị có thể thi hành vai trò thừa sai của các vị trong cuộc truyền giáo đầu tiên? Nếu không phải, như Chúa Kitô minh định trong bài Phúc Âm, đó là quyền năng khu trừ thần ô uế, và cùng với quyền năng này, Người mong muốn các vị hãy sống tinh thần phó thác khó nghèo, chỉ chuyên lo trước hết và trên hết chu toàn ý định của Đấng sai phái mình (x Jn 4:34). Được trang bị trong ngoài như thế, các vị thừa sai có thực hiện những gì Vị Sai Phái của các vị mong muốn chăng? Ở cuối bài Phúc Âm, Thánh Ký Marcô đã thuật lại thế này: “Các vị ra đi rao giảng việc cần phải ăn năn thống hối. Các vị đã khu trừ nhiều quỉ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành nhiều người”. So sánh thành quả truyền giáo với những gì các vị tông đồ thừa sai được trang bị, chúng ta thấy chúng tương hợp với nhau. Thứ nhất, nhờ được Đấng sai phái ban cho quyền năng trừ thần ô uế mà các vị đã có thể “khu trừ nhiều quỉ” và chữa lành bệnh nạn tật nguyền. Thứ hai, nhờ tinh thần phó thác khó nghèo chỉ chuyên tâm rao giảng mà các vị mới có thể “rao giảng việc cần phải ăn năn thống hối”.

Qua hai yếu tố trang bị vị thừa sai như thế, chúng ta thấy một bởi Chúa ban, đó là quyền trừ thần ô uế, và một bởi vị thừa sai, là tinh thần phó thác khó nghèo phục vụ. Đặt trường hợp một vị thừa sai không có tinh thần tông đồ cần thiết, chỉ có quyền trừ thần ô uế thôi, các vị có khả năng trừ tà ma ác qủi được chăng? Thưa không. Như đã xẩy ra ở trường hợp một em bé trai bị thần câm ám song các môn đệ của Chúa Giêsu không thể nào trừ nổi, sau đó được Chúa Giêsu cho biết thứ quỉ này chỉ bị khu trừ bằng lời cầu nguyện mà thôi (x Mk 9:18,29). Thật ra, tự mình, quyền năng của Chúa có thể trừ tà thần ác quỉ dễ như chơi, song quyền năng này, một khi ở nơi vị thừa sai, chỉ có thể phát sinh tất cả mãnh lực của mình khi nó hoàn toàn chiếm đoạt con người thừa sai ấy, đến độ biến con người thừa sai này làm phương tiện để Đấng Sai Phái các vị có thể tỏ mình ra qua các vị. Chỉ có tinh thần phó thác khó nghèo phục vụ như Chúa Kitô Tử Giá, con người thừa sai mới được thông phần quyền toàn năng trời đất của Chúa Kitô Phục Sinh (x Mt 28:18), một thứ quyền năng làm cho chính họ thắng vượt và khống chế mọi sự dữ (x Mk 16:17-18), một thứ quyền năng thực sự mạnh hơn cả sự chết, mãnh liệt như chính chân lý giải phóng (x Jn 8:32).

Mùa Thường Niên được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn sau Mùa Phục Sinh. Như hai tuần trước đã chia sẻ, giai đoạn Mùa Thường Niên sau Giáng Sinh nhắm đến chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện, và giai đoạn Mùa Thường Niên sau Phục Sinh nhắm đến chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Việc phân biệt này rất cần để có thể hiểu được việc Giáo Hội chọn lựa và sắp xếp Phụng Vụ Lời Chúa, nhờ đó hiểu được ý nghĩa của chiều hướng Lời Chúa trong giai đoạn Mùa Thường Niên. Nếu Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được hiểu theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện, ở chỗ, chính Chúa Kitô tỏ bản thân của Người ra cho dân Do Thái nhận biết Người, thì Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh xoay quanh chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh, một Sự Sống hay một Chúa Kitô được tái sinh qua những chứng từ của Giáo Hội về Người, những chứng từ được thể hiện qua các hoạt động truyền giáo trước hết và trên hết của thành phần thừa sai tông đồ.

Vẫn biết Sự Sống Tái Sinh đây, sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên về cùng Cha, được nhắm đến Dân Ngoại, đến việc truyền giáo “ad gentes” (nhan đề của sắc lệnh truyền giáo của Công Đồng Chung Vaticanô II được ban hành ngày 7/12/1965, ngay trước ngày Công Đồng bế mạc 8/12/1965, sau 3 năm diễn tiến từ ngày 11/10/1962), tức việc truyền giáo cho muôn dân, một việc truyền giáo đã được Sách Tông Vụ thuật lại, nhưng lại là việc truyền giáo, như Chúa Kitô căn dặn các vị tông đồ, phải được “bắt đầu từ Giêrusalem”, và các vị sau đó phải làm chứng về Người “ở khắp Giuđêa và Samaria, thậm chí cho tới tận cùng trái đất” (Acts 1:8). Trong lời căn dặn cuối cùng này của Chúa Kitô, chúng ta không thấy Người nói đến vùng Galilêa là nơi xuất thân của Người, phải chăng là vì nơi Người gặp gỡ các vị sau khi Phục Sinh để lên trời đã là ở chính Galilêa rồi (x Mt 28:7,16), thì kể như Galilêa là khởi điểm, là điểm phát xuất truyền giáo, nhất là vì miền Galilêa đã được chính bản thân Người rao giảng, lại còn là nơi Người đã sai các môn đệ của Người đi rao giảng nữa?

 

51. Sứ vụ Tông Đồ

(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ, CRM)

LỜI CHÚA:

Bài đọc1: Am.7,12-15: Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta.

Bài đọc 2: Ep.1,3-14: Ngài đã chọn chúng ta trong Ngài trước khi tạo dựng thế gian.

Phúc âm: Mc.6,7-13: Người bắt đầu sai các ông đi.

SUY NIỆM:

Washburne mô tả tướng Grant đã tiến hành chiến dịch trong cuộc nội chiến như thế nào: “Tất cả phụ thuộc vào khả năng di chuyển nhanh. Điều quan trọng với tướng Grant là mang hành lý càng nhẹ càng tốt. Ông không mang theo cận vệ, cũng chẳng có áo khoác ngoài, ngay cả một áo sơ mi sạch”. Lúc đó tôi ở với ông và biết rằng toàn bộ hành trang của ông trong 6 ngày chỉ là một bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như những binh sĩ thường nhất, ngủ trên đất và khỏi cần có gì để đắp ngoài trời.

Sứ vụ tông đồ của con dân Thiên Chúa chắc chắn còn quan trọng hơn công tác đặc biệt của tướng Grant nhiều lắm. Chính vì thế Chúa Giêsu dặn dò các tông đồ rất kỹ lưỡng: Đi đường các con đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, đừng mặc hai áo nhưng có thể cầm gậy và chân đi dép. Những điều Chúa căn dặn ở đây ngoài tính cách tự nhiên cho gọn nhẹ, nó còn mang yếu tố siêu nhiên giúp cho các tông đồ trở nên giống Đức Vua Giêsu nghèo nàn, đó là nhân đức cần thiết làm cho ta dễ dàng vươn tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, đồng thời cũng là gương sáng cho mọi người biết thoát ly của cải vật chất, tránh xa sự ham hố tiền bạc là thứ dẫn đến hư hỏng ở trần gian. Những hành trang của các tông đồ là chính Đức Kitô, Lời Chúa, quyền phép trên các thần ô uế, đó là linh dược vô cùng quí giá để thánh hoá tha nhân và cứu các linh hồn.

Chúng ta biết rằng về cách ăn mặc của người Do Thái thời Chúa Giêsu có 5 trang phục:

1. Áo trong: Phần áo lót mặc lên người. Áo này đơn giản, đó chỉ là một khúc vải dài xếp đôi rồi may một bên. Nó khá dài đủ che phủ đến bàn chân. Hai góc ở phần trên được khoét để làm hai cánh tay. Loại áo này thường được bán ra mà chưa khoét cổ. Điều đó cho biết áo vẫn còn mới, để người mua tuỳ tiện khoét phần cổ sao cho vừa với khổ người của mình.

2. Áo ngoài: Ban ngày nó được dùng làm áo choàng và ban đêm làm mền đắp. Nó gồm một tấm vải dài hơn hai mét, khổ rộng khoảng 1,5 mét, mỗi bên khoảng 0,4 mét được xếp vào may lại, khoét lỗ ở phía trên để xỏ tay được. Nhưng chiếc áo ngoài đặc biệt có thể dệt cẩn thận nguyên tấm không có đường may như chiếc áo chính trong toàn bộ y phục.

3. Giây thắt lưng: Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các vạt áo trong lên và giữ lại bằng giây thắt lưng, chỗ trống phía trước thắt lưng có thể đặt một bao hay một gói gì đó để mang đi. Giây thắt lưng thường được mang hai lớp khoảng 4 tấc rưỡi từ mỗi đầu. Phần mang hai lớp được dùng làm túi đựng tiền.

4. Khăn vuông che đầu: Bằng vải, rộng gần một mét vuông, thường màu trắng, xanh hoặc đen, nó được xếp theo đường chéo góc, cột lên đầu để che gáy, gò má và đôi mắt cho khỏi sức nóng và tia sáng của mặt trời.

5. Đôi dép: Chỉ là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hoặc bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó vào bàn chân để mang.

Những hành trang đơn giản Chúa dạy môn đệ như thế là Chúa có ý muốn cho các Ngài phải tin cậy vào Thiên Chúa và không nên quan tâm đến vật chất. Sứ mệnh tông đồ là đi ban phát ơn thánh chứ không phải để kinh doanh thương mại. Tuy nhiên chúng ta thấy có vẻ quá là thiếu thôn bấp bênh so với thực tế bây giờ và nó có thể làm cho vị tông đồ phải lo lắng nhiều điều. Nhưng đi vào thực tế hoàn cảnh thời đó thì không có gì phải ngạc nhiên: Ngày xưa ở bên Đông Phương, việc ân cần tiếp đãi khách lạ được xem là bổn phận thiêng liêng. Khi có người lạ vào làng, người ấy không cần tìm nơi trú ngụ vì chính làng ấy có nhiệm vụ tiếp đãi họ. Dầu vậy Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài phải tìm nơi ở xứng đáng. Nơi nào kém đạo đức, kém lịch thiệp chắc chắn sẽ gây trở ngại cho chức vụ. Sứ giả của Chúa phải cẩn thận trong việc tiếp rước để khỏi trở ngại cho công tác của mình. Đối lại nơi nào tốt lành thì ở lại đó cho tới khi ra đi, chứ không phải là đi hết chỗ nọ đến chỗ khác để cho thiên hạ tiếp đón, chiều chuộng, ăn chơi. Ngôn sứ của Chúa không bao giờ để cho người ta có ấn tượng mình dụ dỗ dân chúng để được thoả mãn cá nhân. Như vậy dấu hiệu của môn đệ Chúa Giêsu là sống thật đơn giản, và phải luôn luôn đem ơn phước đến cho người khác chứ không mong người ta phục dịch hầu hạ mình.

Sau khi hoàn tất bài học công tác chuẩn bị, tiếp đến là công tác mục tiêu chính sự, công tác này nhằm hoàn thiện hoá tha nhân trên cả phương diện tinh thần lẫn thể xác, tức là rao giảng sự ăn năn thống hối để đổi mới tâm hồn và chữa lành các bệnh tật thân xác. Công việc ở đây rất là tế nhị, khuyên bảo người khác ăn năn tức là gián tiếp nói họ tội lỗi, có tội mới phải ăn năn tội. Lúc đó sẽ chạm tới lòng tự ái sâu thẳm, đụng đến “cái tôi vĩ đại” của lòng người. Từ đó tâm hồn họ nảy sinh nỗi buồn, đôi khi xa cách, thậm chí có người còn chống lại chính Chúa Giêsu Kitô và đóng đinh Ngài vào Thập Giá một cách oan nghiệt.

Theo chân Thập Giá Chúa Giêsu chúng ta cũng không thể khác hơn được, nhưng tin tưởng vào sức mạnh của Thiên Chúa, các vị tông đồ sẽ vượt qua đau khổ để đưa các linh hồn về với Chúa. Đó là một sự giải phóng toàn diện, xoay trở cả cuộc đời người tội lỗi về với Chúa, đem sự lành mạnh và sức khoẻ cho cả xác lẫn hồn. Điều này rất ý nghĩa khi các tông đồ xức dầu cho các bệnh nhân. Đời xưa dầu được xem là môn thuốc trị bá bệnh cho thân thể. Nhất là khi tôi tớ Chúa xức dầu, Chúa Giêsu đã ban cho họ một quyền phép mới trong cách trị bệnh cổ truyền đó. Quyền phép mới của Thiên Chúa trở thành giá trị trong mọi việc thông thường khi người ta có Đức Tin. Vậy 12 tông đồ đã đem đến cho nhân loại thông điệp ơn cứu rỗi. Và cho đến nay đó vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội và mọi người Kitô hữu.

Chúng ta có thể thi hành sứ vụ tông đồ dưới nhiều hình thức:

Bằng cầu nguyện đặc biệt là Thánh lễ Misa.

Bằng khuyên dậy hay những lời xây dựng.

Bằng gương sáng nhân đức của bản thân.

Bằng việc làm trong đời sống thường ngày.

 

52. Thao thức của Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm. Philip M. Thanh Cao, CRM)

Có lẽ không ai trong chúng ta sống mà lại không có những thao thức, những khát vọng. Khi được dệt vào tấm thảm của lịch sử nhân loại, Chúa Kitô cũng có những thao thức, những khát vọng. Niềm khát vọng của Chúa Kitô đó chính là một đoàn chiên, một chủ chăn; thao thức của Chúa Kitô đó là giáo hội của Chúa mỗi ngày có thêm đồng, thêm lúa, thêm thợ gặt.

Chúa Kitô có một ước vọng rất lớn đó là thiết lập vương quốc của Cha Ngài. Một công việc quá lớn lao, nhưng Ngài lại dùng những cộng tác viên thật nhỏ bé. Bằng cuộc sống của con người, Chúa Kitô đã chia sẻ tất cả với chúng ta. Cha của Ngài là Cha của chúng ta. Mẹ của Ngài lài Mẹ của chúng ta, vậy sứ mạng của Chúa Kitô, thao thức của Chúa Kitô lẽ nào lại không phải là sứ mạng và thao thức của mỗi người chúng ta, những Kitô Hữu, những chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô?

Công trình truyền giáo to lớn, nhưng Chúa muốn dùng những dụng cụ bé nhỏ như chúng ta. Chúa sai chúng ta đi để thực hiện khát vọng của Ngài. Mọi người trong mỗi khả năng, hoàn cảnh và ơn gọi đều được mời gọi sống quảng đại cho Tin Mừng. Mang trong mình thao thức của Chúa Kitô các nhà truyền giáo được mời gọi dấn thân một cách quyết liệt, không quản ngại những khó khăn, dù hiểm nguy, đói khát; hiểu lầm bắt bớ hay tù đày để rao giảng, để kể chuyện Chúa Giêsu cho mọi người.

Để thực hiện thao thức của Chúa Kitô trong bối cảnh ngày hôm nay, trước hết mời gọi chúng ta hãy xem lại cung cách sống tin mừng. Sống đạo chắc hẳn đòi hỏi chúng ta một sự đáp trả quyết liệt hơn là chỉ theo đạo! Việc sống đạo của chính mình còn chưa quan tâm thì làm sao có thể quan tâm đến đời sống đạo của những anh chị em khác!.

Linh đạo truyền giáo và rao giảng tin mừng của Thánh Phụ Đaminh đó là: "Contemplare, contemplata aliis tradere - chiêm niệm và mang kết quả của sự chiêm niệm đó đến cho tha nhân.” Khi nhìn đồng lúa chín bao la mà thợ gặt thì ít, Chúa Giêsu đã không truyền cho các môn đệ phải dấn thân đi rao giảng tin mừng ngay, nhưng Chúa Giêsu đã bảo hãy cầu nguyện để xin chủ ruộng sai thợ đến. Vị thánh Tiến Sĩ trẻ của Giáo hội, Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả cuộc đời không bước chân ra khỏi bốn bức từng Dòng Kín Carmêlô để đi truyền giáo, nhưng lại là vị thánh bổn mạng của các xứ truyền giáo qua đời sống chiêm niệm. Vì chỉ bằng đời sống cầu nguyện, nhà truyền giáo mới có thể công bố Tin Mừng Cứu Độ một cách đáng tin tưởng.

Lời mời gọi và sai đi truyền giáo, không gì khác hơn đó chính là lời mời gọi sống đức tin của mình. Lời mời gọi đó chính là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Đức Kitô và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Mang Chúa đến cho tha nhân, thì có lẽ nào trong cuộc sống của chúng ta lại vắng bóng Chúa Kitô? Vì thế, truyền giáo chính là một cuộc trở về của mỗi cá nhân; trở về trong cung cách sống đạo; trở về để gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống. Chưa gặp được Chúa Kitô, chưa biết Ngài, và nhất là chưa yêu mến Ngài, biết đâu khi rao giảng về Ngài, chúng ta lại rao giảng về một Chúa Kitô nào đó khác với Chúa Kitô của Phúc âm!.

Gia đình chính là môi trường truyền giáo hữu hiệu và thực tế nhất, nơi mà hạt giống Lời Chúa cần được gieo vãi trước hết; nơi được coi là chủng viện đầu tiên đào tạo và phát xuất những thợ gặt lành nghề trong cánh đồng truyền giáo. Thế nhưng, liệu các gia đình Công giáo Việt Nam ngày hôm nay còn thực sự là những mái ấm, hoặc còn đủ ấm để Lời Chúa có cơ hội nảy mầm và phát triển?

Ngày 15 tháng 07 năm 2011, nguồn tin từ Kolkata, Ấn Độ có đăng một mẩu chuyện về cái chết của một người Mẹ Công Giáo 94 tuổi, đó là bà Elizabeth Anikuzhikat il. Bà có tất cả 15 người con, 8 trai và 7 gái. Người con trai lớn nhất là một Giám Mục, 5 người con trai khác là Linh mục và 4 cô con gái là Nữ tu của hai Dòng Thánh Tâm và Salêgiêng. Gia đình, cung thánh của sự sống và tình yêu, chính là chiếc nôi nuôi dưỡng và làm nảy sinh những ơn gọi truyền giáo trong Giáo hội.

Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn. Sau hơn hai ngàn năm, nhưng ánh sáng của lời Chúa Kitô chưa lôi cuốn được nhiều người, phải chăng vì trong đêm đen này còn thiếu nhiều những ánh trăng sao phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô!

Vậy Lời Chúa một lần nữa mời gọi và thúc bách chúng ta cùng nhau nhìn lại sứ vụ loan báo tin mừng, cùng nhau khơi dậy niềm thao thức truyền giáo, cùng kể cho nhau nghe về Chúa Giêsu. Bắt đầu từ trong môi trường gia đình, trong giáo xứ, trong cộng đoàn, chúng ta hãy kể cho người khác về Chúa Giêsu, kể bằng lời nói, bằng cuộc sống, bằng những phương thế thích hợp với hoàn cảnh và cuộc sống của mỗi người.

Chớ gì mỗi Kitô hữu là một thợ gặt, mỗi gia đình, mỗi giáo xứ, mỗi môi trường sống là một cánh đồng. Được như thế, thao thức của Chúa Kitô sẽ trở thành hiện thực, Giáo hội Chúa mỗi ngày có thêm đồng, thêm lúa, thêm thợ gặt. Vậy chúng ta hãy đi, hãy kể chuyện Chúa Giêsu cho mọi người. Và đừng quên, xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta. Amen.

 

53. Siêu thoát bản ngã

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

Đại Tướng Grant là Tổng Chỉ Huy quân đội trong trận nội chiến và sau này trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 18 với hai nhiệm kỳ. Đại Tướng sống rất đơn sơ, như Ngoại Trưởng Washburne đã viết về ông như sau: "Khi Đại Tướng Grant từ giã Bộ Tổng Tham Mưu để đi tranh cử Tổng Thống, ông chẳng mang theo sắc phục "Lon Tướng" và những vật dụng mà một Tướng Lãnh thường mang theo. Ông chỉ muốn làm sao để có thể di chuyển cho nhẹ nhàng. Vì thế, điều quan trọng đối với ông là càng mang theo ít đồ càng tốt. Ông chẳng cần có cận vđi theo, chẳng cần có lừa ngựa để di chuyển, cũng chẳng mang theo áo khoác hoặc nhiều y phục để thay đổi. Tất cả những thứ mà ông mang theo cho cuộc vận động 6 ngày là một bàn chải đánh răng. Tôi đi theo ông, nên tôi biết rõ lắm. Ông sống như một anh binh nhì, ăn như lính, ngủ như lính, lấy trời xanh làm màn che".

I. ƠN TUYỂN CHỌN CAO QUÝ

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Kitô sai các Tông Đồ đi rao giảng, đi vận động cho Tin Mừng Nước Trời, Ngài cũng truyền cho các ông đừng mang theo nhiều đồ kềnh càng, không mang bị mang bánh, không mang theo tiền của, không mang hai áo choàng... để các ông khỏi bận tâm vào của cải, khỏi bị những phù vân đời này ràng buộc chi phối, làm ngãng trở sứ mạng Tông Đồ cao cả Chúa ủy thác.

Tất cả chúng ta đều cũng được Chúa tuyển chọn, như Ngài đã tuyển chọn các Tông Đồ. Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi Giáo Đoàn Ephesô khi nói với chúng ta rằng: "Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Ngài trong tình yêu thương" (Eph 1:4).

Ngay từ muôn thế hệ, Chúa đã biết chúng ta, đã yêu thương và tuyển chọn chúng ta, để chúng ta sinh vào đời, làm người rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: "Trước khi tác tạo nên con trong lòng thân mẫu, Cha đã tường hiểu con; trước khi con ra khỏi lòng mẹ, Cha đã thánh hiến con và đặt con làm tiên tri rao truyền danh Cha cho các dân tộc" (Jer.1:4-5). Chúa còn phán: "Cha đã yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha đã dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer. 31:3).

II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA ĐÁP LẠI

Để đáp lại tình Chúa yêu thương đã tuyển chọn chúng ta; để chu toàn sứ mạng làm Tông Đồ, làm chứng nhân cho Chúa giữa trần gian; cũng như các Tông Đồ, Chúa muốn chúng ta sống thanh thản siêu thoát, không bị ràng buộc vào những của cải vật chất, không bị trói buộc và nô lệ bởi bất cứ một phù vân nào ở đời này; để dễ dàng chuyên lo thực thi sứ mạng Chúa ủy thác và đạt tới cùng đích của cuộc sống làm con cái Chúa.

Dĩ nhiên, bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn phải sử dụng tiền của, vật dụng, tiện nghi cho những nhu cầu thân xác hoặc làm việc tông đồ; chúng ta cũng cần phải có những phương tiện vật chất trợ giúp, thiếu nó chúng ta cũng khó chu toàn được nhiệm vụ. Nhưng Chúa truyền dạy chúng ta đừng quá lệ thuộc vào những thứ đó, đến nỗi chúng ta trở nên nô lệ cho vật chất làm choán đoạt tâm trí, kéo ghì con người chúng ta xuống, khó vươn mình lên cao được, khiến chúng ta không thể: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết".

Các Thánh đã quá hiểu sự ràng buộc bởi của cải vật chất, làm ngãng trở đường tiến tới cùng đích và cản ngăn sứ mạng Tông Đồ, nên các ngài đã khước từ của cải đời này; hoặc phải dùng của cải đời này mà như không dùng, tức là không để cho mình bị chúng chiếm đoạt, đến nỗi trở thành nộ lệ cho những thứ phù ảo đó.

Nhiều vị Thánh, như Thánh Phanxicô Khó Khăn chẳng hạn, đã bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, hoặc từ bỏ chức quyền sang trọng để sống một đời nghèo nàn, tầm thường, bình dị, thoát ly khỏi những bon chen trần thế, để dễ dàng thoát ly khỏi những vật chất và ngay cả chính bản thân mình, hầu mau chóng đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa và chu toàn được sứ mạng Tông Đồ làm vinh danh Chúa.

Trái lại, nếu chúng ta không vươn tâm hồn lên khỏi cái bản ngã hư hèn, chúng ta cũng chẳng thể làm được ích lợi gì cho tha nhân, và cũng chẳng thể làm được lợi ích gì cho vinh danh Chúa, mà ngay cả phần rỗi chúng ta cũng khó đạt tới, chẳng hạn như câu truyện sau đây:

Một ông bõ giúp việc trong một giáo xứ nọ ở Miền Bắc Việt Nam, do một Cha Xứ kể lại: "Ông sống trong Nhà Xứ bằng một đời sống khô khan nguội lạnh, hằng ngày với các công việc thông thường như dọn nhà, xay thóc, giã gạo... Cuộc sống cũng nghèo khó đơn bạch, nhưng ông lại có lòng ham mê tiền của, chỉ lo tích góp từng đồng bạc không dám tiêu dùng và cũng chẳng giúp đỡ ai, ông chỉ bo bo như thần giữ của, cho đến khi ông lâm bệnh gần chết, mà cũng chẳng sao xưng tội được để dọn mình ra trước tòa Chúa, khuyên bảo mấy cũng vô ích... Mắt ông cứ đăm chiêu nhìn lên xà nhà, nơi treo bó quần áo rách của ông và lòng thì gắn vào mớ giấy bạc ông đã bó chặt vào đùi ông, mãi sau khi chết người ta mới khám phá ra. Thật thẳm hại thay con người mê tiền của!"

Kết Luận

Xin Chúa ban cho chúng ta biết chuyên lo một điều khẩn thiết là: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước tiên", tức là biết chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác làm tông đồ vinh danh Chúa, tìm cầu Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chính mình và cho các linh hồn trước hết mọi sự.

Để đạt được điều ước mong trên, Chúa đòi chúng ta phải siêu thoát khỏi mọi ràng buộc và nô lệ bởi những phù ảo trần thế như tiền của, danh vọng, chức quyền, hầu dễ dàng vươn lên với Chúa.

 

54. Người bắt đầu sai đi

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Sau khi bị dân chúng ở Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26), mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật cho Người những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị cho họ những gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử (6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế nào (6:12-13).

Đây là lần đầu tiên các môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều chính: là “ở với Người” và “để sai đi” (3:14). Người đã nói với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh cá con người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ quyền năng của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ quyền năng và chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không phải cho tin mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16). Việc xua trừ ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho họ để thi hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).

Chỉ thị trước tiên là các môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là những thứ cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để nuôi sống cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với người què: “Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi” (Cvtđ 3:6). Tiếp đến là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).

Sứ mạng của các môn đệ xem ra nằm ngoài thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về nơi chốn và thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó, họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).

Từ khi được kêu gọi làm ngư phủ của con người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai (3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.

 

55. Ra đi – Lm. Nguyễn Hữu An.

“Hôm nay khai mạc đại hội Truyền giáo tại nhà nguyện dòng Thánh Phaolô. Mình phu trách phần thuyết trình. Lần đầu tiên trong đời, mình đăng đàn trước một cử toạ có nhiều người tai to mặt lớn như thế. Mình bắt đầu run. Phải hít thật sâu mấy hơi liền mới thấy hết hồi hộp.

Mình chủ trương rằng người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi đễ thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào. Đức Giêsu đã đi và đi không ngừng. Thánh Phaolô cũng thế. Mình trích dẫn lời của Thủ tướng Ben Gourion: “Người lính Do Thái phải tìm hiểu và yêu thương quê hương của mình bằng hai bàn chân”. Người truyền giáo có thể đi bằng phương tiện truyền thông xã hội, nhưng đi bằng chính thân xác của mình, để hiện diện và đối thoại với người lương dân là cách đi hoàn hảo nhất. Mặt đối mặt, lời trao lời mới nảy ra tình yêu. Truyền giáo mà không yêu thương thì không thể là truyền giáo được. Muốn thế thì phải đi, phải đến...

Bài thuyết trình của mình có một ưu điểm là rất ngắn gọn, nên được thính giả vỗ tay hơn thông lệ. Vừa rời giảng đài được chừng ba bước thì chạm trán với thầy Hiến Minh. Thầy siết tay mình thật chặt và khen ngợi bằng một câu rất gọn: “Cậu nói được đấy”.

Thái độ niềm nở và lời khen ngợi của Thầy làm mình phấn khởi và thêm xác tín vào lập trường sẵn có: “Người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi để thấy mình phải làm gì, phải làm thế nao và phải làm tới mức độ nào”

(Lm Piô Phúc Hậu, Nhật ký truyền giáo trang 177).

Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.

Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Đức Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo. Từ hội đương này đến hội đường khác (Mt 4,23) hay ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Gio-đan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa... Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng, đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, quả là suốt đời Đức Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.

Đức Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Ghetsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đen dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).

Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.

Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20)

Đức Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.

Hai động từ Gọi - Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai. Các Tông Đồ là những người được sai đi. Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.

Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép, không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chua muốn.

Đức Giêsu cũng không giấu diếm họ. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ tôi trồng, Apollô tưới Chúa cho moc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ... và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuoi tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.

Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng ban thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

 

56. Suy Niệm của Lm. Phạm Bá Tước.

Việc truyền giáo trong đạo của chúng ta ở vào thời đại nào cũng thế, luôn luôn bị vấn đề kinh tế, tài chánh làm cản trở bước tiến. Các nhà truyền giáo ngày nay muốn phát động một chiến dịch đến với dân ngoại mà không có tài chánh, thì cũng đành bó tay; bởi thế trong dân mới có câu: “Có thực mới vực được đạo” quả là chí lý lắm, từ trung ương Giáo-hội cho chí các Giáo-phận, rồi giáo hạt, giáo xứ, đều phải có sẵn một qũi dành riêng cho việc truyền giáo thì công việc mới trôi chẩy. Thế mà các nhà truyền giáo tiên khởi của chúng ta, là các Tông đồ, được Chúa Giêsu, là bậc Thầy lỗi lạc của mọi nhà truyền giáo, trực tiếp sai đi xem ra lại coi nhẹ vấn đề tài chánh ấy. Chúa nói: “Khi đi anh em không được mang theo lương thực, tiền bạc, ngoại trừ một đôi dép mang dưới chân và một cây gậy câm nơi tay để chống thôi, ăn mặc đơn sơ gọn gàng, đừng mặc hai áo.”

Trích đoạn Tin-mừng theo thánh Marcô, đọc trong thánh lễ hôm nay, cho chúng ta thấy người chiến sĩ Phúc âm mẫu được Chúa Giêsu đích thân sai đi, chỉ có hai bàn tay trắng, mọi nhu cầu thiết yếu cho sự sống thân xác, cụ thể như lương thực, tiền bạc đều không được mang theo. Điều đó khiến nhiều người trong chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao Chúa Giêsu là Thiên-Chúa mà lại hành sử một cách khờ khạo và vô lý như thế? hay Chúa chỉ sai đi trong chốc lát thôi, đói bụng thì về nhà ăn. Người chiến sĩ ra mặt trận mà hễ đói bụng thì phải trở về hậu phương để ăn, như thế làm sao có thể chiến đấu thành công được? Chúng ta phải hiểu Lời Chúa sao đây? có nên làm theo lời Chúa dậy để nắm chắc lấy cái thất bại không? Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ để tìm hiểu ý Chúa.

Tiên vàn, chúng ta phải tự giác lãnh lấy trách nhiệm loan báo Tin-mừng mà Chúa trao cho chúng ta trước đã, đừng thoái thác cho rằng việc truyền giáo là việc hay là bổn phận dành riêng cho các vị Thừa sai, cho hàng Giáo sĩ, hay Tu sĩ, chứ Chúa không trao cho người giáo dân chúng tôi. Nếu chưa xác định được lệnh truyền của Chúa xưa sai các môn đệ đi cũng là lệnh truyền sai hết mọi Kitô hữu cho đến từng người một trong chúng ta, thì chẳng còn gì để nói cả, chỉ vì một lý do rất đơn giản là hết thảy những ai đã chịu phép rửa tội đều mang danh là Kitô hữu, nên chúng ta trở thành môn đệ đích thực của Chúa, hơn nữa chẳng ai trong chúng ta muốn chối bỏ danh hiệu này. Thánh lễ chúng ta tham dự hằng ngày, bao giờ cũng được kết thúc bằng một lệnh truyền sai đi. Giáo-hội thay mặt Chúa nói với chúng ta: “Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” Cộng đoàn hoan hỷ đáp lại: “Tạ ơn Chúa” Lời cầu chúc ấy là một lệnh sai đi loan báo Tin-mừng, hàm ý nhắc nhở người tín hữu về bao nhiêu ơn lành Chúa thông ban cho chúng ta trong Thánh lễ, đặc biệt những ơn chúng ta lãnh được nơi bàn tiệc Mình và Máu Chúa, không phải để chúng ta mang về cất giấu đi cho mình. Bao nhiêu tâm hồn đang đói khát ơn Chúa, không được diễm phúc ăn uống no say Mình và Máu Chúa như chúng ta, chúng ta có bổn phận phải đem chia sẻ ơn Chúa cho họ.

Chỉ cần nói tới đây thôi là ai cũng hiểu được, tại sao hôm nay Chúa sai tôi đi loan báo Tin-mừng lại không muốn cho tôi bận tâm đến vấn đề kinh tế, tài chánh và ẩm thực, tất nhiên Ngài không sai tôi đi chỉ trong chốc lát, công tác phải được thực hiện liên tục và kéo dài suốt cả đời tôi. Đã có ai trước tôi thực hiện nổi Lời Chúa dạy chưa? Thánh Nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu chỉ ở trong 4 bức tường của nhà Kín, không tiếp xúc với ngoài xã hội, nhưng chị nhận trách nhiệm được sai đi, chị đã đem được bao nhiệu tâm hồn trở lại, mà Giáo-hội đặt chị thánh làm bổn mạng các xứ truyền giáo ngang hàng thánh Phanxicô Xavier, người chiến sĩ Phúc âm lỗi lạc đã từng đặt chân lên mọi nẻo đường của cả một vùng Đông Nam Á rộng lớn. Thánh nữ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ truyền bá Phúc âm chỉ bằng lời cầu nguyện và sư hy sinh hãm mình mà thôi.

Nếu người Kitô hữu chúng ta phải sống giữa thế gian xô bồ, đầy những bon chen, cạnh tranh, không có môi trường thuận lợi để cầu nguyện và hy sinh hãm mình như Têrêxa, thì chúng ta rao giảng danh Chúa bằng gương sáng đời sống và cách ăn ở của chúng ta, như lời Chúa dậy: “Anh em hãy sống làm sao để mọi người nhìn thấy cách anh em ăn ở mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời”, những cách thế loan báo Tin-mừng như vậy không đòi hỏi chúng ta phải mang theo tiền bạc, luơng thực hay phải ăn mặc lịch sự (hai áo) làm gì. Một người sống bần hàn giữa chợ đời, mà sáng chói những đức tính khiêm tốn, thật thà, đạo đức thì có sức lôi cuốn được người ta trở về với Chúa gấp hơn cả ngàn lần những bài giảng hùng hồn mà rỗng tuếch.

Nói như thế không có nghĩa là, cách thế Chúa sai các môn đệ đi loan báo Tin-mừng xưa, hiểu theo nghĩa hẹp, các nhà truyền giáo của chúng ta ngày nay chẳng còn ai đem ra áp dụng nữa đâu. Tất cả những ai đã đọc cuốn NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO của Linh mục Nguyễn phúc Hậu nói về những sinh hoạt truyền giáo của người chiến sĩ Phúc âm ở vùng Năm-căn, Cà mau, một cánh đồng truyền giáo Mầu mỡ, phì nhiêu ngay trên đất nước Việt-nam thân yêu của chúng ta, đều phải công nhận rằng, Lời Chúa hôm nay vẫn còn được đem ra áp dụng từng nét. Sống trong thời kỳ kinh tế thị trường như ở xã hội Việt-nam chúng ta đang sống hiện nay, đối với những người chiến sĩ Phúc âm vùng Năm căn, Cà mau, Chúa vẫn chỉ thị: “Anh em không được mang gì đi đường, trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc, được đi dép, nhưng không mặc hai áo” còn họ thì không có gậy cầm tay, có khi dép cũng chẳng có để đi nữa, thì còn nói chi tới luơng thực, tiền bạc có đâu mà mang theo, nhưng lời Chúa vẫn được rao giảng rất là kỳ diệu, những người chiến sĩ ấy sống giữa đám dân nghèo, nhà ở cũng như nhà thờ làm toàn bằng lá dừa nứơc lụp xụp, đến nỗi nhìn nhà thờ, người ta có cảm tương đó là một Cái Chuồng thờ thì đúng hơn.

Trong khi đó Chúa cho tôi được sống trong một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về mọi mặt, hằng ngày tôi đã làm được những gì để hoàn thành nhiệm vụ của người được Chúa sai đi? đời sống của tôi có vì Phúc âm mà cải thiện được chút nào không? tôi có dùng đức tin như cây gậy Chúa trang bị cho để đi cho vững khỏi vấp ngã trước bao nhiêu thử thách của cuộc đời không? tôi có tận dụng được mọi ơn Chúa ban như cơm ăn, áo mặc, nhà ở cùng mọi tiện nghi của cuộc sống, như đôi dép giúp cho đôi chân tôi chống lại mọi chông gai trên đường đi, để tôi an tâm lo việc loan báo Tin-mừng không? hay ngược lại, tôi lại lợi dụng những ơn lành Chúa ban, làm gương xấu cho những người chung quanh, khiến cho người ta tìm đường xa lánh, không muốn trở về với Hội-thánh của Người.

Ngày nay nói tới Gandhi thì ai cũng biết ông là một vị Cứu tinh của dân tộc Ấn độ. Mặc dù là người theo Ấn giáo, nhưng ông rất cảm phục Chúa Giêsu, qua việc ông chăm chỉ đọc sách Tin-mừng hằng ngày, ông rất tâm đắc với Bài giảng trên núi, Chúa nói về tám mối phúc thật và lấy đó làm phương châm hành động cho mình. Nhờ đó mà ông quyết chọn một đường lối đấu tranh bất bạo động để cứu nguy cho nhân dân Aán độ. Thế rồi một hôm, ông muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Hội-thánh Công giáo, ông tìm tới một nhà thơ trong giờ thánh lễ để quan sát sinh hoạt của người Công giáo. Nhưng không may, ông vừa tới cửa định bước vào thì một người chức việc cản ông lại và nói:”Nếu ông muốn đến dự lễ thì xin ông hãy tìm đến một nhà thờ khác, nhà thờ này chỉ dành chongười da trắng thôi’ Nghe thế, ông lủi thủi bước ra, và từ đó không bao giờ ông nghĩ đến việc đi vào một nhà thờ nào nữa. Có lần ông phải cay đắng thốt lên: “Nếu như người Công giáo sống đúng như tinh thần Phúc âm của Chúa Giêsu, thì dân tộc của tôi bớt khổ biết mấy”

Nói đúng ra, không phải chỉ mình ông Gandhi mới có ý nghĩ ấy, mà nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng đã có lần lấy làm tiếc, vì thấy rằng, chỉ nội trong cộng đoàn người Công giáo nhỏ bé của chúng ta thôi, nhiều lần cũng có người phơi ra trước mặt mọi người cách ăn nết ở chẳng ra gì, khiến cho người ngoài hiểu sai về Tin-mừng của Đức Kitô. Họ công khai lớn tiếng thoá mạ, hạ nhục nhau ngay trước mặt những anh em luơng dân. Phải chi chúng ta phát huy được lối sống của người giáo dân thời các Tông đồ, dân chúng thời đó đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn các tín hữu đầu tiên, khi nhìn các Kitô hữu chung sống với nhau khiến họ phải thốt lên:Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô, đã ban ra cho chúng ta. Ngài nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là thấy anh em yêu thương nhau Quả thế cuộc sống huynh đệ của chúng ta chẳng những là dấu hiệu chứng tỏ tôi và bạn là người môn đệ Chúa, mà còn là một bài giảng sống động và hùng hồn nhất về Tin-mừng của Chúa.

Còn chần chừ gì nữa, ngay từ hôm nay, từ giậy phút này, chúng ta cùng nhau bắt tay vào việc ngay, thời gian khẩn trương lắm rồi, Chúa đang cần những chứng nhân cho Tin-mừng. Hãy gấp rút sửa lại mọi lệch lạc của đời sống để mở lối cho nhiều tâm hồn đang trên đường tìm về với Chúa và Hội-thánh của Người. Amen.

 

57. Chân dung người tông đồ - Martin Lê Hoàng Vũ.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu sai nhóm 12 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. Trước khi lên đường, ngoài việc ban quyền trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, Đức Giêsu còn đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các ông trong đời sống tông đồ. Đó là những điều Chúa đòi hỏi với từng người môn đệ qua mọi thời đại. Nếu dám sống theo những đòi hỏi ấy, chúng ta mới là môn đệ thật sự của Chúa. Vì ngày nay Chúa vẫn sai chúng ta ra đi vào đời với tư cách của người tông đồ.

Là môn đệ Đức Giêsu, mỗi người Kitô hữu phải sống theo những lời chỉ dạy của Chúa. Chỉ dẫn của Đức Giêsu cho các tông đồ cách đây hơn 2000 năm vẫn luôn hợp thời. Nhìn chung những đòi hỏi đó Chúa chỉ muốn các ông tin tưởng vào Ngài. Không cho mang bao bị, tiền bạc, lương thực, mặc hai áo, nghĩa là Ngài muốn người môn đệ phải sống tinh thần khó nghèo. Những thứ đó là nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Chúng chỉ tốt khi giúp con người đạt tới mục đích tốt. Không mang những thứ đo người môn đệ đỡ phải vướng bận lo lắng, vì đôi khi chúng còn chiếm cả thời gian dành cho Chúa của ngườI môn đệ. Một người lên đường mà hành trang gọn nhẹ như các tông đồ được Đức Giêsu chỉ dẫn thì thật là dễ di chuyen đến nhiều nơi. Người tông đồ có sống nghèo mới được tự do, thanh thản, không bị vật chất chi phốI, điều khiển. Người môn đệ nghèo vật chất nhưng rất giàu tấm lòng yêu mến. Càng nghèo người môn đệ càng dễ tín thác vao sự quan phòng của Chúa. Hơn nữa khi dám sống nghèo người tông đồ sẽ là bạn của người nghèo. Bởi vì Tin Mừng mà Đức Giêsu ủy thác cho Giáo Hội và cho mỗi người Kitô hữu là Tin Mừng cho những người nghèo khó, bị tù đay, đang sầu khổ, đang thiếu cơm ăn áo mặc và vô gia cư. Những người đó được xem là thành phần “thấp cổ bé miệng” trong xã hội, bị người đời khinh thường, nhưng lại được người tông đồ tiếp đón niềm nở.

Thật thế, dám sống theo những chỉ dẫn của Đức Giêsu, người tông đồ sẽ là con người tự do, tự mình suy nghĩ và hành động mà không lo sợ bị mất quyền lợi vật chất. Nếu cần họ sẵn sàng chịu mất tiền bạc và tất cả mọi sự để có được Chúa. Họ luôn ý thức rằng chỉ có Chúa là Cứu Cánh Tối Thượng của cuộc đời mình. Như vậy, dù Chúa có cử họ đi bất cứ nơi đâu, họ cũng hoàn toàn vâng theoThánh Ý Ngài. Mỗi khi gặp khó khăn thử thách xảy ra là dịp để họ boc lộ lòng yêu mến và tin tưởng vào Chúa.

Ngoài ra Chúa còn đòi hỏi các tông đồ phải có một thái độ kiên nhẫn, biết chịu đựng cả những gì mà xem ra mình không thể chấp nhận được. Có thể khi ra đi rao giảng Tin Mừng ngươi tông đồ sẽ bị người đời từ chối. Nhưng kiên nhẫn chờ đợi với lòng tin tưởng và làm hết mọi việc với tâm sức vào việc Chúa giao, không bao giờ buông xuôi hay chạy trốn việc khó. Biết chấp nhận thực tại bị chối từ người tông đồ sẽ ra đi rao giảng Tin Mừng trong niềm vui tươi phấn khởi. Dù có bị người đời tẩy chay và cô lập hoàn toàn vì lối sống “ngược dòng đời “ của mình, nhưng người tông đồ không cảm thấy trống vắng. Chúa không nhưng sai các ông ra đi, mà Ngài còn đi bên cạnh các ông trên đường sứ vụ. Chính Chúa sẽ lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của các ông.

“Khi anh em vào nhà nào làm được người ta đón tiếp thì ở lại cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em thì ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ’ Chỉ dẫn này cho thấy Chúa chỉ sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cưỡng bức, áp đặt người khác phải tin theo. Việc bây giờ các ông làm chỉ trông chờ vào bàn tay Chúa làm cho có kết quả mĩ mãn

Lời Chúa dạy các tông đồ năm xưa ngày nay vẫn đang thôi thúc mọi Kitô hữu. Chúa sai chúng ta ra đi đến với con người để sống như người anh em của mọi người. Dĩ nhiên không phải ai trong chúng ta cũng có hạnh phúc được đi đến những nơi xa xăm để rao giảng Tin Mừng như các thừa sai. Tuy nhiên sự ra đi của chúng ta của người Kitô hữu nằm ngay trong cuộc sống đức tin của mỗi người. Sự ra đi đó đặt vấn đề cho niềm tin của chúng ta khi chúng ta phải đương đầu những khó khăn, phải đối diện với những chọn lựa dứt khoát. Để chúng ta biết chọn lựa Chúa và thực hanh những đòi hỏi gay gắt của Tin Mừng. Chúng ta không chạy theo tiền tài, danh vọng, chức quyền mà phải tìm kiếm chính Chúa. Chúng ta chỉ có thể giới thiệu Tin Mừng của Chúa cho những người chung quanh bằng một đời sống khiem tốn, hiền lành và bác ái. Chúng ta sống khó nghèo qua việc chia sẻ vật chất, thăm hỏi. ủi an và kính trọng yêu thương tha nhân.

Lạy Chúa, Chúa đã đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Và Chúa còn chịu chết vì con người. Chúng con hiểu điều đó và hết lòng tin tưởng vào sứ mạng Chúa đã trao cho mỗi người chúng con là làm tông đồ giữa thời đại ngày nay. Xin cho chúng con biết giương cao những giá trị của Tin Mừng là hy sinh quen mình và yêu thương giữa một xã hộI ai cũng chạy theo hưởng thụ vật chất. Để nhđời sống của chúng con mà có them nhiều người nhận biết Chúa. Amen.

 

58. Đức Giêsu sai nhóm mười hai đi

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vu Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Đức Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai với hai mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi loan báo Tin Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi được Người chỉ định, Nhóm Mười Hai ở với Ngươi, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả hoạt động giảng dạy và tất cả các hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người (x. 1,38).

Đức Giêsu đang đi đường và giảng dạy các làng trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người.

2.- Bố cục

Bản văn có the chia thành hai phần:

1) Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):

a- Nhóm Mười Hai được giao phó sứ mạng (c. 7),

b- Giáo huấn của Đức Giêsu về hành trang (cc. 8-9),

c- Giáo huấn của Đức Giêsu về cách xử sự (cc. 10-11);

2) Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (6,12-13).

3.- Vài điểm chú giải

- Nhóm Mười Hai (7): Đời tông đồ là một cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều này được tác giả Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ “Nhóm Mười Hai” ở 7 điểm quan trọng. Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều đặn: từ khi Nhóm được thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm được nhắc đến ở mỗi chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:

1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức Giêsu “thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai đi rao giảng” (3,14). Và xa hơn: “Người thành lập Nhóm Mười Hai” (3,16).

2) Ở ch. 4: “Khi còn một mình Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn” (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.

3) Ở ch. 6: “Đức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai” (6,7). Trong TM Mc, từ ngữ “tông đồ” chỉ được dùng ở 6,30.

4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc bảo các môn đệ vài điều: “Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người” (9,35).

5) Ở ch. 10: Đức Giêsu loan báo Người sẽ chết và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng, còn nhưng kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (10,32).

6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã đi vào Giêrusalem: “Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sư, Người ra khỏi thành…, và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai” (11,11). Câu 11 là như lời dẫn nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh, chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những người tháp tùng Người.

7) Ở ch. 14 (tại Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội được nhắc tên cung là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười Hai được nêu lên như là những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn với Người.

Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải là một he thống các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ giả được đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc giả đi dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này với Đức Giêsu.

- Quyền trừ quỉ: Mc trình bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỉ).

- không được mang gì đi đường (8): Tình trạng thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách của công tác và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.

- chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn Mc có khuynh hướng chế giảm hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l’ (“không”) thành ’l’ (“ngoại trừ”). Hay là phải chăng vào thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài chế giảm như thế?

- bao bị: Từ Hy Lạp pêra là túi xách để đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.

- được đi dép (9): Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt dùng từ hypodêma, vật bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không trên các nẻo đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.

- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn là áo trong, mặc sát người.

- giũ bụi chân (11): Khi có nơi nào không đón tiếp mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành vi biểu tượng thôi, chứ không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những con người tại nơi ấy phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc giũ bụi chân khi trở lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành thiếu lòng hiếu khách thì không thuộc về Ít-ra-en chân chính.

- Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ làm vọng lại câu tóm về lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c. 13).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (7-11)

Đức Giêsu đã “gọi lại với mình” Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và xua trừ ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t; 1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ mạng đó cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường xuyên với Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng như Người, các ong phải truyền đạt với xác tín cao và vững chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể; quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận ra được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.

Chân lý hệ trọng này, các môn đệ phải loan báo không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải thấy được rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang theo cả, ngoại trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối sống của các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và phải ý thức về sứ mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn chốn ở có được, chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải mái hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ trong trong quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra một việc tách biệt quyết liệt, “giữa chúng ta, không còn liên hệ gì nữa!”. Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp.

* Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (12-13)

Giữa phần mô tả hoạt động của Nhóm Mười Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không phải là một chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai điều cốt yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.

+ Kết luan

Khi đọc đoạn văn trên đây, Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính mình. Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một số tiêu chuẩn xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào mọi thời đại.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Nhiệm vụ của người Kitô hữu hôm nay cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin Mừng và giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn được sứ mạng này; họ cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu (“ở với Người”; x. 3,14).

2. Người Kitô hữu không được chỉ giới hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về Triều Đai Thiên Chúa, mà còn phải nhận ra trong đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động để đưa lại sự giải thoát và niềm vui.

3. Làm chứng bằng lời nói là một khía cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết nếu việc làm chứng bằng lời nói không được phối hợp với việc làm chứng bằng hành động, bằng chính đời sống mình.

4. Người Kitô hữu luôn nhớ rằng mình là người được sai phái đi, nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa mình và phải trả lời về cách thực hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi loan báo Tin Mừng không phải là cơ hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của riêng mình.

 

59. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.

SAI NHÓM MƯỜI HAI ĐI RAO GIẢNG (6,7-13)

Mãi đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài (1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước ông.

Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã được khánh thành.

Điều đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy. Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).

Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!

Giống như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).

Đối với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình thuật rất cổ kính này.

 

home Mục lục Lưu trữ