Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 82

Tổng truy cập: 1366420

TÂM TÌNH

Tâm tình.

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy hai mẫu người:

. Mẫu thứ nhất là các luật sĩ: bề ngoài họ rất đạo đức: họ giữ luật chín chắn, họ đọc kinh nhiều và đọc thật dài. Vì thế họ được người ta kính trọng: ra ngoài đường ai gặp họ cũng kính chào, khi họ dự một buổi hội họp thì ai cũng nhường cho họ những chỗ danh dự nhất. Nhưng thực ra bên trong họ chẳng đạo đức chút nào: họ chỉ làm ra bộ đạo đức như thế để được người ta kính trọng và dâng cúng tiền bạc.

. Mẫu người thứ hai là người đàn bà góa: bề ngoài bà rất nghèo nàn, hèn hạ. Không ai tôn trọng bà, thậm chí chẳng thèm để ý tới bà. Nhưng tâm hồn bà rất cao quí: mặc dù nghèo nàn, bà cũng không tiếc lấy ra phần tiền tuy nhỏ nhưng rất cần thiết để dâng cúng vào đền thờ.

Như thế, bài Tin Mừng này đặt ra vấn đề hình thức và tâm tình. Đó là hai mặt của một thái độ. Nhưng mặt nào trọng hơn? Theo cách đánh giá của Chúa Giêsu thì mặt tâm tình trọng hơn mặt hình thức: Chúa đã gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy thái độ của bà góa và nhận xét: “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.

Cách đánh giá của Chúa Giêsu thật là đúng: bởi vì nếu có hình thức mà không có tâm tình thì cũng giống như có một cái đèn mà không có dầu không có điện, giống như có một chiếc xe gắn máy mà không có xăng, giống như có một cái xác mà không có hồn… tất cả sẽ vô ích, vô dụng.

. Một người giáo dân đeo ảnh Thánh Giá thật đẹp, ngày nào cũng dự lễ rước lễ… nhưng trong lòng không mến Chúa không yêu người… thì cũng đáng xếp vào loại giả hình như bọn luật sĩ trong Tin Mừng mà thôi.

. Một công nhân viên giỏi nhất phát biểu hùng biện, giỏi viết những bản báo cáo thành tích nghe rất kêu… nhưng làm việc thì lờ đờ, biếng nhác… thì chẳng ích lợi gì cho việc phát triển xã hội.

Cho nên cái tâm tình, cái thực chất, cái bên trong thì quan trọng và quí giá hơn cái hình thức, cái dáng vẻ bề ngoài. Trong việc sống đạo cũng vậy: đọc kinh, dự lễ… không quí giá, không quan trọng bằng tâm tình mến Chúa yêu người.

Nhưng từ nhận định rất đúng đắn, rất căn bản trên, có nhiều người đi đến chủ trương bất cần hình thức. Họ bảo rằng: “Đạo tại tâm”: sống đạo cốt là ở tâm hồn, chẳng cần đọc kinh, dự lễ, xưng tội gì hết.

. Một ông nọ, nhà ở sát bên nhà thờ nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Ông bảo “tôi thờ Chúa trong lòng”.

. Một cặp vợ chồng kia tuy đều có đạo nhưng cưới nhau chẳng có phép hôn phối chi hết. Họ bảo “chẳng cần đến hình thức bên ngoài”.

Có lẽ đôi khi chúng ta cũng có những ý nghĩ tương tự. Bây giờ xin đặt ra một số trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ xem sao:

. Trường hợp thứ nhất là chuyện làm đẹp, chưng diện: quần áo cốt yếu chỉ là để che thân, mặt mày tóc tai cốt yếu chỉ là đủ sạch sẽ thôi. Nhưng chúng ta đâu chỉ muốn cái cốt yếu đó, mà còn muốn sao cho đẹp, cho đúng thời trang nữa. Vì thế chúng ta chọn lựa màu áo, kiểu quần, kiểu tóc… đó là chưa kể đến phấn son, sơn móng tay móng chân nữa… Như thế có phải là chúng ta bất cần hình thức bên ngoài không?

. Trường hợp thứ hai là chuyện tình yêu: nếu thực sự yêu nhau chỉ cốt yêu trong lòng là đủ thì cần gì người ta phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải viết thư cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì phải âu yếm nhau?

Hai trường hợp như thế đủ cho chúng ta thấy rằng tuy hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. Chính hình thức biểu lộ tâm tình và nuôi dưỡng tâm tình. Những lời nói, những nụ cười biểu lộ cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười đó làm cho tình yêu giữa hai người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mặc dù coi trọng tâm tình hơn hình thức nhưng cũng không chủ trương bất cần hình thức. Vì thế, bà góa trong Tin Mừng này không phải chỉ có lòng đạo đức bên trong, bà còn biểu lộ lòng đạo đức ấy qua cử chỉ dâng cúng đồng tiền nhỏ mọn của bà trong hòm tiền.

Ngày nay không ít người chủ trương “Đạo tại tâm” và coi thường những hình thức đạo đức như đọc kinh cầu nguyện, dự lễ, dự các bí tích… Những suy nghĩ của chúng ta nãy giờ dựa vào bài Tin Mừng cho thấy đó chỉ là một thứ ngụy biện: ngụy biện của những kẻ ghét đạo và muốn phá đạo; ngụy biện của những người có đạo nhưng lười biếng thi hành những bổn phận đạo đức. Chúng ta đừng để thứ ngụy biện ấy ám ảnh tâm trí chúng ta và làm hại cho lòng đạo đức của chúng ta.

 

 

 

 

 

74. Đạo đức giả và quảng đại thật

(Giải thích và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)

 

1.- Ngữ cảnh

Giáo huấn của Đức Giêsu và lời nhắc đến các kinh sư đi với nhau, khiến chúng ta nhớ đến đoạn văn trước (Mc 12,35). Bản văn này là như bức tranh bộ đôi trong đó nổi rõ những nét tương phản. Các kinh sư khoe khoang và đạo đức giả bị chỉ trích trong đoạn văn này là hình ảnh ngược lại với hình ảnh người môn đệ của Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (12,38-40);

2) Câu truyện bà goá nghèo (12,41-44).

Hai phần này được liên kết với nhau bằng từ móc nối “bà góa” (cc. 40.42).

3.- Vài điểm chú giải

– Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa… thích… (38): Các lời cáo buộc của Đức Giêsu được nêu theo một mức độ trầm trọng tiệm tiến: xúng xính trong áo thụng, thích được chào và thích ghế danh dự. “Áo thụng” (HL. stolê) là áo choàng các kinh sư thường mặc để vận dụng trong một số trường hợp. Mt 23,5 trách là họ đã nối dài tua áo. Thật ra chính bộ áo cũng đã “thụng”, khi đi thì kéo lê sát đất. Cũng có thể đây là cử chỉ quấn mình vào trong áo khi cầu nguyện, khi tuyên một bản án hoặc khi giải gỡ các lời khấn. Dù thế nào, đây cũng là một lối khoe khoang áo xống, nhằm được tôn kính. “Ưa được chào hỏi” tại các nơi công cộng cũng là một tật xấu, cùng với tật “ưa chiếm chỗ danh dự” trong các hội đường hay các đám tiệc. Chỗ nhất trong hội đường là vị trí ở trước hòm chứa tôrah, chỗ này được dành cho những nhân vật cao trọng và các quan chức. Chỗ danh dự trong bữa tiệc là chỗ bên cạnh chủ nhà hoặc người khách đặc biệt.

– Họ nuốt hết tài sản của các bà goá (41): bản văn Hy Lạp viết là “nuốt trửng các nhà”. Vào thời ấy, các kinh sư có thể được cậy nhờ quản lý giúp số tài sản nhỏ nhoi của các bà goá. Nhờ đó, họ có thể trục lợi. Cũng có thể là họ tư vấn về pháp luật cho các bà góa rồi đòi một thù lao cắt cổ. Dưới mắt một số chuyên pháp lý và các ngôn sứ Cựu Ước, bóc lột bà goá, người ít được luật bảo vệ nhất (vì: 1) là phụ nữ; 2) đại diện cho tình trạng nghèo túng), là một tội đặc biệt đáng ghét (Xh 22,21tt; Đnl 27,19; Is 1,7.23; 10,2; Gr 7,6; 22,3; Tv 93/94,6), còn nâng đỡ cô nhi quả phụ theo gương Thiên Chúa (Đnl 10,18t; 24,17-22; 26,12t; G 29,13; 31,16) là một việc lành được kể ở hàng đầu.

– làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: x. Mt 6,5. Đức Giêsu không kết án việc cầu nguyện lâu giờ, nhưng kết án việc cầu nguyện để cho người ta thấy. Các kinh sư đã làm hỏng hành vi tôn giáo là cầu nguyện khi nối kết nó với thái độ khoe khoang kệch cỡm của họ.

– thùng tiền (41): Từ Hy Lạp gazophylakion (do từ ngữ Ba Tư gaza = kho tàng). Đây có thể là phòng tàng trữ của cải ở bên trong khuôn viên Đền Thờ; khuôn viên này, chỉ người Do Thái mới được vào. Trong căn phòng này, có đặt mười ba hòm đựng của dâng cúng. Theo 2 Mcb 36, vào thời vua Sêlêukhô IV, phòng này đầy ứ những của cải. Theo Phl. Gioxép (Chiến tranh Do Thái 6,282), vào năm 70 sau CG, khi Đền Thờ bị thiêu hủy, phòng này đã bị thiêu rụi cùng với vàng bạc châu báu, xiêm y, tiền bạc.

– Người quan sát xem (41): Đức Giêsu ngồi đó như một khán giả xem (etheôrei) cảnh sinh hoạt. Thật ra lối mô tả của Mc không rõ ràng: Trong khi Đức Giêsu ngồi đối diện với phòng tàng trữ của cải (gazophylakion), dân chúng ném tiền vào trong các hòm của dâng cúng (gazophylakion); mà dường như người ta không được phép ngồi ở đây, nhất là lại ngồi để xem như xem trình diễn!

– đám đông bỏ tiền: “Tiền” đây dịch từ Hy Lạp chalcos, “tiền đồng”, nhưng ở đây có nghĩa là “tiền bạc nói chung.

– một bà goá nghèo (42): Tác giả dùng từ chỉ số lượng mia (one) thay vì dùng tis (a certain), nhưng đấy là lối viết thông thường thời đó. Tuy vậy, hẳn là ngài cũng muốn lưu ý đến một sự cố đặc biệt (“một bà goá nghèo đến bỏ vào đó…”).

– hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc: Hai đồng tiền kẽm”, lepta (số ít: lepton), bằng một kodrantês; một kodrantês bằng ¼ as hoặc assarion; một assarion bằng 1/6 quan (một quan, denarius, là lương công nhật một người thợ).

– Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa…, bà này thì rút từ cái túng thiếu… (44): Ở đây không có một bài học luân lý nào được minh nhiên rút ra. Nhưng vì đã quen với giáo huấn của Thầy, hẳn các môn đệ Đức Giêsu có thể rút ra được nhiều bài học như: đừng phê phán ngưòi ta dựa vào dáng vẻ bề ngoài (x. Mc 12,40; Mt 23,27); những người quảng đại nhất cũng như những người đạo đức nhất không nhất thiết là những người đã tỏ ra như thế; chỉ một mình Thiên Chúa thấy trong nơi bí ẩn (Mt 6,4.6.18) và biết các cõi lòng (Lc 16,15; x. Cv 1,24; 15,8)…

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (38-40)

Giáo huấn của Đức Giêsu được chia thành một lời khuyến cáo mở đầu (c. 38b), một lời mô tả các kinh sư (cc. 38c-40b), và một lời kết đe dọa phán xét (c. 40c). Lời chỉ trích đầu tiên nhắm đến cao vọng diễn tả ra trong cố gắng tìm cho được dân chúng nhìn nhận. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng cách mặc những áo dài đại lễ và yêu cầu được người ta cung kính chào tại các quảng trường và được có những chỗ danh dự trong các cử hành tôn giáo và tại bữa tiệc. Đau xót hơn, đó là lời chỉ trích thứ hai liên hệ đến sự tham lam của các kinh sư. Lối sống của họ càng đáng trách hơn nữa khi họ nối kết hành vi bóc lột với việc cầu nguyện lâu dài và giả hình.

Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc tại cuộc xử án cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời (x. Mc 10,30).

* Câu truyện bà goá nghèo (41-44)

Khung cảnh Đền Thờ, phòng tàng trữ của cải, cùng với những người giàu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nổi bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà góa, một con người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Đức Giêsu thấy được tấm lòng của bà. Lời giáo huấn Ngài ban cho các môn đệ bắt đầu bằng câu “Thầy bảo thật (amên) anh em” cho thấy rằng Đức Giêsu ở trong thế có thể thật sự lượng định giá trị của lối xử sự của loài người. Không phải là nguyên sự tự do thanh thoát đối với của cải đã đưa lại giá trị cho hành vi dâng cúng, nhưng là tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua hành vi đó.

+ Kết luận

Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), và không bị đánh lừa bởi những dáng vẻ bề ngoài, mời gọi các môn đệ đừng để bị lừa bởi một bộ mặt đạo đức che đậy sự khoe khoang, tham lam và đạo đức giả, hoặc bởi vẻ không đáng kể của những hành vi bác ái do những người nghèo và những người thất học thực hiện. Mỗi người được mời gọi ý thức về sự mỏng dòn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí của kẻ khác.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Lời lẽ Đức Giêsu phê phán các kinh sư có thể có phần phóng đại. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân Chúa ở các cấp vẫn cảm thấy được mời gọi đánh giá lại phong cách, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng của mình khi làm các công việc phục vụ.

2. Sự lừa dối đã là đáng trách, nhưng càng đáng trách hơn nữa hành vi lừa dối bằng cách vận dụng những yếu tố liên hệ đến sự thánh thiện (như đọc kinh cầu nguyện, thánh lễ, viếng nhà thờ…) để che giấu một thực trạng tiêu cực.

3. Tấm gương bà góa mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng to lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng. “Của cho không bằng cách cho”!

4. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa kính trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương của bà góa, không những âm thầm kín đáo làm các hành vi đạo đức, mà còn san sàng giúp đỡ những người đang sống cảnh cô độc neo đơn.

 

 

 

 

 

75. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.

CHÚA GIÊSU VÀ GIỚI KINH SƯ (12,35-42)

 

Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị những người hướng dẫn tâm linh quá kiêu căng này. Họ là những người có uy tín trong dân Do Thái những thái độ của họ khiếm nhã. Chúa Giêsu lên án sự phô trương phù phiếm của giới “thượng lưu” này khi họ tìm sự ngưỡng mộ nơi dân chúng (38b-39). Chưa hết, “Họ giành giật tài sản của các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài” (40a). Như thế còn hệ tại hơn là thiếu khiêm tốn. Đó là thói đạo đức giả. Các vị lãnh đạo này không ngần ngại bóc lột những kẻ bần cùng cô thế. Những lời cầu nguyện lê thê của họ nhằm mục đích che đậy tội lỗi của họ, để phình lừa dân chúng. Ta thấy lời kết án của Chúa Giêsu có vẻ quá cứng rắn. Nhiều khi Chúa Giêsu cùng quan điểm với nhóm biệt phái và các thủ lãnh của họ là các kinh sư. Ta cũng đã có lần chứng kiến một số người trong họ thành tâm kiếm tìm Nước Thiên Chúa (12,28-34).

Nhưng nên nhớ rằng mãi 40 năm, Maccô mới viết những đoạn Tin Mừng này. Trong khoảng thời gian trôi qua đó, hình ảnh giới hữu trách Do Thái đã thay đổi. Khi thuật lời đả kích nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với ký lục, Maccô muốn cho độc giả của mình, là các Kitô hữu Rôma thấu đáo về não trạng lẫn hành vi của các thủ lãnh Israel sau khi họ đã bắt bớ Chúa Giêsu. Cuộc khẩu chiến giữa Chúa Giêsu và các kinh sư đã nổ ra ngay từ đầu cũng như sự thù nghịch ngày càng tăng giữa Giáo Hội Kitô giáo non trẻ và hội đường (Do Thái giáo) xảy ra trong những năm 80-90. Ở Luca (11,42-54), và nhất là ở Matthêu (23,13-32), sự phê phán gay gắt giới biệt phái và kinh sư diễn ra theo một tiến trình dễ chấp nhận và phù hợp hơn với lối viết Tin Mừng.

ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA (12,41-44)

Đây là hồi cuối thuật lại cảnh Chúa Giêsu ở Đền thờ. Một hồi thật cảm động. Maccô vừa mới phác họa hình ảnh tàn nhẫn của nhóm kinh sư (“Họ bóc lột của cải các bà góa”) (12,40a) xong, liền đưa ngay ra hình ảnh một bà góa rộng rãi đặc biệt. Hai hình ảnh tương phản hoàn toàn. Những từ “bà góa” nối kết hai đoạn văn thật tài tình.

Cảnh tượng diễn ra trong nơi thánh của Đền thờ, gần bên kho tàng. Đó không phải là nơi chứa tài sản đền thờ, mà là nơi cất chứa lễ vật các tín đồ dâng cúng (2V 12,10). Ở cuối phòng người ta đặt các hòm tiền. Những kẻ giàu có, chiếm phần lớn, bỏ vào đấy “các số tiền lớn” (c. 41b). Nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiến đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiền đến và bỏ vào đó 2 đồng xu” (x. 42). Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt củ nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tàn sản chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy Maccô mới nói: “Người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu (theo đơn vị tiền tệ Do Thái), một món tiền không nghĩa lý gì. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội này hầu qua cử chỉ khiêm tốn đó, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng (43-44). Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược này kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Còn gương nào đẹp hơn? Các bạn hữu Chúa Giêsu hẳn phải nhận ra, nơi góa phụ tuy cơ bần mà độ lượng hình ảnh của một “môn đệ” chân thực. Ta nên lưu ý đặc biệt đến sự thể trong Tin Mừng là Chúa Giêsu thường làm nổi bật đức tính của giới phụ nữ (Lc 10,38-42): Martha và Maria; Ga 4,1-42: người đàn bà Samari) cho các “ông” môn đệ thấy. Sau khi dạy dỗ các môn đệ về sự kiện đời thường này, Chúa Giêsu rời đền thờ (13,1) và Ngài không còn trả lời đó lần nào nữa.

 

 

 

 

 

76. Chú giải của Noel Quesson.

 

Đức Giêsu nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư

“Kinh Sư” là những nhà chuyên môn và những người giải đáp chính thức Kinh Thánh. Sau một thời gian dài học tập vào khoảng 40 tuổi, họ được công nhận thi hành chức vụ của họ và trở nên những người cố vấn chính thức trong những quyết định tư pháp. Đức Giêsu và các tông đồ đã không được đào tạo như thế.

Ngay từ đầu, các “Kinh Sư” luôn tỏ ra chống đối Đức Giêsu. Chỉ trong Tin Mừng Maccô, chúng ta đã thấy nhiều cuộc xung đột (Mc 2,6; 3,22; 7,1; 11,18). Ở đây, Đức Giêsu nghiêm chỉnh cảnh giác chúng ta. Đây là lần cuối cùng Người nói trước công chúng, khoảng vài tuần lễ trước khi Người bước vào cuộc thương khó và bị kết án bởi Thượng Hội đồng mà các Kinh sư thường chủ trì xét xử.

Matthêu đã quy tụ lại thành một diễn từ của Đức Giêsu về đề tài này: “Khốn cho các Kinh sư” (Mt 23). Sự hiểu biết không nhất thiết mang lại cho ta đức hạnh… và than ôi, kể cả sự hiểu biết tôn giáo cũng thế.

Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.

Vẫn còn những Kitô hữu bực tức vì Giáo Hội đang cố gắng gột bỏ mọi vẻ huy hoàng. Tuy vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng sự cố gắng đó dù chưa hoàn tất, nhưng hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu. Giáo Hội trong mọi thời đại; có nguy cơ rơi vào cám dỗ khủng khiếp của uy thế, đặc quyền những “vẻ bề ngoài sang trọng” những tước vị và những chỗ ngồi danh dự. Lạy Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng làm quen với một Giáo Hội, biết gột bỏ những danh dự, chấp nhận nghèo khó. Với các linh mục, biết sống như mọi người, không dành đặc quyền đặc lợi nào cả.

Tính cách Pharisêu mà Đức Giêsu lên án, đó là việc sử dụng những “dấu hiệu bề ngoài” để làm cho người khác nể trọng mình và được hưởng những đặc quyền. Ngày nay, có một phong trào tân Pharisêu cũng giả dối như thế, cốt làm tăng giá trị của mình bằng cách làm ra vẻ “thông thạo thời sự”, “giữ đúng thời trang” bằng cách theo nhưng “quan điểm tiến bộ nhất”, dù là những quan điểm rỗng tuếch.

Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ

Điều mà Đức Giêsu quở trách kinh sư thời ấy, đó là thái độ “khoa trương”, lòng “tham lam”, nếp sống “giả hình” của họ. Có lẽ họ đã đòi hỏi những khoản thù lao rất cao đối với những người đến hỏi ý kiến họ, và điều này rất nghiêm trọng vì họ được coi như những người đạo đức, cầu nguyện lâu giờ. Kẻ nào muốn loan truyền những đòi hỏi của Lời Chúa, cũng phải tỏ ra rất khắt khe với chính mình. Khi các Kitô hữu, hay phẩm trật Giáo Hội phạm những bất công xã hội thì đó là điều đặc biệt nghiêm trọng. Thiên Chúa nghe thấy tiếng kêu của những người nghèo khổ bất hạnh, Người ban “công lý” cho kẻ bị áp bức, nâng đỡ góa phụ và cô nhi (Tv 1,45).

Kẻ nào muốn thuộc phe Chúa, thì nhờ cầu nguyện, phải đặc biệt trở nên liêm khiết và công bằng.

Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn

Cộng đoàn của Đức Kitô là Giáo Hội phải nghe lời cảnh cáo này: Người sẽ càng khắt khe hơn với chúng ta, khi chúng ta càng được nhận lãnh nhiều. Chúng ta không thể lừa dối Thiên Chúa! Người thấy tận đáy các sự việc và những sự giả dối của chúng ta sẽ bị lột trần trước mắt Người.

Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao

Maccô là một nhà quay phim tài tình. Chúng ta hãy thưởng thức sự chính xác của thiên phóng sự này. Đức Giêsu đã chọn một điểm quan sát tốt, ngồi trên các bậc thềm, đối diện với các hòm tiền. Người nhìn xem. Đám đông những người hành hương diễn qua trước mặt Người. Chúng ta hãy ghi nhận lòng nhân ái của Đức Giêsu: Người chú ý đến những đám đông, chú ý đến những gì xảy ra chung quanh Người. Chúng ta có biết chú ý không? Chúng ta có biết ngắm nhìn không?

Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.

Vào thời Đức Giêsu cũng như ngày nay các tầng lớp xã hội luôn có những mức lợi tức rất chênh lệch. Điền chủ, thương gia, luật gia, giới tư tế thường là giàu có và là sở hữu chủ tại Giê-ru-sa-lem những dinh thự với tất cả tiện nghi và xa hoa: Nhiều gian phòng, hồ tắm, sân vườn, cột nhà cẩm thạch… Trong khu ở riêng của các người quyền quý một khu đẹp và sang trọng! Còn những người nghèo thì chạy sống từng ngày và ở trong “khu vực thấp hèn” tại Giêrusalem.

Nếu lưu ý đến bản văn của Maccô, chúng ta sẽ thấy ông đã viết “một số” người giàu… nhiều người giàu, đã cống hiến ‘những số tiền lớn’ như vậy, họ cũng thiết thân làm nghĩa vụ đối với Đền Thánh.

Ở đây Maccô không chú thích gì cả, nhưng ông vẫn không thể không so sánh:

Cũng có một bà góa nghèo đến.

Bây giờ nhà quay phim cống hiến cho ta một cận cảnh:

Người đàn bà nghèo khó bước tới gương mặt khiêm tốn giữa các khuôn mặt khác. Không có một chỗ danh dự, không danh tiếng gì. Một người không quen biết. Đó là một người đàn bà, trong thế giới mà người đàn ông thống trị, một góa phụ trong thế giới mà chỉ có người đàn ông mới có quyền được luật pháp công nhận. Một người đàn bà nghèo, không lợi tức. Đức Giêsu đưa mắt nhìn bà.

Bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.

Thật là trái ngược với “số tiền lớn” của những kẻ khác!

Tôi muốn nhìn ngắm hai đồng tiền nhỏ này, hai đồng xu đút giấu kín trong lòng bàn tay bà.

Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.

Cách tính tiền thật là kỳ cục? Bà này đã cho “nhiều hơn” tất cả mọi người. Đức Giêsu đã nói thế. Người làm đảo lộn mọi hệ thống xã hội của chúng ta. Người coi thường hệ thống phân loại, những giai cấp xã hội của chúng ta, với những bậc thang phân biệt rõ ràng mà người ta phải leo lên để “thăng tiến”. Ở bậc thang xã hội “cao”, thì giàu có được người khác trọng nể; mặc y phục lộng lẫy, được người ta chào hỏi công cộng, có chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc, tất cả những điều này không làm Chúa Giêsu quan tâm đến. Còn chúng ta thì sao?

Phản ứng của chúng ta trước trang Tin Mừng này như thế nào? Hay nó vẫn làm chúng ta thản nhiên, không chút bận tâm?

Trong một xã hội dồi dào của cải mà chúng ta đang sống chúng ta có thái độ nào đối với một số nghề nghiệp dành cho người nghèo? Có những người nào mà tôi khinh khi vì chủng tộc, vì môi trường xã hội, nghề nghiệp hay sự nghèo khó của họ không?

Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản

Người ta không thể đánh lừa Chúa được. Người thấy tận đáy lòng chúng ta. Bà này đã cho “nhiều hơn”, vì bà đã cho “tất cả”. Muốn biết giá trị của một quà tặng, ta không nên chỉ nhìn vào đồ vật đó, mà còn, phải để ý đến người cho. Thiên Chúa đã nhìn như thế. Người nhìn thấy những gì còn lại trong két sắt hay trong trương mục ngân hàng.

Chúng ta cần suy niệm hai từ mà Đức Giêsu đã dùng. Đó là hai ý niệm đơn giản: ‘Sự túng nghèo’ là tình trạng của người không có đủ yếu tố cần thiết để sống; ‘Điều cần thiết’ là những gì tương xứng cho đời sống bình thường. ‘Của cải thừa’ là những gì chúng ta có nhiều hơn cái cần thiết.

Chắc chắn đó không phải là những giá trị toán học cố định. Vì ta có thể thắc mắc: “Sự cần thiết sẽ dừng lại ở mức nào?”. “Sự dư thừa” bắt đầu từ đâu? Nhưng thực tế khiến chúng ta phải nhìn nhận rằng có quá nhiều khác biệt giữa điều kiện sống của con người trong cùng một xứ sở nhất là giữa quốc gia này với quốc gia khác. Với những đồ vứt bỏ trong thùng rác ở New York, người ta cũng có thể cứu sống cho một thành phố với số dân tương đương thuộc thế giới thứ ba. Những phí phạm của chúng ta kêu lên tới Thiên Chúa, và trước mặt người nghèo. Vào thời đó, Đức Giêsu đã dám tố cáo một số người sống quá ‘dư thừa’, còn ngày nay Người sẽ phải nói sao đây?

Tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.

Đức Giêsu không nhìn sự việc như chúng ta. Chính Người cũng là một kẻ nghèo.

Người đã nhìn ngắm và thấy tâm hồn cho đi tất cả. Chúa để mắt trên người nghèo. Họ đang làm vui lòng Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã ca ngợi người đàn bà góa nghèo, cống hiến hai đồng tiền nhỏ. Lạy Chúa, Chúa nghĩ gì về lòng quảng đại của con? Tôi có “cho đi” không? Bao nhiêu? Như thế nào? Ngày nay ta có thể cho rằng người đàn bà này có lý do chính đáng để giữ lại số tiền đó và để cho kẻ khác “cống hiến” thôi! Nhưng Thánh Vinh Sơn đã nói: May thay cho những người nghèo, vì vẫn còn có những người nghèo ‘biết cho’.

Trước khi khởi sự bước vào cuộc thụ khổ, Đức Giêsu cho chúng ta biết bí mật cái chết của Người sắp đến gần: Người đàn bà này là “hình tượng” của Thiên Chúa, Đấng trao ban tất cả, tất cả những gì Người có để sống! “Thiên Chúa dù giàu có, đã trở nên khó nghèo để làm giàu cho chúng ta”. Thánh Phaolô đã dám nói như vậy (2 Cr 8,9). Tình yêu không biết tính toán. Chúa là tình yêu. Người đã không tính toán, Người đã cho đi tất cả. Nếu Giáo Hội nguyên thủy đã ghi lại đoạn này bề ngoài xem ra không quan trọng ngay trước cuộc thương khó, là vì Giáo Hội đã tự nhủ: Vâng, Đức Giêsu đã tự nhận ra chính Người nơi người đàn bà này, vì bà đã “cho đi tất cả”.

 

 

 

 

 

 

77. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI THỰC

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Nếu phải tránh lối mị dân dễ dãi, cho rằng những người có thân phận khiêm tốn đương nhiên sẵn sàng đối với Vương Quốc Thiên Chúa, thì cũng không nên quả quyết rằng bao người giàu có là bấy nhiêu công dân của vương quốc ma quỷ. Có những kẻ nghèo nàn nhưng lòng đầy ham hố, tham lam keo kiệt, cũng như có lắm kẻ giàu sang nhưng rộng rãi, biết thi ân và lòng chẳng dính bén. Sự “nghèo khó Tin mừng” không tất nhiên nằm nơi chỗ thiếu thốn của cải, nhưng nằm nơi thái độ từ bỏ, không xem của cải làm cùng đích để lao lực lao tâm, nhưng coi như là phương tiện để phụng sự Thiên Chúa và kẻ khác, và sẵn sàng chịu mất khi cần. Tuy nhiên, sự từ bỏ nơi kẻ giàu vẫn khó hơn nơi người ít của. Hãy cám ơn Chúa vì đã cho xảy đến bao nhiêu hoàn cảnh khiến của cải chúng ta ít đi để ta dễ hướng tâm về của đích thật, sự bảo đảm đích thật là Người.

2. Đoạn Tin Mừng nói về việc bà góa dâng hiến tất cả tài sản của bà tuy ngắn gọn nhưng rất thâm thúy, thật đáng chúng ta lưu tâm. Qua cử chỉ này, như người ta thường nói, bà đã đặt mình vào tình trạng hoàn toàn khó nghèo trước mặt Thiên Chúa. Bà hết mình phó thác cho Thiên Chúa. Những người giàu có cho một phần gia sản của họ; còn bà góa này, bà cho tất cả gia sản của bà và từ đó bà đặt mình dưới sự quan phòng của Chúa. Điều đó có nghĩa là bà đặt tất cả trong niềm hy vọng vào Chúa, cơm ăn cũng như cuộc sống của bà.

3. Thâm sâu hơn nữa, cử chỉ của bà nói rằng bà đi tới Thiên Chúa như tới một kẻ mà bà hết lòng yêu mến và bà tin chắc Ngài có dư khả năng lo lắng cho bà. Bà không chỉ đi thi hành bổn phận tầm thường là đóng góp vào quỹ Đền thờ. Bà không chỉ muốn thi hành một nhiệm vụ. Bà đi quá cả phạm vi bổn phận, phạm vi chu toàn Lề luật. Bà không nghĩ tới vấn đề chu toàn Lề luật, nhưng nghĩ rằng Thiên Chúa rất xứng để bà dâng cho Ngài tất cả và đồng thời chờ đợi nơi Ngài tất cả.

 

 

 

 

 

78. Chú giải mục vụ của William Barclay.

LUẬT TÔN GIÁO SAI LẦM (12,37-40)

 

Có thể câu đầu của đoạn sách này cùng đi với đoạn này chứ không phải với đoạn trước như bản Kinh Thánh của chúng ta. Cách phân chia câu trong Tân Ước chỉ bắt đầu vào thế kỷ thứ 16 do Stephanus. Người ta kể rằng ông ta đã làm công việc ấy trong khi cỡi ngựa đi từ nhà đến xưởng in của mình. Do đó, cách phân chia không phải luôn thích đáng và dường như đây là một trong nhiều phân đoạn cần phải điều chỉnh lại. Nói cách đúng hơn là dân chúng thích nghe Chúa Giêsu tố giác các Kinh sư hơn là thích nghe một đoạn lý luận thần học. Có nhiều người vẫn bị thu hút bởi những lời công kích.

Trong đoạn này, Chúa Giêsu nêu một loạt nhiều lời tố cáo các Kinh sư. Họ thích mặc áo dài để đi dạo. Bên phương Đông, mặc áo dài quét đất là dấu hiệu của một người khả kính. Và đây là loại áo mà kẻ mặc nó không thể tỏ ra hấp tấp, cũng không thể mặc để làm việc, nên đó là dấu hiệu của kẻ nhàn nhã, khả kính. Có thể câu này cũng có một nghĩa khác. Theo sách Dân số 15,38, người Do Thái mang thêm tua áo ở vạt áo ngoài của họ. Các tua áo ấy nhắc cho họ nhớ rằng họ là dân Chúa. Rất có thể các Kinh sư này mặc những tua áo quá khổ để chứng tỏ địa vị cao trọng đặc biệt của họ. Dầu sao, thì họ cũng thích ăn mặc như vậy để tự hào về vinh dự mà thiên hạ dành cho mình.

Họ thích được người ta chào mình giữa chợ cách kính trọng. Chính danh hiệu Rabbi có nghĩa là “Đại nhân của tôi”. Được chào như vậy thì lòng cao ngạo khoe khoang của họ được thỏa mãn.

Họ thích ngồi chỗ cao nhất trong hội đường. Trong hội đường có một chiếc ghế danh dự đặt trước cái rương nơi đựng các sách kinh, đối diện với dân chúng là chỗ ngồi dành cho những người đặc biệt ngồi. Lợi điểm của chỗ này là ai ngồi đây thì không bao giờ bị khuất cả, mọi người trong cộng đoàn đều nhìn thấy.

Họ thích ngồi chỗ cao trong các đám tiệc. Trong đám tiệc vị trí chỗ ngồi được sắp xếp kỹ lưỡng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải chủ nhà, chỗ thứ hai là bên trái và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra ngay thứ bậc của một người căn cứ vào chỗ ngồi sắp xếp cho họ trong một bữa tiệc.

Họ nuốt tài sản của các bà góa. Đây là một tố cáo nặng lời. Josephus vốn là một người Pharisêu, nói về một số lần âm mưu trong lịch sử dân Do Thái rằng “Người Pharisêu tự đánh giá rất cao về sự hiểu biết chính xác luật lệ tổ tiên họ và phô trương cho người ta thấy họ (người Pharisêu) được Thiên Chúa mến chuộng. Họ dụ dỗ “Nhiều phụ nữ trong các âm mưu tạo phản” của họ. Ý niệm ẩn sâu việc này là, theo quy định, một Kinh sư không hề nhận tiền công khi giảng dạy. Ông ta phải dạy dỗ miễn phí và vẫn làm một nghề bằng lao động chân tay để mưu sinh. Nhưng các Kinh sư có ý giàn cảnh để mọi người hiểu rằng không có bổn phận nào được kể là cao quý, được ưu đãi hơn bổn phận cung cấp nhu cầu cho một Rabbi, việc cung cấp ấy chắc chắn sẽ đem lại cho người làm việc đó một chỗ cao trên thiên đàng. Trong các vấn đề liên hệ đến tôn giáo, có một sự kiện đáng buồn là phụ nữ vẫn thường bị các tay lang băm tôn giáo bắt nạt và dường như các Kinh sư và người Pharisêu ở đây cũng lợi dụng những người chất phác để được cung cấp mọi sự như vậy.

Việc các Kinh sư và người Pharisêu hay cầu nguyện dài dòng thì ai ai cũng rõ. Người ta bảo rằng những bài cầu nguyện ấy không nhắm dâng lên cho Chúa mà nhằm phô trương trước mặt người ta. Họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách mà ai cũng thấy rằng họ là những người ngoan đạo.

Đây là một trong những đoạn sách cho thấy Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm khắc, cảnh cáo chúng ta về ba điểm:

1/ Cảnh cáo việc muốn được chức vị cao. Ngày nay điều này hãy còn đúng, nhiều những nhận một chức vụ trong Hội Thánh, vì nghĩ nhờ có công lao mà mình xứng đáng được chức vị ấy chứ không phải vì muốn phục vụ Chúa và anh em trong Chúa một cách bất vị kỷ. Người ta vẫn còn xem chức vụ trong Hội Thánh như một đặc quyền chứ không phải như một trọng trách.

2/ Cảnh cáo việc muốn được coi trọng. Hầu hết mọi người đều muốn được người khác kính trọng mình. Thế nhưng sự kiện căn bản trong Kitô giáo, là người ta phải tự giấu mình đi, chứ không phải tự tôn mình lên.có chuyện kể rằng ngày xưa có một tu sĩ nhân đức, thánh thiện, được giao cho chức tu viện trưởng một tu viện nọ. Ông ta khiêm hạ đến nỗi khi mới đến, người ta sai ông đi rửa chén trong nhà bếp và chẳng có ai nhận ra ông. Chẳng phản đối nửa lời, ông ta đi làm bổn phận rửa chén đĩa và nhiều việc tay chân khác. Sau một thời gian rất lâu, khi vị Giám Mục Giáo Phận đến, người ta mới phát giác ra sự sai lầm của mình, và người tu sĩ khiêm hạ nọ được đặt làm địa vị thật sự của ông ta. Một người bước vào chức vụ, đòi sự kính trọng dành cho mình thì đã bắt đầu sai lầm, và nếu không chịu thay đổi, sẽ chẳng bao giờ trở thành tôi tớ của Chúa và của anh em mình theo đúng nghĩa.

3/ Cảnh cáo việc buôn thần bán thánh. Ngày nay, thiên hạ vẫn có thể lợi dụng tôn giáo để tìm tư lợi, để được thăng quan tiến chức. Câu chuyện trên đây là một lời cảnh cáo những ai trong Hội Thánh về những gì họ mong có thể lợi dụng chứ không nhằm đầu tư công sức, tài sản nào đó.

CỦA DÂNG NHIỀU NHẤT (12,41-44)

Giữa sân dành cho người ngoại và sân dành cho phụ nữ có Cửa Đẹp. Chúa Giêsu đã đến ngồi yên lặng tại đó sau khi đã tranh luận gay gắt trong sân dành cho người ngoại và các hành lang. trong sân dành cho phụ nữ, có 13 thùng thu tiền mà theo hình dạng của chúng, người ta gọi là “kèn đồng”. Mỗi thùng nhằm một việc phục vụ riêng, chẳng hạn để nhận tiền mua lúa mì, rượu hoặc dầu cho việc tế lễ. Những thùng này đựng của đóng góp cho chi phí tế lễ hàng ngày và chi phí của Đền Thờ. Nhiều người dâng vào đó những số tiền rất lớn. Bấy giờ, có một bà góa nghèo đến, bà ta bỏ vào hai đồng tiền nhỏ. Đó là đồng gọi là Lépton, nghĩa đen là một đồng mỏng, là đồng có giá trị nhỏ nhất trong các đồng tiền. Vậy mà Chúa Giêsu nói bà đã đóng góp nhiều hơn tất cả mọi người khác, vì những người khác chỉ bỏ vào đó số tiền họ đã dành dụm được khá dễ dàng và vẫn còn giữ lại khá nhiều, trong khi quả phụ này đã bỏ vào tất cả những gì bà có. Đây là bài học về việc dâng cúng.

1/ Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực, thì phải là một của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Lòng hào hiệp chân chính là dâng hiến cho đến khi nào chính mình phải chịu tổn thiệt. Phải xét lại xem việc dâng hiến cho công việc của Chúa, chúng ta có chút hy sinh nào không. Có rất ít người muốn sẵn sàng dâng nhiều hơn nữa cho công việc của Chúa. Có thể dấu hiệu về sự suy thoái của Hội Thánh và về sự thất bại của Kitô giáo, là của dâng không còn là tự nguyện nữa và tín hữu sẽ không dâng gì cả nếu không được lại một điều gì. Nhiều người trong chúng ta khi đọc chuyện này không khỏi cảm thấy xấu hổ!

2/ Dâng hiến trọn vẹn. Bà góa này có thể giữ lại một đồng tiền. Một đồng tiền nhỏ thì cũng chẳng bao nhiêu, nhưng dầu sao nó cùng còn một chút gì, dù vậy bà ta đã dâng hết những gì bà ta có. Ở đây có một chân lý biểu tượng quan trọng. Có một điều bi thảm trong đời sống chúng ta là thường vẫn còn một phần nào đó trong đời sống không được chúng ta dâng cho Chúa. Dù sao chúng ta vẫn còn giữ lại một chút gì đó. Chúng ta ít khi chịu tiến đến chỗ thực hiện hy sinh và vâng phục trọn vẹn.

3/ Điều vô cùng lạ lùng và đẹp đẽ, ấy là người được Tân Ước và Chúa Giêsu nêu lên cho lịch sử như một gương mẫu về lòng hào hiệp, lại là một người chỉ dâng có hai đồng tiền nhỏ, bằng một phần tư xu. Chúng ta có thể cảm nhận chúng ta không có gì nhiều trong lãnh vực của dâng vật chất. Nhưng nếu chúng ta sẵn lòng dâng hết những gì mình có cho Chúa, Ngài sẽ dùng làm được nhiều việc quá sức tưởng tượng của chúng ta.

 

 

 

 

 

79. Hai bà goá – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.

Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ.

Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nghèo nàn nhưng bà đem tất cả số tiền mình có, hai đồng tiền kẽm là những gì bà có để nuôi sống mình. Bà dâng vào đền thờ giữa đám đông nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác.

Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của mình và gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.

Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì. Cho cái mình đang cần mới là quý. Và cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa. Và chính Chúa đã lên tiếng ca ngợi các bà. Chúa khen bà góa đã cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó. Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà.

Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào đền thờ, nhưng Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác.

Có khi chúng ta ca ngợi một người chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao, đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng.

Có khi chúng ta chê một người vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực. Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài, và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen. Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận. Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa. Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy.

Điều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ. Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa. (Mana).

Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.

Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.

Yêu mến thì phải cho. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng.Xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, thật tức cười. Nhưng với Chúa Giêsu hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh lại nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng. Giá trị của việc dâng cúng, việc bác ái không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. MẹTêrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”. Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Chính lúc cho đi là lúc lãnh nhận. Câu chuyện “Một ly sữa” như một chứng từ minh họa cho chân lý ấy.

Trước đây, có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học. Một hôm cậu không có được một đồng bạc dính túi mà bụng thì đói.

Cậu quyết định sẽ đến xin ăn tại căn nhà gần đó. Tuy nhiên, khi một cô gái trong nhà ra mở cửa thì cậu ngại quá nên thay vì xin ăn, cậu xin một ly nước lã! Cô gái nhìn thấy dáng vẻ của cậu thì biết rằng cậu đang đói, nên đem cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống chậm rãi, rồi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu tiền?” Cô gái cười nhẹ và trả lời: “Cậu chẳng phải trả gì cả. Mẹ chúng tôi dạy rằng không bao giờ nhận tiền công khi làm một hành vi tử tế!” Cậu bé nói: “Vậy thế thì… tôi hết lòng cám ơn cô.”

Khi cậu rời ngôi nhà ấy thì chẳng những cậu cảm thấy thân thể mình khỏe mạnh hơn, mà lòng tin vào Thiên Chúa và con người cũng tăng mạnh thêm lên. Cậu từng nghĩ rằng cuộc đời mình khổ cực quá nên nhiều lần có ý muốn bỏ học.

Nhiều năm sau, cô gái ấy trở thành một phụ nữ và mắc bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ gần như bó tay. Cuối cùng họ gửi cô đến một thành phố lớn để mong tìm những chuyên viên chữa trị căn bệnh lạ của cô. Bác sĩ Howard Kelly được mời đến để chẩn bệnh. Khi nghe nói đến tên thành phố cũ của mình, mắt ông ánh lên một cách lạ lùng. Ông đứng dậy ngay để xuống phòng khám. Trong chiếc áo trắng của bác sĩ, ông đến gặp và nhận ra cô ngay. Ông trở về phòng khám và quyết tâm chữa cứu người phụ nữ ấy cho bằng được. Kể từ ngày hôm đó, ông nghiên cứu và theo dõi kỹ tình trạng sức khoẻ của cô. Sau những ngày cam go, căn bệnh đã thua cuộc.

Bác sĩ yêu cầu phòng tài chánh chuyển hoá đơn tính tiền viện phí của cô để cho ông phê trước. Ông nhìn vào tờ hóa đơn, rồi ghi vài chữ bên lề trước khi gửi đến cho cô. Cô rất sợ phải mở tờ hóa đơn ấy ra, vì cô biết rằng cô sẽ trả món nợ ấy suốt cả đời mình. Cuối cùng, cô cũng phải nhìn xuống hoá đơn và dừng lại để ý đến hàng chữ bên lề. Cô đọc thấy: “Đã thanh toán đầy đủ bằng một ly sữa!” Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.

Mắt cô đẫm lệ vì vui mừng và từ trái tim ngập tràn hạnh phúc vươn lên lời nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa! Chính Tình Yêu của Chúa đã lan truyền sang quả tim và bàn tay của con người.”

Cậu bé ngày xưa được tặng một ly sữa trong cơn đói đã trở thành Tiến Sĩ y khoa Howard Kelly, ông đã từng là một bác sĩ lỗi lạc tài ba. Năm 1895 chính ông là người sáng lập Johns Hopkins Division of Gynecologic Oncology (Phân khoa Ung Thư Phụ Sản) tại Đại Học Johns Hopkins, trường Đại Học đầu tiên của Hoa Kỳ dành cho việc nghiên cứu y khoa, được thiết lập năm 1876, tại Baltimore, Maryland.

Bạn, có bao giờ trong cơn đói bạn đã nhận được một hành vi tử tế, và bạn đã đền đáp thế nào với cuộc đời và con người đã tử tế với bạn? Hoặc bạn đã và sẽ làm gì cho một ai đó trong nỗi đói khát tinh thần hay vật chất của một người thân thương hoặc tha nhân Chúa đang gửi đến trong đời?

 

 

 

 

 

80. Bà già bán rau – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi!

Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã đàn ông, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

Gã liếc xuống nhìn xuống những mớ rau rồi đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Rồi phóng xe nhanh. Hắn nghĩ, mình thương người thì ai thương mình. Tiếng vọng của bà cụ vẫn còn đó.

Lại có một cô gái nghe bà cụ mời mua rau. Rau như thế thì heo cũng không thèm ăn, nói chi người. Tiếng chát chua phát ra từ miệng cô.

Rồi có một người đàn ông khác đi đến, nghe thấy thế, liền hỏi giá bán rau, và mua hết số rau của bà già, nhưng cũng không quên dặn rằng: cho tôi gửi, khi về sẽ ghé lấy.

Ít hôm sau, người đàn ông ghé lại chỗ bà cụ bán rau. Người ta đang bàn tán về bà.

Anh hỏi có chuyện gì vậy, bà cụ bán rau đâu rồi?

Họ trả lời: Tội nghiệp bà cụ, già cả rồi, vậy mà hôm nọ có người mua rau rồi gửi lại, bà cố ngồi chờ để chủ đến lấy rau nhưng chẳng thấy họ đâu cả. Hôm đó trời lại mưa dữ dội suốt ngày, bà cụ cứ ngồi chờ đợi hoài trong giá rét. Vì lạnh quá bà già chịu không nổi, nên ngã bệnh và đã qua đời. (sưu tầm).

Câu truyện thật cảm động về cảnh nghèo của cụ bà. Tuổi già, đáng lẽ bà được nghỉ ngơi sống an nhàn bên đoàn con cháu. Vậy mà bà vẫn phải tần tảo bán rau kiếm sống qua ngày. Cảnh nghèo của bà thật cảm thương.

Đọc chuyện ai cũng cảm phục thái độ sống của bà. Bà không thất hứa cho dù mưa gió bà vẫn chờ đợi để trao tận tay những bó rau đã bán. Có lẽ đây cũng là một bà góa quá nghèo. Bà sống nghèo và chân thành. Bà giữ chữ tín nên đã chết trong mưa rét.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay kể chuyện hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.

Thời Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, vị ngôn sứ được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó, Êlia gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Bà góa có tấm lòng quảng đại nên Chúa đã chúc phúc cho bà: “Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán”.

Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, nghèo nàn. Bà đem hai đồng tiền kẽm là tất cả những gì bà có và dâng vào Đền thờ. Rất nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa quan sát và khen bà góa đã bỏ nhiều hơn ai hết.

Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng tất cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.

Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng đáng quý. Cho cái mình đang cần mới là thật quý. Cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều.

Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.

Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào Đền thờ, thế mà Chúa chẳng khen ai. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Của dâng cúng của bà góa, xét về số lượng chẳng có là bao, nhưng về chất lượng lại đong đầy đức tin, đức cậy và đức mến.Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu giúp ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Lắm khi ta cứ theo hình dáng bề ngoài, theo y phục, theo tiền của mà đánh giá. Chuộng hình thức hơn nội dung. Thích thành tích hơn thực chất.

Thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là chất lượng sản phẩm. Hàng hóa thực phẩm giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Nhiều khi làm điều tốt cho ai, ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân. Ta cảm thấy buồn, đau khổ khi bị chê, tự mãn khi được người khác khen.

Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với trọn tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là quà tặng quý hóa nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Theo số lượng thì một phần tư đồng xu là quá ít ỏi. Có thể hai đồng đồng kẽm mua được một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Bà góa cũng không sợ bị chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận mình thấp hèn thua kém người khác. Nhưng với Chúa Giêsu, hai đồng tiền nhỏ của bà lại nhiều hơn hết. Không phải số lượng việc làm hay tiền của dâng cúng mà Thiên Chúa yêu thích, nhưng là một tấm lòng thuộc trọn vẹn về Người.

Thánh Maccô mô tả sự tương phản: các Kinh sư xúng xính trong bộ áo thụng, bà goá đơn sơ nghèo nàn. Bà góa không lo lắng cho chính mình mà chỉ hướng về Thiên Chúa. Bà dâng cúng tất cả những gì đang có vào đền thờ. Bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự. Bà thật là người thành tâm, thiện chí. Các Kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì muốn có danh lợi và địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu mong được kính trọng chào hỏi, muốn ngồi chỗ danh dự nhất, lo kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Các Kinh sư chỉ nghĩ đến mình và tận dụng mọi sự, mọi người và ngay cả việc thờ phượng Thiên Chúa để làm giàu cho riêng mình.

Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.

Lắm người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp. Có những người nghèo khó nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khổ nhưng rất quảng đại.

Nhiều người giàu tiền giàu của nhưng lại rất nghèo vì họ không có gì để cho người khác. Họ nghèo lòng nhân ái, nghèo sự cảm thông và nghèo lòng trắc ẩn. Ngược lại, có những người rất nghèo vật chất nhưng lại thật giàu có vì họ luôn có gì đó để sẻ chia. Họ giàu lòng nhân ái, giàu lòng vị tha, giàu tình thương mến.

Mẹ Têrêxa kể lại một câu chuyện. Một ngày nọ, mẹ đi xuống phố và một người ăn mày đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêxa, mọi người đều cho mẹ tiền. Tôi cũng muốn cho mẹ tiền. Hôm nay, suốt cả ngày, tôi chỉ có được ba mươi xu. Tôi muốn cho mẹ số tiền ấy”.

Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “Nếu tôi lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu tôi không lấy, tôi sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương. Vì thế tôi đưa tay ra để lấy số tiền ấy. Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêxa”.

Mẹ Têrêxa nói tiếp: “Đối với người đàn ông nghèo này, phải ngồi suốt cả ngày để chỉ xin được ba mươi xu. Đẹp biết bao, ba mươi xu như thế là một món tiền nhỏ, và có thể tôi chẳng mua được gì nhưng vì anh ta đã cho nó và tôi đã lấy nó, nó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương. Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.

Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả. Mẹ Têrêxa nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống quảng đại với Chúa và với tha nhân. Amen.

 

 

 

 

 

81. Chuyện sang, hèn – Trầm Thiên Thu

 

Người Việt thường dùng cách nói: Giàu sang và nghèo hèn. “Giàu” thường kèm theo “sang”, còn “nghèo” thường kèm theo “hèn”. Nhưng thực ra có khi “giàu” mà không “sang”, hoặc “nghèo” mà không “hèn”.

Chắc hẳn không ai muốn nghèo, và càng chắc chắn hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng vậy, ai cũng muốn mình giàu và sang. Nhưng người chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”. Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó không hề sống hèn; còn người giàu luôn được coi là sang, nhưng chưa hẳn đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!

Người ta nói vui: “Đi xe lẹ hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn đi xe”. Chưa chắc ai hơn ai! Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng:

Chớ thấy áo rách mà cười

Những giống gà nòi lông nó lơ thơ

Ở đời, người ta không chỉ “đi” bằng đôi chân mà còn phải “đi” bằng cái đầu. Hơn thua nhau là “cách đi”.

Một hôm, ông Êlia đi Xarépta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1V17:11). Bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17:12). Nhưng ông Êlia liền nói: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V 17:13). Rồi ông nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).

Bà góa ấy đi và làm như ông Êlia nói, không hề đắn đo hoặc so hơn tính thiệt. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn trọn lòng yêu thương và bác ái.

Cấp độ yêu thương đó mới là bác ái – bình thường thì chúng ta chỉ ở mức bố thí (cho để tránh bị quấy rầy) hoặc công bằng (dư thì cho, thậm chí chỉ là đồ thừa). Bác ái cho cái mà mình vẫn cần, đó là cấp độ yêu thương cao nhất. Những người sống bác ái thực sự mới đúng là thánh nhân!

Thiên Chúa là nguồn sống và nguồn yêu thương: “Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Chính Ngài “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có và sang trọng. Thế còn chúng ta thì sao?

Tình yêu của Ngài là thế đấy, Thánh Tâm Chúa Giêsu là vậy đó, theo cách gọi mới của ngày nay là Lòng Chúa Thương Xót. Tất cả vẫn chỉ là một. Vâng, chính Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10), cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài.

Thánh Phaolô minh định: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Chẳng vậy, “Ngài đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành” (Dt 9:26a).

Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vào kỳ kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9:28b).

Những người trông đợi Đức Kitô giáng lâm là ai? Đó là những người tín thác vào Chúa, ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, mà người có đức tin thì phải yêu thương tha nhân, nhưng yêu tha nhân không phải yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương những người khốn cùng trong xã hội, yêu bằng hành động thực tế chứ không yêu bằng lời nói suông. Đó là thể hiện đức tin, là thực hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội Công giáo!

Trong một lần giảng dạy, Đức Giêsu nói: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Đọc câu này của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta nghĩ Ngài nói người khác chứ mình không liên quan. Lầm to. Ngài nói thẳng với mỗi chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa? Chúng ta không có vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, người ngoài khó có thể nhận ra.

Người xưa thường mặc khăn đóng và áo dài, nhất là người có chức có quyền, nhưng họ có hai loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài), một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài). Áo gì kỳ vậy, và để làm gì?

Khi đứng trước vua chúa hoặc ông quan lớn hơn mình, họ mặc áo-dài-vạt-trước-ngắn. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy, chịu “lép vế”, chịu luồn cúi,… Nhưng khi đứng trước đám dân đen, họ mặc áo-dài-vạt-sau-ngắn. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh vang, hống hách, thị uy, truyền lệnh, hét ra lửa,…

Mỗi chúng ta cũng thường có hai loại áo ấy để… “tùy cơ ứng biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!

Vào Đền Thờ hôm đó, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma.

Thấy vậy, Ngài liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó lọt tai! Nhưng lại hoàn toàn đúng, vì “mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12:44).

Có nhiều người trong chúng ta vẫn ảo tưỏng đi làm từ thiện hoặc làm những việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng đôi khi chỉ là “chiếc áo tàng hình”. Lời Chúa hôm nay khiến chúng ta phải tự minh định lại động lực thúc đẩy mình hành động.

Đáng lưu ý là website CWN ngày 29-10-2012 đưa một tin ngắn về việc Đức TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết thư gởi các linh mục thuộc giáo phận của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục thân mến, các bí tích không được cử hành để lấy tiền. Thương mại hóa sự thánh thiêng là buôn thần bán thánh (practice of simony). Đó là tội lỗi”. Giám mục cương quyết như vậy mới đúng là chủ chăn đích thực của Chúa, vì lợi ích cho Chúa và dân Chúa.

Đó là một trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “xét mình” nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô đến thế gian lần thứ hai để xét xử!

Lạy Thiên Chúa, chúng con cúi đầu và đấm ngực mà xin lỗi Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Con Chúa là sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi đau những con người nhỏ bé nhất hằng ngày ở bên cạnh chúng con, bằng cách mở rộng tấm lòng và mở rộng đôi tay để sáng danh Chúa chứ không vì danh tiếng của chúng con, để cứu các linh hồn, và để đền tội riêng của chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

82. Đồng tiền bà góa nghèo

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)

 

Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện về lòng quảng đại của người ăn xin. Vào một ngày nọ, mẹ đi bộ xuống các con đường thăm sóc những người vô gia cư thì gặp được một người ăn xin chạy đến nói với mẹ rằng: “Thưa mẹ Têrêsa, nhiều người đưa tiền cho mẹ để giúp đỡ những người nghèo đói, và con cũng muốn đưa cho mẹ số tiền này. Cả ngày hôm nay, con chỉ xin được 30 cents, con xin đưa cho mẹ”. Mẹ suy nghĩ trong giây lát, rồi nói: “Nếu tôi nhận 30 cents của ông thì ông có gì để ăn tối nay, và nếu tôi từ chối thì ông rất buồn”. Sau đó, mẹ Têrêsa đón nhận món quà của ông, mẹ nhìn thấy gương mặt của ông ta rất vui vẻ và phấn khởi chưa bao giờ mẹ gặp một người nào có thái độ vui mừng như vậy.

Người ăn xin này rất vui khi được góp một phần nhỏ bé của mình khi trao món tiền nhỏ bé của ông ta cho mẹ Têrêsa, điều này có lẽ khác với cách suy nghĩ của nhiều người hôm nay. Một người ăn xin lại cho đi cái mình xin từ người khác. Với cuộc sống cơm áo gạo tiền, chúng ta hiếm thấy có những người cho đi chính cái mình đang cần để nuôi thân. Xã hội ngày nay đang biến con người ta chạy theo đồng tiền, hưởng thụ và danh vọng thì đâu đó cũng có những con người cao thượng và lòng quảng đại với những người kém may mắn hơn mình. Trong thời đại nào cũng có kẻ giàu người nghèo; người tốt kẻ xấu, người lương thiện kẻ bất lương; người thật kẻ giả dối. Câu chuyện của bà góa là đại diện cho tầng lớp nghèo nhưng lại có một tấm lòng quảng đại. Bà được Chúa Giêsu khen ngợi là người dâng cúng nhiều nhất trong số đám đông người giàu bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ, bởi vì bà cho đi tất cả những gì bà có, bà đang cần. Chúa Giêsu nhìn đến tấm lòng của bà hơn là số tiền bà bỏ vào.

Có lẽ, điều này đi ngược lại với con mắt của đám đông, họ coi việc bà góa bỏ hai đồng tiền có đáng là bao so với họ, họ nghĩ việc làm của họ có công đức trước mặt Chúa, nhưng trong con mắt của Chúa Giêsu thì bà là người bỏ nhiều nhất. Ngài gọi các tông đồ đến để giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của việc dâng cúng và việc làm bác ái của dân chúng. Trong số đám đông đó có cả các kinh sư, họ là người bị Chúa Giêsu lên án bởi cách sống giả tạo, họ mặc bộ áo thụng xúng xính, thích người ta chào hỏi nơi công cộng, chiếm chỗ nhất trong đám tiệc, nuốt tiền của các bà góa nhẹ dạ, làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ sẽ bị kết án nghiêm trọng hơn.

Đối chiếu với những gì Chúa Giêsu lên án các kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay, tôi nhìn thấy bóng dáng mình trong số đám đông này chăng! Và đây có phải là điều nghịch lý với cách suy nghĩ của chúng ta hiện nay không? Chúng ta có cảm thấy đau khi bị Chúa đụng chạm nơi thẳm sâu của lòng tham lam tiền bạc, chức quyền, và của hố sâu của tội lỗi bởi dục vọng, ích kỷ, mưu mô và tính toán của chúng ta không?

Tôi thường sống theo cách đánh giá bởi người chung hơn là kính sợ Chúa nhìn về mình. Theo cách đáng giá con người của người đời bảo tôi là người có công đức trước mặt Chúa, vì tôi dâng cúng cho nhà Chúa nhiều, tôi làm việc bác cho người nghèo, đọc kinh dự lễ đầy đủ và biết bao nhiêu công trạng khác, tôi đã và đang làm, tôi được ghi tên đứng đầu trong hàng ghế danh dự trong nhà thờ, được khắc tên trên tường, được mọi người tôn vinh công đức trước công đoàn. Điều này không có gì sai, đó là cách đánh giá theo số lượng về tiền cải, công sức và vật chất, nhưng tất cả những điều đó chưa đủ, bởi vì cách tôi ban tặng chỉ là cái dư thừa, tôi làm để được người khác đánh giá và nhìn nhận, chứ không phải vì lòng mến, thì nó chẳng có công trạng gì trước mặt Chúa, mà nhiều lần Chúa đã cảnh cáo bọn biệt phái:” Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng lại xa Ta.” Chúa nói những người giàu có chỉ cho cái dư thừa, mà họ đem bỏ vào vào đó, còn người đàn bà góa bỏ vào đó tất cả những gì bà có, ngay cả khi bà đang túng thiếu, bà cần cái để nuôi thân. Tiêu chuẩn đánh giá của Giêsu dường như đại diện cho tiêu chuẩn của Thiên Chúa, đó là, không phải qua số lượng tiền mà là tính cách toàn thể của những gì được dâng và tương quan của những gì được dâng đối với người dâng cúng. Giêsu nói rằng, bà đã “bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” như là cách ám chỉ việc tích trữ kho tàng trên trời. Một người ăn xin cho mẹ Têsêsa 30 cent, mà ông ta xin được cả ngày giữa trời năng so với một nhà giàu cho 300 đô. Chắc chắn mẹ Têrêsa vẫn quý và trân trọng với 30 cent của người ăn xin này.

Đối với Chúa Giêsu, Ngài cần tấm lòng hơn của lễ. Vì của lễ chúng ta chẳng mang lại gì cho Chúa, nhưng tấm lòng đó để biết chia sẻ với anh em đồng loại. Đó là giới luật yêu thương. “Kính Chúa yêu người.” Ngài cần chúng ta làm điều đó với con mắt thánh thiện thì mới có thể nhìn ra giá trị của lòng bác ái khi ta cho đi, chính là sự trân trọng và tình yêu thương. Việc làm nhỏ bé của bà góa nghèo hôm nay có thể là một bài học cao quý cho mọi người chúng ta biết cho đi mà không tính toán, biết làm việc mà không cần đền đáp.

Tóm lại, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bà góa này, để dạy chúng ta cách đánh giá và nhìn nhận về việc dâng cúng tiền của cho Giáo hội cũng như trong công việc bác ái chúng ta làm. Hãy làm vì danh Chúa, chứ đừng làm vì sáng danh mình, muốn được ghi danh và người đời ca tụng, nó giống như vỏ chấu cuốn đi và chẳng mang lại lợi ích cho phần rỗi linh hồn. Lòng bác ái chỉ có giá trị đích thực khi con tim ta thuộc về Trái Tim của Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

83. Giá trị thực

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Nhiều người dâng cúng tiền vào trong đền thờ. Đức Kitô ngồi đó quan sát họ. Trong số đó nhiều người giầu có cho những món tiền to; còn bà nghèo này cho gì mà khiến Đức Kitô vừa suy nghĩ lại lên tiếng làm đề tài giáo huấn cho các môn đệ. Rất khiếm có hành động của con người Đức Kitô mượn làm đề tài hướng dẫn, giáo dục, các tông đồ nhưng bà nghèo này đã làm được việc quan trọng đó. Bà đã dâng cúng thứ gì vào Đền thờ khiến Đức Kitô cho đó là quan trọng? Thưa bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm có giá trị một xu bạc.

Xã hội chúng ta thường quan niệm người dâng cúng nhiều tiền vào đền thờ là người hảo tâm vì đã cho nhiều và kẻ cho ít hơn thì ít hảo tâm hơn. Đại đa số định giá trị trên số lượng tiền bạc dâng cúng mà ít quan tâm đến phẩm chất của tấm lòng chân thành người dâng cúng. Điều này không có gì sai trái vì xã hội chúng ta sống ảnh hưởng, lệ thuộc rất nhiều vào đồng tiền. Không có nó mọi sinh hoạt trong xã hội bị đình trệ và cuộc sống hàng ngày cũng gặp khó khăn. Đức Kitô không ngụ ý chê trách nghĩa cử bác ái cao đẹp của người giầu có dâng cúng tiền vào đền thờ Ngài đưa ra nhận xét về tấm lòng của những người làm công việc bác ái. Chúng ta chú trọng vào số lượng vật chất dâng cúng, Ngài chú trọng vào tấm lòng của người dâng cúng. Bởi vì không phải tất cả mọi hành động, cử chỉ bác ái đều đến từ con tim yêu mến, đầy tình thương. Nhiều hành động bác ái thúc đẩy bởi hoàn cảnh và ảnh hưởng bởi suy tính của khối óc hơn là đến từ con tim yêu mến.

Đối với Đức Kitô chân giá trị của việc bác ái không được đo lường bằng số lượng vật chất dâng cúng mà đo bằng tấm lòng chân thành phát xuất tự con tim. Vật chất có giá trị vì con người tạo giá trị cho nó trong khi hành động bác ái thúc đẩy bởi con tim chân thành luôn phảng phất tình thương và lòng mến. Hành động đến từ con tim chân thành luôn mang hai giá trị tuyệt vởi thương và mến. Đức Kitô ca ngợi hành động bác ái của bà nghèo khó vì hành động đó đến từ con tim yêu mến, chân thành. Bà dâng cúng chỉ trị giá một xu nhưng đó là tất cả những gì bà có thể cho. Dù có muốn cho hơn nữa cũng không thể vì bà không còn gì để cho. Thực ra bà đã cho tất cả những gì bà có trong khi những người giầu có kia chỉ cho một phần của để dành được. Điều khác biệt nằm ở chỗ cho tất cả, không sót lại và cho một phần của dư để dành. Như thế hành động của bà đến từ tận trong con tim sâu thẳm vả cho tận tình; trong khi hành động của những người giầu có kia rất có thể đến từ con tim nhưng họ không cho tận tình. Nói cách khác người giầu có cho nhưng vẫn còn tính toán lo cho ngày mai, bà nghèo khó cho luôn cả ngày mai, những gì nuôi sống tương lai không được giữ lại nhưng mang cho. Có thể nói bả cho cả tương lai đời mình.

Bà không mặc cảm vì sống nghèo. Bà cũng không lo lắng về phần thưởng nhận lại từ việc bác ái. Bà chi biết cho mà không mong nhận trong khi người giầu có cho món tiền lớn nhận tiếng khen của đại chúng. Vì cho đi tất cả những gì mình có bà trở nên dại khùng trước cách lí luận của xã hội nhưng trước mắt Đức Kitô bà là người khôn ngoan biết đặt tương lai mình vào tình yêu Thiên Chúa.

Cách định giá việc làm của Đức Kitô không đặt nặng vào cho nhiều hay ít và cho thứ gì nhưng Ngài chú trọng vào việc làm thúc đẩy bởi con tim. Việc làm đến từ con tim luôn được Ngài cổ võ, khuyến khích. Bà nghèo được ngợi khen vì việc làm của bà thúc đẩy bởi con tim và làm với tâm lòng khiêm nhu.

 

 

 

 

 

84.  Vay dầu – Lm. Vũ Đình Tường

 

Vay dầu là việc rất thường trong giới nông dân. Dầu dùng đốt đèn không mua nhiều. Một năm đi chợ vài lần, mỗi lần mua một lít, dùng hết lần sau đi chợ mua tiếp. Nhà mua hai lít vừa có dầu dùng quanh năm lại có dầu dư dự trữ coi như là giầu, thuộc giới trung lưu.

Gia đình nghèo thường tối thắp đèn mới biết là hết dầu. Trường hợp khẩn cấp như thế mẹ sai con mang cái chai vay mượn dầu, đốt tạm, qua đêm, khi nào ra phố chợ mua dầu về trả lại. Không may nhà kia cũng hết dầu, đành phải sang nhà khác mượn tạm. Dân quê không phải chỉ vay dầu mà đôi khi còn vay cả mỡ, nước mắm, muối. Sau này tình trạng nghèo đói khổ sở hơn nên có thêm tình trạng vay gạo. Không mấy ai vay đường, cafe hay rượu vì chúng thuộc vào hàng xa xỉ, hàng ăn chơi. Thiếu thì chịu khó nhịn, đi vay sợ thiên hạ chê cười. Thiếu ăn uống đã thấy khổ; thiếu ánh sáng, sống trong tối tăm, xem ra khổ sở hơn.

Dầu đốt đèn mang lại ánh sáng cho cả nhà, mặc dù lu mờ nhưng đủ soi sáng trong một vùng giới hạn nào đó. Ánh sáng đèn dầu mang lại tượng trưng cho sự khôn ngoan, ánh sáng trong tâm hồn. Gọi là ơn khôn ngoan vì ơn đó dẫn tâm hồn đến với Chúa. Ơn khôn ngoan soi sáng cho biết tâm hồn ta khao khát Chúa và chỉ trong Chúa linh hồn mới no thoả. Để tâm hồn no thoả không gì bằng sống vâng phục thánh ý Chúa vì thánh ý luôn hướng dẫn ta tới điều thiện hảo. Có thiện hảo là có niềm vui. Niềm vui có được vì tâm hồn bình an, hoan lạc. Tâm hồn an vui no thoả vì được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, không còn đói khát chi.

Ơn khôn ngoan cần cho cả xã hội lẫn Giáo Hội. Ngoài xã hội ơn khôn ngoan giúp ta sống công chính, việc phải làm, điều phải tránh. Ơn khôn ngoan giúp suy tính hơn thiệt và biết chọn lựa điều tốt lành, ngay cả việc bảo vệ công lí.

Ơn khôn ngoan trong Giáo Hội giúp ta tiến trên đàng nhân đức, đàng lành thánh. Ơn khôn ngoan còn giúp ta biết vững lòng cậy trông vào Chúa khi hoạn nạn, tìm ủi an trong đau yếu bệnh tật, phó thác khi đối diện với gian nan, thất bại trên trường đời. Quan trọng nhất là ơn khôn ngoan giúp ta biết dâng lời cảm tạ khi thành công, mạnh khoẻ, cũng như khi gian nan, khốn khó. Nên nhớ mọi ơn đều do Chúa ban, ngay cả sức khoẻ, sự sống. Không dâng lời cảm tạ là sống vô ơn. Gặp gian khó luôn phó thác, không than phiền, phàn nàn nhưng kết hợp đau khổ đời ta với đau khổ thập giá Đức Kitô để cùng chia sẻ chén đắng với Ngài.

Phúc âm nhắc đến hai nhóm người cùng có chung mục đích là dự tiệc cưới, cùng chịu chung hoàn cảnh, chờ chàng rể đến trễ. Năm cô được liệt vào sổ khôn ngoan vì khi đi mang đèn có dầu kèm theo; năm cô liệt vào số khờ dại vì khi đi chuẩn bị mang đèn mà không mang dầu. Dầu cạn, các cô không biết tìm đâu ra nên bị loại, không được tham dự tiệc cưới. Hình ảnh đèn sáng trong tay trái nghịch hình ảnh cầm đèn hết dầu, u mê, tối tăm. Phải chăng hình ảnh đêm tối gắn liền với thất bại. Lấy gì sưởi ấm, soi sáng lúc mây mù che phủ cuộc đời. Thiếu ánh sáng sao biết đường thoát nạn khi cuộc đời gặp hoạn nạn, lúc gian nan. Mặc dù đèn hết dầu vô dựng mà vẫn phải cầm đèn không thể quẳng nó đi. Đèn hết dầu không giúp ích chi còn trở nên tai vạ, mang kè kè bên mình.

Họ chạy đến kêu cầu cứu, chị em bạn xin lỗi không thể giúp. Hãy lo liệu cách khác thì tốt hơn. Không tin tưởng vào Chúa lúc loài người lắc đầu, bó tay chạy vào đâu. Rơi vào tình trạng của các cô khờ dại, nửa đêm hết dầu. Người có ơn khôn ngoan chạy đến cùng Thiên Chúa nhận ơn trợ lực. Nhờ soi sáng, hướng dẫn, đong đầy dầu vào tâm hồn.

Mọi tư tưởng hành động dẫn ta xa Chúa đều không phải do ơn khôn ngoan soi sáng. Bởi vì tư tưởng đó dẫn đến đường cụt, đường cùng, không lối thoát khi gặp nguy biết kêu cầu, chạy đâu tìm nơi nương tựa. Ai cũng có ngày phải chết, tránh không được. Ngày buồn phiền đó sớm muộn gì cũng tới nhưng kẻ tin vào Chúa được Chúa biến ngày đó thành ngày vui hội ngộ. Ngày niềm tin sáng tỏ, ngày hy vọng được toại nguyện.

Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người (1Tx 4,14).

Vậy anh em hãy dùng lời đó mà an ủi nhau khi người thân ra đi. Chúng ta cũng xin ơn khôn ngoan, biết chuẩn bị cho tương lai như năm cô khôn ngoan, mang đèn có kèm theo dầu, vì chúng ta không biết ngày giờ nào đèn của mình sẽ tắt.

 

 

 

 

 

85. Để “của cho” thành lễ dâng đẹp lòng Chúa

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

 

HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần tương ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và giới bà góa nghèo như sau: Trước hết, Đức Giêsu khiển trách thói đạo đức giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói xấu như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư danh, tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng đạo đức của một bà góa nghèo, biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền Thờ. Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức Giêsu đánh giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.

CHÚ THÍCH:

– C 38: + “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư”: Đức Giêsu cảnh giác dân chúng coi chừng kẻo bị lây nhiễm các thói xấu của các kinh sư hay luật sĩ. + xúng xính trong bộ áo thụng: Áo thụng là loại áo choàng dài chấm đất mà các tư tế thường xử dụng khi làm việc tế tự. Người Do thái thường tỏ lòng tôn kính đối với các tư tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo này để tỏ ra mình có lòng đạo đức và cũng mong được dân chúng kính trọng như vậy. Đây là thói xấu kiêu ngạo, tự cao tự đại (x. Mt 23,5). + thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Người Do thái hay chào hỏi các kinh sư, là những người giải thích Kinh Thánh tại các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh hiệu “ráp-bi” có nghĩa là “đại nhân của tôi”, được dùng để xưng hô khi nói chuyện với các kinh sư. Vì muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông thích đi đi lại lại ở nơi có nhiều người để được thiên hạ bái chào. Đây là thói xấu ham mê danh vọng.

– C 39-40: + chiếm ghế danh dự trong hội đường: Tại mỗi hội đường Do thái đều có một chiếc ghế danh dự đặt trước tủ đựng kinh sách. Đối diện với cộng đoàn là chỗ dành cho những bậc vị vọng. Ai ngồi ở đây thì không bị che khuất và mọi người trong hội đường có thể nhìn thấy họ. Các kinh sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế danh dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền. + thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc: Tại đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ ngồi được xếp đặt rõ ràng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải gia chủ. Chỗ thứ hai là bên trái, và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra thứ bậc của người khách, căn cứ vào chỗ ngồi được gia chủ sắp xếp cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết tài sản của các bà góa: Các bà góa thường thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được xếp vào hạng người cần được quan tâm giúp đỡ (x. Đnl 24,17.19). Mỗi khi bị bắt nạt chèn ép, các bà góa thường cậy nhờ các kinh sư bênh vực. Đây là cơ hội thuận tiện để một số phần tử xấu trong hàng ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện cho. + làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc các kinh sư và người biệt phái hay cầu nguyện dài dòng thì ai cũng rõ. Người ta bảo rằng: Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên Thiên Chúa tâm tình yêu mến mà chỉ nhằm phô trương công đức trước mặt người đời. Do đó, họ cố tình cầu nguyện tại ngã ba đường, nơi mà người ta dễ thấy mà ca tụng lòng đạo đức của họ. + họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn: Luật Môsê coi việc xử tệ với các người cô thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng tội và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc (x. Xh 22,21-23). Đức Giêsu cho biết: Những hành vi này của các kinh sư chỉ là hình thức đạo đức giả và vụ lợi, nên họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày tận thế.

– C 41-42: + Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa sân dành cho dân ngoại và sân dành cho phụ nữ là cửa Đẹp. Đức Giêsu đã đến ngồi tại đó sau khi đã tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và tại hành lang Đền Thờ. Trong sân dành cho phụ nữ có đặt mười ba thùng đựng tiền của dân chúng tự nguyện đóng góp, dùng để làm bánh tế lễ, mua dầu đèn và các chi phí khác.+ bà góa nghèo: Một thân phận đáng thương vì bị cô thế cô thân không nơi nương tựa, nhất là còn nghèo tiền bạc vật chất. + hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma: Đây là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo khó cùng cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma là nhằm giúp các độc giả La-Hy thời bấy giờ dễ hiểu hơn. Ở đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự tương phản giữa hai số tiền dâng cúng của hạng người giàu và kẻ nghèo hèn.

– C 43-44: + Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều hơn ai hết là theo cách đánh giá của Đức Giêsu khi xét theo tỷ lệ giữa số tiền bà dâng cúng với tài sản của bà. Bà đã dâng ngay cả những cái cần cho cuợc sống hằng ngày, giống như lời Đức Chúa nói với ngôn sứ Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông xức dầu phong Đa-vít lên làm vua thay thế vua Sa-un: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 15,7). + mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa: Của dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, vì “của nhiều lòng ít”. + còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình: Bà “của ít lòng nhiều”: Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy sinh bản thân nên đã tăng giá trị lên nhiều lần.

CÂU HỎI:

1) Đức Giêsu đã quở trách bọn kinh sư và biệt phái về các thói xấu nào?

2) Người đánh giá thế nào về hai đồng tiền kẽm mà bà góa nghèo đã dâng trong Đền thờ? Tại sao?

SỐNG LỜI CHÚA

LỜI CHÚA: Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).

CÂU CHUYỆN:

1) Tránh làm việc bác ái để tìm hư danh:

Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tự nguyện đóng góp số tiền một triệu đồng. Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi vào sau buổi họp mặt hôm đó để mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất nhiều. Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân xin lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người khác. Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra phong bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó mỗi lần nghĩ tới là bà lại cảm thấy nuối tiếc số tiền đã lỡ ủng hộ cho đồng bào bị thiên tai lũ lụt ngoài dự tính kia.

2) Gã bán thịt và lão ăn mày:

Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi ăn xin bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng thịt nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi thịt thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt. Cuối cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ ăn hết miếng bánh đã được ám khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi trả tiền. Bấy giờ lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải là thịt”. Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra là thuộc về miếng thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả tiền”. Hai người cự cãi không ai chịu thua ai. Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa cứu xét. Quan tòa liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà phát ra một tiếng “keng”. Rồi quan toà phán quyết cho hai người như sau: “Lão ăn mày được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra từ đồng tiền của lão ăn mày”.

3) Cái chết của cô gái bán diêm nghèo khó:

Vào một buổi tối mùa thu, nhà văn Anderson đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một bao nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Con bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì?” – “Chú tên Anderson, và chú làm nghề này”. Nhà văn vừa nói vừa khoa tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé không hiểu, tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đến đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ đã đến lúc ông phải đi xa.

Nhiều tháng trôi qua, Anderson dường như đã quên lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ trở lại Copenhague và ông chợt nhớ con bé bán diêm, nên đã ghé mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm để tặng. Tuy nhiên người chủ tiệm bên đường đã cho ông biết con bé bán diêm đã chết rồi: Ngày đầu năm, người ta thấy nó nằm chết cóng bên vệ đường. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều là khi chết, khuôn mặt nó vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một ai đó. Anderson đứng chết lặng. Người chủ tiệm nói tiếp: “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó tên Anderson, vì trên quản bút có viết hàng chữ “tặng chú Anderson”.

Câu chuyện cảm động trên là một kỷ niệm buồn trong cuộc đời của nhà văn Anderson. Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện về người đàn bà góa nghèo trong Tin Mừng Marcô hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa có nét giống nhau: Cả hai đều là những người rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi; tuy vậy cả hai đều có lòng quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản là tuy nghèo vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái khi luôn biết nghĩ đến người khác.

4) Tinh thần nghèo của thánh Phanxicô khó khăn:

Một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành cuốn tiểu thuyết nội dung như sau: Sau khi Phanxicô đã phân phát cho người nghèo tất cả của cải của mình, ngài bắt đầu đi lang thang đó đây khất thực, vừa đi đường vừa ca hát. Một anh bạn cũ thân quen thấy vậy đã tỏ vẻ ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu cả rồi?”. Phanxicô trả lời: “Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó tất cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “Anh đi lang thang đến đây từ đâu và anh định sẽ đi đâu thế?“ – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang trên đường đi về nơi ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “Thế tại sao anh lại vừa đi đường vừa hát nghêu ngao như một thằng điên thế?” – “Tôi hát là để khỏi bị lạc đường đó thôi.”

Là những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ bị lạc đường, nếu chúng ta để cho của cải vật chất điều khiển. Điều quan trọng là chúng ta phải phá đổ thới xấu ích kỷ của mình để biết quảng đại cho đi giống như bà góa trong Tin mừng hôm nay.

5) Lòng quảng đại của một đôi vợ chồng nghèo:

Một cặp vợ chồng về quê thăm họ hàng trong ngày nghỉ lễ. Họ lái xe được một quãng đường thì trời đổ mưa tầm tã và xe thình lình bị hư dọc đường. Đêm đã khuya và lạnh mà họ thì lại không quen thuộc đường lối. Sau khi đã hết mưa, họ bèn bỏ xe, đi bộ đến gõ cửa một căn nhà gần đó có ánh đèn hắt ra. Khi họ bước vào thì gặp hai ông bà già. Trước lời xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai ông bà đã vui vẻ nói: Được lắm, chúng tôi có sẵn một căn phòng trống. Sáng hôm sau, cặp vợ chồng dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ để một số tiền lên bàn, rồi rón rén mở cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà già đang co ro nằm ngủ trên sàn nhà ngoài phòng khách. Thì ra hai ông bà già này đã nhường chỗ cho cặp vợ chồng trẻ, còn mình sẵn sàng nằm ngủ dưới đất. Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa cao quí của sự hy sinh và tình yêu thương của bà góa thời ngôn sứ Êlia và bà góa trong Tin mừng. Các bà đã cho đi tất cả những gì mình có.

THẢO LUẬN: Trong những ngày này mỗi người chúng ta có thể chia sẻ những gì cụ thể trong tầm tay của mình cho những người nghèo đói bất hạnh và bị bỏ rơi để làm vui lòng Chúa?

SUY NIỆM:

1) Hãy quảng đại dâng cho Chúa mọi sự thuộc về mình:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã lên án thái độ giả dối của các kinh sư Do thái và Người đã dạy môn đệ phải quảng đại cho đi, noi gương bà góa nghèo nọ đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà dùng để nuôi bản thân mình trong một ngày. Bà đã được Đức Giêsu đánh giá cao việc dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).

Câu chuyện cổ tích Ả rập về anh hàng thịt nướng keo kiệt đối xử hà khắc đối với kẻ nghèo nói trên cũng vẫn thường hay xảy ra trong xã hội hôm nay: Nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác cách keo kiệt tương tự. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện vui về một ông bố keo kiệt và tham ăn như sau:

Một hôm sau một đêm thức trắng đánh dậm bắt được một giỏ mươi con cá, anh ta về ngồi bên bếp than nướng cá để làm mồi nhậu lai rai một mình. Đứa con trai nhỏ 4 tuổi ngửi thấy mùi thơm của cá liền khóc lóc đòi được ăn cá. Bà mẹ liền dỗ dành cậu con yêu: “Con hãy nín đi để mẹ coi xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin bố cho con ăn nhé!”. Ông bố nghe vậy liền đáp: “Cho cái gì? Không có con cá nào nhỏ cả, con nào cũng to bằng nhau hết!”.

Cũng vậy, nhiều lần chúng ta thường né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng câu nói: “Hãy đợi đấy! Khi nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ giúp đỡ cho anh”. Nhưng sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mòn mỏi không biết phải chờ đến bao giờ. Người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho thái độ vô cảm, thiếu yêu thương, không muốn giúp đỡ tha nhân của mình.

2) Giá trị của một hành động bác ái từ thiện hệ tại chỗ nào?

– Của cho không bằng tấm lòng người cho: Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng của ít lòng nhiều. Hai bà góa thời ngôn sứ Ê-li-a và thời Đức Giêsu sở dĩ được đề cao là do lòng yêu mến đối với người của Chúa và với công việc nhà Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho hành động của hai bà có giá trị trước mặt Chúa. Và Chúa Giêsu đã khen bà góa trong Tin Mừng tuy chỉ bỏ hai đồng kẽm nhưng đã dâng Chúa nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ nhiều tiền. Vì những người kia dâng số tiền dư, còn bà goá này dâng Chúa tất cả những gì bà đang cần.

– Một việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được thực hiện với lòng mến. Câu chuyện về người đàn bà ủng hộ đồng bào bị lũ lụt nói trên: Ban đầu bà đã có quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để tỏ ra quảng đại hơn người khác. Sau đó việc rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng để bỏ vào thùng là ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối và muốn đến đòi lại số tiền dư kia, nhưng do thói sĩ diện hão, nên đành chấp nhận số tiền đã lỡ bỏ thùng hơn gấp nhiều lần. Số tiền bà góp này cũng không có giá trị về thiêng liêng trước tòa Chúa phán xét sau này vì nó không phát xuất từ tình yêu tha nhân, mà chỉ vì thói sĩ diện hão nhằm để tìm tiếng khen.

3) Về ba loại người cho và giá trị của ba cách cho:

+ Một là người cho cách bất đắc dĩ: Do muốn tránh bị quấy rầy, nên du cho mà trong lòng cảm thấy bực bội. Loại người này thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn ta, nhưng đành phải “thí” cho hắn ít tiền cho xong, để hắn mau biến đi khuất mắt!”.

+ Hai là người cho để làm xong bổn phận: Loại người cho này dù đã cho mà vẫn không thấy vui. Họ thường nói với bạn bè: “Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan”: “Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ! ”.

+ Ba là cho vì yêu thương: Do tự nguyện cho người nghèo nên trong lòng người cho sẽ cảm thấy vui vẻ. Trường hợp người được cho vì một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ cảm thấy buồn. Loại người cho này thường hay nói với những người chịu đau khổ bất hạnh: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ những khó khăn bạn đang gặp phải”. Cách cho thứ ba do này mới đẹp lòng Chúa và chúng ta cần gắng thực hiện mỗi ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa và mang lại hạnh phúc sau này cho chúng ta.

4) Hãy tập quảng đại cho đi noi gương Chúa Cha:

– Thiên Chúa Cha chúng ta đã biểu lộ một tình yêu quảng đại để nêu gương cho chúng ta:

+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh rừng.

+ Chúng ta chỉ cần vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả dòng suối.

+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi biển rộng dài.

+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.

– Chúa Giêsu phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như PHĂNG-SÍT BAN-PHUA (Francis Balfour) đã liệt kê một số việc cụ thể mà các tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:

+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ;

+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ trung tín và chân thành,

+ Quà cho các em nhỏ là tấm gương bác ái và khiêm nhường phục vụ,

+ Quà tặng cho ông bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng lời,

+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và chia sẻ công việc nội trợ,

+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu noi gương Đức Giêsu”.

NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa Giêsu. Cách đánh giá của Chúa trong Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài người nhìn mặt, còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16,7). Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé, nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”. Bà dâng do lòng mến Chúa thôi thúc, nên đã được Chúa đánh giá: “Bà đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).

Về phần chúng con: Nhiều khi chúng con dễ bị chán nản buông xuôi việc tốt, khi không được nhiều người biết và khen ngợi… Xin Chúa thanh luyện ý hướng khí làm việc lành của chúng con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương” (x. Mt 6,1-4), nếu công việc chúng con làm thực sự tốt thì sớm muộn cũng sẽ được người chung quanh nhận biết và họ sẽ ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng con (x. Mt 5,14-16).

Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

home Mục lục Lưu trữ