Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 41

Tổng truy cập: 1375203

TÂM TÌNH CỦA GIUSE VỚI BIẾN CỐ NHẬP THỂ

Tâm tình của Giuse với biến cố nhập thể – Anmai

Con người, dù quyền cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn mang trong mình những giới hạn của phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con người thường tìm đến vị thần linh, vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.

Thiên Chúa là Chúa, là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi Ngài luôn dõi mắt theo nhìn hành trình đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn, lúc hiện, lúc đồng hành, lúc khuất bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh dân riêng của mình. Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình cứu độ, hành trình đi trong sa mạc của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ, sự chết.

Hôm nay, chúng ta được nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo cho nhà Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy, Akhát rúng động như cây rừng rung rinh trước gió như sách ngôn sứ Isaia diễn tả. Akhát rúng động và không hề biết rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như cứu dân. Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi nghe Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở bên dân của ông.

Thiên Chúa thương dân Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ còn hỏi vua: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.” Đứng trước tình yêu bao la, sự chở che, sự quan phòng của Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.”

Nếu tiếp tục theo dõi những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta sẽ thấy một cách hết sức thiết thực về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua Akhát cũng như cho dân. Thiên Chúa đã cho dân chiến thắng và qua miệng của Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.

Tâm tình của vua Akhát quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa cho đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ, trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và náo nhiệt, rúng động trước những biến cố của cuộc đời thì lại có những người bình tâm để nghe tiếng Chúa nói, nghe lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.

Giữa mùa Vọng này, hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ Chúa đã hiện lên một cách hết sức dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta “gốc tích” của Đấng Cứu Độ trần gian.

“Đây là gốc tích của Đức Giêsu…”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra… Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp một cách xác tín, một cách âm thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh Giuse bước vào, nhập cuộc vào chương trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.

Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.

Nhờ Giuse, Chúa Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).

Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng Ngài không làm như vậy. Giuse muốn trốn đi vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.

Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.

Thực tế, Hài Nhi Giêsu đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò là cha nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse không phải là chuyện đơn giản. Phải hết sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời của Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.

Khi đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ để làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn?” (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài học lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa Chúa Giêsu như được củng cố thêm tình thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá một cách hiên ngang hơn, một cách quyết liệt hơn.

Đối diện với những thử thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse vẫn luôn giữ thái độ im lặng. Một thái độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người không lên tiếng, ăn to nói lớn, Người không bào chữa cho những hành động của Người, nhưng tất cả đều theo ý Thiên Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù rằng người cũng rất trăn trở, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc đời của thánh Giuse đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu: Người hy sinh lợi ích riêng cho kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Sự thinh lặng thánh, sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của thánh Giuse gợi lên cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác thẩm sâu nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với tất cả đức tin sâu xa, con người mới nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng đại và tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có mặt trong mọi lúc nguy biến mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì cuộc đời của thánh Giuse cũng bắt đầu chấm dứt nơi trần gian này. Sự thinh lặng kéo dài suốt cuộc đời của thánh Giuse từ lúc Người được sinh ra cho đến ngày Người nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh của thánh Giuse diễn tả cuộc đời của một con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho Chúa và vì Chúa và như thế, thánh Giuse là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người noi theo.

Những ngày chờ đón Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều tâm tình, nhiều thái độ, nhiều tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và trầm lắng của Thánh Giuse là tâm tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ chúng ta mới có thể hiểu được Thánh ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc đời mỗi người chúng ta.

 

  1. Hạnh phúc khi có Thiên Chúa ở cùng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Lộ trình phụng vụ mùa Vọng đã mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng tiếp đón, đồng thời tỉnh thức để nhận ra và chiêm ngưỡng biến cố Chúa Cứu Thế bước vào trần gian. Nên thời gian trước lễ Giáng sinh mang tính đặc thù của nó là chờ đợi với niềm vui, mong muốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên chúa làm người sống giữa chúng ta. Chúng ta thấy ông Dacaria và bà Êlisabét, đặc biệt là Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người đầu tiên đã cảm thấy vui mừng khi đối với mầu nhiệm Giáng sinh. Toàn bộ lời hứa trong Cựu Ước được thực hiện với biến cố Con Thiên Chúa, Vị Cứu Tinh giáng trần. Như thế bên cạnh sự chờ mong của các nhân vật trong Thánh Kinh cũng có sự chờ mong của chúng ta nữa…

Isaia loan báo: “Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Đó là các lời chúng ta thường lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV và cũng là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng hôm nay.

Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa “sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai…” ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai …” Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.

Chân trời ơn cứu độ phổ quát hôm nay nhằm vào đối tượng cụ thể trong lịch sử và thời gian là: Gia Đình Thánh Gia Nazarét, trong đó Đức Maria là đối tượng của lời ngôn sứ, thánh Giuse, người công chính được sứ thần hiện đến trong giấc mơ, và Đức Giêsu Đấng phải đến đã nhận được hai tên: Giêsu, nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”; và “Em-ma-nu-el”, theo Thánh Kinh nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, người ta có cảm thấy bầu khí nhẹ nhàng và thân thiện của Giáng sinh; máng cỏ được trưng ra với bò, lừa, tất cả sẽ được trang trí ở đó, đưa chúng ta đến gần với máng cỏ đã dọn sẵn.

Bằng cách giới thiệu bản văn Tân Ước, Isaia (7,14) chứng tỏ lời hứa đã được thực hiện, hoàn tất lời Thiên Chúa phán qua miệng các tiên tri: ‘Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai’ (Mt 1,22-23). Vì niềm tin của dân Israel mà lời Thiên Chúa hứa được thi hành. Đó là ý nghĩa đích thực của sự mong chờ trong Mùa Vọng. Thiên Chúa không từ trời xuống, như một giải pháp kỳ bí cho sự tuyệt vọng của con người, Ngài đến để lấp đầy khát vọng từ con tim của Abraham, Isaac, Giacob, và của toàn dân Israel, vì ước muốn này “tin vui mà Thiên Chúa đã hứa qua các ngôn sứ trong Thánh Kinh” (Rm 1,2). Cần phải đón nhận Thiên Chúa đến trong “Thần Khí”, nghĩa là như một hồn ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải “theo xác thịt” (Rm 1,3-4).

Kết quả là những lời hứa cứu độ phổ quát dành cho dân Do thái do miệng các ngôn sứ loan báo nay hoàn tất trong biết cố Giáng sinh. Không có gì là chiến thắng hết: còn qui chiếu nào đơn giản hơn là một người nam và một thiếu nữ đang sẵn sàng sinh em bé không? Nhưng con trẻ là đối tượng của lời hứa: Thiên Chúa cứu độ nay đến ở cùng chúng ta.

“Emmanuel” nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Vâng, Người là Thiên Chúa ở trên chúng ta, nhưng hôm nay Người đến ở cùng chúng ta! Người là Thiên Chúa ở với chúng ta trong nhân tính và trong ân sủng của Người, Người ở với chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta và tốt lành của Người, Ngài ở với chúng ta trong đau khổ của chúng ta với tình thương của Người để đưa chúng ta vào trong tình yêu dịu dàng và từ bi của Người đối với chúng ta.

Thiên Chúa ở với chúng ta! Tác giả thư Do thái viết: Anh em là con cái Adam đã không thể lên trời ở với Thiên Chúa “Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: “Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?” (x. Dt 30,12) Thiên Chúa từ trời xuống là “Emmanuel”, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến nhà chúng ta, chúng ta đến với Chúa để được ở với Người ! “Phàm nhân hỡi, cho đến bao giờ lòng vẫn còn chai đá ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối? “(Tv 4:3) Ở đây có sự thật: “Sao lại yêu mến sự hư vô? ” Và đây lời chân thật và bền vững: “Tại sao tìm kiếm sự dối trá?”

Đây là Thiên Chúa ở với chúng ta. Nhỏ bé như ta, yếu đuối như ta, trần truồng như ta, nghèo khó như ta, trong mọi sự, Người đã trở nên giống tôi, mặc lấy tôi và hiến mình cho tôi. Tôi nằm chết, không có tiếng nói, không có ý nghĩa, thậm trí ánh sáng cũng không còn trong mắt tôi. Hôm nay Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm người như ta vậy. Ôi ! còn sung sướng và hạnh phúc nào hơn nữa. Thiên Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết, sau khi Adam và Eva phạm tội, Người đã tái ôm hôn chúng ta và mở toang cửa dẫn chúng ta tới sự sống đời đời.

Thánh Ireneo giải thích rằng “Chính Con Thiên Chúa đã xuống trong một xác phàm giống xác phàm của tội lỗi” (Rm 8,3) để lên án tội lỗi và sau khi đã lên án nó, Ngài hoàn toàn loại trừ nó khỏi loài người. Ngài kêu gọi con người giống chính mình, Ngài làm cho nó bắt chước Thiên Chúa, và dẫn nó đi trên con đường Thiên Chúa Cha đã chỉ, để nó có thể trông thấy Thiên Chúa và ban tặng chính Thiên Chúa Cha cho nó” III, 20,2-3). Ireneo khẳng định rằng: với Chúa Giêsu Hài Nhi, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên giống Người. Chúng ta thấy Thiên Chúa như Người là. Và như thế Người nhắc nhở cho chúng ta biết chúng ta phải giống Thiên Chúa, và phải bắt chước Người. Thiên Chúa đã tự hiến cho chúng ta, trong tay chúng ta.

Thánh Ireneo còn khẳng định như sau: “Ngôi Lời của Thiên Chúa đến ở giữa loài người và làm Con của loài người, để tập cho con người nhận biết Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa quen sống trong con người theo ý Thiên Chúa Cha. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như “dấu chỉ” ơn cứu rỗi của chúng ta, Đấng được sinh ra từ Đức Trinh Nữ, là Emmanuel”. Xin Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse giúp chúng ta sống Mầu Nhiệm Giáng Sinh với lòng biết ơn được canh tân. Amen.

 

  1. Vâng theo Ý Chúa – R. Veritas

(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse đã sống.

Thật vậy, Đức Maria chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác, sống trong một làng quê nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác biệt là người đã luôn vâng theo ý Chúa trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù chưa biết rõ chương trình lạ lùng của Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn, nhưng có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân theo ý Chúa, điển hình là ngài đã rước Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ thần cho biết là Đức Maria thụ thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.

Mỗi kitô hữu chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên… Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của chúng ta.

Ước gì chúng ta ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa giáng sinh.

 

  1. Hãy làm sáng danh Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một em bé về kể với mẹ: Mẹ ơi, hôm nay khi một chiếc xe chở bia bị lật, con thấy nhiều người ra hôi bia về uống.

Mẹ nói: Vì họ là người tham lam. Họ phạm tội ăn cắp một cách công khai đáng bị lên án.

Đứa bé: Nhưng con thấy có cả chú tư, cô ba gần nhà mình cũng vui vẻ bưng một thùng bia về nhà.

Mẹ: Vì chú tư, cô bà đã bán sĩ diện mình bằng vài lon bia.

Đứa bé: Con thấy không một ai nhặt giúp bia cho người bị nạn mà ai cũng tranh thủ chộp một vài lon hay vài thùng rồi lên xe chạy hết.

Mẹ: Vì họ sống theo bản năng đói thì ăn, khát thì uống mà không còn xét về luân lý được ăn hay không?

Đứa bé: Vậy nếu xã hội mà con người chỉ biết sống theo bản năng thì xã hội sẽ ra sao?

Mẹ: Thì xã hội sẽ chẳng còn luật lệ, người ta sẽ mạnh ai người ấy sống, hay “cá lớn nuốt cá bé”. Xã hội sẽ loạn lạc, chẳng còn ai tin vào ai.

Đứa bé: Vậy sống trong một xã hội mà con người không còn thân thiện, giúp đỡ nhau thì mình phải làm sao?

Mẹ: Mình phải là một ánh sáng cho thế gian bớt u tối bằng việc làm tốt, không hùa theo đám đông làm chuyện xấu. Dù chỉ là ánh sáng lẻ loi nhưng vẫn phá tan những đêm tối của lòng người. Nhất là mình là người Công giáo phải sống chứng nhân cho Chúa qua dấu chỉ yêu thương để người ta nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, và đừng bao giờ vì một vài lon bia mà làm ô danh đạo thánh của chúng ta.

Cách đây hơn hai ngàn năm giữa một khung trời đầy những bóng tối của tội lỗi, của sự ích kỷ lòng người Ngôi Hai Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian. Ngài là Emanuel ở cùng chúng ta. Ngài đến để thắp sáng trên trần gian ánh sáng của tình bác ái, của sự hiệp thông. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Ngài soi chiếu ánh sáng chân lý để đầy lùi bóng tối gian tà. Ngài thắp sáng ánh sáng tình yêu để xua tan bóng đêm của ích kỷ, lạnh lùng. Ngài đi vào trần đời để ném ngọn lửa yêu thương, lửa bác ái, lửa tin yêu cho trần gian.

Thế nhưng, vẫn có những con người khước từ ánh sáng. Họ thích sống trong tăm tối. Họ thích sống theo bản năng, nuông chiều tính xác thịt. Họ ngồi trong u tối nhưng không muốn ra ánh sáng. Vì theo ánh sáng phải bỏ bóng tối. Bóng tối của ích kỷ, của dửng dưng, của gian tà. Nhưng tiếc thay, con người lại thích sống theo bản năng nên họ khước từ ánh sáng.

Ngày nay cũng có nhiều người không muốn theo một đạo nào. Không phải là họ không tin mà điều quan yếu là họ sợ phải sống đạo, phải giữ đạo. Họ thà không theo đạo để sống theo bản năng của mình. Thế nhưng, bản năng thường ích kỷ, thường lầm lỗi và hẹp hòi nên vẫn còn đó những việc làm thiếu tình liên đới, hiệp thông yêu thương trong tình người.

Ngày nay Thiên Chúa vẫn đang cần chúng ta hãy trở thành ánh sáng cho trần gian. Hãy chiếu sáng cho thế gian ánh sáng của yêu thương, của tình liên đới và hiệp thông. Hãy dẫn dắt con người đến cùng ánh sáng đích thực là chính Chúa Giê-su là nguồn mạch ánh sáng.

Thánh Giu-se và Đức Maria năm xưa đã cộng tác với Chúa để mang ánh sáng vào trần gian. Mẹ đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để đón nhận hài nhi ngự trong cung lòng Mẹ. Thánh Giuse đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để trở thành cha nuôi của Chúa Giê-su. Cả hai cùng thưa xin vâng như lời dâng hiến cuộc đời để trở thành khí cụ của Chúa mang ánh sáng vào trần gian. Ngôi Hai Thiên Chúa đã có thể cư ngụ giữa chúng ta là nhờ tấm lòng hy sinh của hai thánh nhân. Chính các ngài đã từ bỏ ý riêng, từ bỏ nếp sống của mình để hành xử theo ý Thiên Chúa.

Nếu cuộc đời mà ai cũng biết từ bỏ ý riêng của mình để làm theo ý Chúa thì cuộc đời tốt đẹp biết bao. Nếu dòng đời ai cũng biết chế ngự bản thân để sống cho tha nhân thì dòng đời sẽ không còn vẫn đục bởi hôi của, bởi dưng dưng trước khốn khó của đồng loại mà ai cũng sẵn sàng giúp đỡ nhau.

Mùa Noel nữa lại đến như mời gọi chúng ta hãy là ánh sáng cho trần gian. Xin đừng vì những quyến luyến trần tục, những tham lam bất chính mà bản rẻ lương tâm, nhân phẩm của mình. Nhưng mỗi người hãy là những vì sao sáng trên bầu trời loan báo tin vui Chúa giáng sinh cho nhân trần. Xin Đấng Emaul mãi ở lại trong tâm hồn chúng ta ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta cũng ra đi xây dựng tình yêu và hạnh phúc cho nhân trần. Amen.

 

  1. Đừng ngại

(Trích từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông, khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.

Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.

Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình.

Cả cuộc đời Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.

Giuse chấp nhận ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức Giêsu.

Bề ngoài, Giuse vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai biết.

Ông sống một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.

Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.

Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.

Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.

Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.

Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.

Nhờ Giuse, Đức Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).

Cùng với Giuse, xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.

Cùng với cả vũ hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào? Có khi nào bạn xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?

Con Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên nào hơn cả? Tại sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

home Mục lục Lưu trữ