Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1367388

TẬT CÂM VÀ ĐIẾC

Câm và điếc.

 

Tôi đã đọc một câu sau đây trong một cuốn sách: “Yếu tố đầu tiên trong một cuộc đối thoại là sự thật, thứ hai là có lương tri, thứ ba là tính hài hước vui vẻ, và cuối cùng là sự hóm hỉnh thông minh”. Nhưng làm sao mà một người có thể đối thoại với người khác bằng miệng, nếu như anh ta vừa câm lại vừa điếc.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc.

Những người câm điếc thì không thể giao tiếp bằng miệng với chúng ta, bởi vì họ không nghe được và không nói được. Họ chỉ có thể giao tiếp qua các cử chỉ và dấu hiệu. Nhiều người có mặc cảm tự ti vì khuyết tật của họ. Nhiều người tàn tật cảm thấy xấu hổ và tránh né mọi người, vì sợ người khác cười nhạo khuyết tật của họ. Tôi tin là Chúa Giêsu hiểu rõ điều này, và vì thế Chúa đã đưa người câm điếc ra khỏi đám đông trước khi Chúa chữa cho anh ta.

Tuy nhiên, những người câm điếc không chỉ là những người thiếu khả năng nói và nghe. Chúng ta cũng có thể gặp thấy những người câm điếc về mặt xã hội. Họ là những người mà chúng ta không muốn nói chuyện, họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, không có tiếng nói, không có thế lực và ảnh hưởng trong xã hội ngày nay. Họ có nói cũng chẳng có ai thèm lắng nghe họ. Giúp đỡ những con người phận nhỏ như thế là một cách chúng ta cám ơn Thiên Chúa, vì những ơn huệ lớn lao chúng ta đã nhận được. Hơn nữa, chúng ta cũng nên xét mình xem chúng ta thường sử dụng khả năng nghe và nói của mình như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân hay đã lạm dụng nó?

Dù chúng ta có thể nghe và nói được, nhưng có thể chúng ta lại câm và điếc đối với những lời của Thiên Chúa phán dạy. Chúng ta câm điếc khi không giúp đỡ, không đáp ứng lại trước những nhu cầu cấp thiết của những người lâm cảnh túng quẫn, khi chúng ta có khả năng, nhưng đã giả tảng làm ngơ, không nghe thấy những tiếng cầu cứu của tha nhân. Chúng ta cũng lạm dụng miệng lưỡi khi vu khống hay nói xấu người khác, khi chúng ta phá hủy tiếng tốt của người khác qua những lời nói dối trá, gièm pha. Bạn có nhận ra những dấu hiệu câm điếc như thế nơi chính bạn hay không?

Lạy Chúa Giêsu, xin chữa lành tật câm điếc của con đối với lời của Chúa. Xin mở miệng con để con loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người con gặp gỡ hàng ngày.

 

 

 

 

 

52. Phép lạ.

 

Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giêsu. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng. Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giêsu làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người.

Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại, Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Đấng cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn ngươi ăn no. Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người… Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì?

Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giêsu trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưỡi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa tan để giải phóng con người.

Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giêsu đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? Và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.

Đây là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai… Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rôma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giêsu có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.

Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tôma: “Hỡi Tôma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Kitô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Kitô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Kitô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Kitô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa.

 

 

 

 

 

53. Câm điếc.

 

Chúng ta thường bảo: Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đồng, trong một xã hội. Và để cuộc sống chung này được tốt đẹp, chúng ta cần phải tạo lấy những mối liên hệ đầy yêu thương và cảm thông. Tuy nhiên, muốn tạo được những mối liên hệ đầy yêu thương và cảm thông, chúng ta cần phải nói cho nhau nghe, cũng như cần phải nghe nhau nói.

Trước hết là hãy nói cho nhau nghe. Ngôn ngữ và tiếng nói chính là phương tiện Chúa đã trao ban để chúng ta truyền đạt những ý nghĩ, những tư tưởng, những ước muốn cho người khác, nhờ đó họ sẽ hiểu chúng ta và cảm thông với chúng ta hơn. Thế nhưng, chúng ta không phải chỉ biết nói, mà còn phải biết nghe. Có biết nghe người khác nói, chúng ta mới ghi nhận được những ý kiến và đóng góp của họ. Bằng không, chúng ta chỉ là những kẻ độc thoại, nói một mình mà chẳng biết có ai lưu tâm đến hay không. Chính vì thế, việc biết nghe nhau nói cũng quan trọng không kém việc biết nói cho nhau nghe. Nói và nghe là những phương tiện, những khả năng giúp chúng ta liên hệ với người khác, nhờ đó tạo được một sự cảm thông chân thành. Nếu không có những phương tiện này, nếu không có những khả năng này, chúng ta sẽ phải mãi mãi sống trong sự cô độc lẻ loi và bị loại trừ. Người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã lâm vào một tình cảnh bi đát. Anh ta đau khổ biết bao vì không được nói với ai, cũng như chẳng được nghe ai nói với mình. Anh ta không thể hiểu người khác và người khác cũng khó mà hiểu được anh ta. Cảm thông tình cảnh bi đát ấy, Chúa Giêsu đã chữa anh ta khỏi câm và điếc, để anh được trở lại với cuộc sống xã hội, cuộc sống với người khác. Kể từ nay, anh ta có thể liên hệ với mọi người mà không còn tự ti mặc cảm nữa.

Trong phạm vi thiêng liêng cũng vậy, chúng ta không thể sống cô độc lẻ loi, trái lại, chúng ta còn sống với Chúa và với anh em. Vì thế, rất có thể lúc này, mặc dù chúng ta không câm điếc về phần xác nhưng biết đâu chúng ta lại câm điếc về phần hồn, một sự câm điếc thiêng liêng. Chúng ta câm điếc khi lặn ngụp trong tội lỗi, không còn lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua lương tâm, qua thiên nhiên, cũng như qua những biến cố xảy đến trong cuộc sống. Chúng ta câm điếc khi không còn dâng lên Chúa lời chúc tụng và cảm tạ tình thương Ngài đã dành cho chúng ta. Chúng ta câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá, không còn biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác. Chúng ta câm điếc khi không còn lắng nghe, cũng như không còn nói được những lời an ủi và khích lệ người khác. Chúng ta câm điếc khi tự coi mình là một ốc đảo, chỉ biết sống cho riêng mình và tệ hơn nữa, coi người khác là như hỏa ngục, là như một sự quấy rầy và phiền nhiễu.

Bởi đó, xin Chúa hãy mở miệng và mở tai chúng ta, để chúng ta biết lắng nghe và loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung quanh.

 

 

 

 

 

54. Câm điếc – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng.

 

Những công việc và phép lạ Chúa Giêsu làm khi ở trần gian, thường có nhiều ý nghĩa. Chúa đã làm một công đôi ba việc, hay nhất cử lưỡng tiện. Chẳng hạn như phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa đã làm một cách trịnh trọng khác thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như đụng chạm tới, đặt tay trên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết… thế là phép lạ đã được thực hiện. Vậy mà đối với người câm điếc này, cách Chúa làm có vẻ phiền phức hơn. Những cử chỉ phiền phức ấy đều có ý nghĩa tượng trưng của chúng.

Trước hết, Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông. Vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Phép lạ này xảy ra ở miền Thập tỉnh, là nơi có nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do thái, nên chắc chắn họ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.

Thứ hai, Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc. Đối với những người nghe được thì bao giờ Chúa cũng dùng lời nói để đòi điều kiện đức tin. Còn đối với người điếc thì cần phải có cử chỉ. Cử chỉ sẽ gây nên công hiệu làm nảy nở lòng tin để tin vào quyền phép Đấng làm phép lạ. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc tượng trưng cho sức mạnh Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông một sức linh diệu, một sự nhạy bén, để họ có thể nghe thấy tiếng Chúa cách dễ dàng.

Thứ ba, Chúa bôi nước bọt vào lưỡi người câm điếc. Có vẻ mất vệ sinh? Cứ sự thường nước bọt có chứa nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ uy quyền của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.

Sau cùng, Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và nói “Ep-pha-tha: hãy mở ra”. Không mấy khi đứng trước những bệnh tật đau khổ của thân xác con người mà Chúa không nghĩ tới những khốn khổ của linh hồn họ. Có lẽ sự liên tưởng đó đã khiến Chúa phát ra tiếng thở dài ấy chăng? Nhưng dù khốn khổ thế nào chăng nữa, cũng không phải là vô phương cứu chữa. Đôi mắt Chúa ngước lên trời bày tỏ một niềm hy vọng sâu xa vào quyền phép của Chúa. Một tiếng: “Phi-át: xin vâng” đã lôi cả vũ trụ vạn vật từ chỗ không đến có, thì tiếng “Ep-pha-tha” này cũng chữa lại vài sự lệch lạc nơi tạo vật ấy một cách dễ dàng như vậy.

Thường thường những người mới sinh ra mà đã bị câm thì cũng bị điếc luôn. Người câm và điếc bị thiệt thòi rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Dù câm điếc vì lý do gì vẫn là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng ta.

Tuy nhiên, ngoài những người câm điếc thực sự về thể xác này, còn có những hình thức câm điếc khác nữa, hiểu theo nghĩa bóng hoặc về phương diện tinh thần, thiêng liêng. Chẳng hạn có những người câm điếc vì không muốn nói, không muốn nghe, do một lý tưởng nào đó tác động: hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất đáng khen tụng, đó là những anh hùng tuẫn giáo hay những chiến sĩ, cán bộ can trường, nhất định không chịu tiết lộ bí mật, không chịu phản bội lý tưởng. Ngược lại, có những người câm điếc cũng cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng người này lại đáng chê trách.

Lại có những người câm điếc khi bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm: tai trâu, tai cối, lơ đễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa, hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi cần, khi có nhiệm vụ, khi có trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng được xếp vào loại những người câm.

Sau hết, có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng v.v… Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình… Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi… như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc thiêng liêng nào cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.

 

 

 

 

 

55. Các phép lạ của Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

 

Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giê-su. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng, Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giê-su làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giê-su đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người.

Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giê-su còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại. Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Đấng Cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người… Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì?

Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giê-su trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: “Ép-pha-tha” nghĩa là “hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưởi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa-tan để giải phóng con người.

Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giê-su đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.

Đây là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai… Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rô-ma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giê-su có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.

Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giê-su đã nói với tông đồ Tô-ma: “Hỡi Tô-ma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Ki-tô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Ki-tô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Ki-tô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Ki-tô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa.

 

 

 

 

 

56. Tặng vật.

 

Khả năng nghe và nói là hai tặng vật lớn. Giống như mọi tặng vật, người ta có thể coi là việc đương nhiên hoặc sử dụng sai lầm. Chúng có quan hệ với nhau. Chúng ta thấy điều đó đặc biệt nơi những người lớn tuổi. Khi họ lãng tai, họ trở nên câm lặng. Người đàn ông đến với Đức Giêsu vừa bị điếc, vừa nói ngọng. Đức Giêsu chắc hẳn đã biết anh.

Những người có thính giác kém thường lúng túng và vụng về và buồn cười. Thính giác kém dẫn người ta đến sự im lặng bối rối, khiến người khác phải hiểu lầm. Ngày nay những phương tiện trợ giúp cho thính giác đã làm giảm nhẹ nỗi đau khổ của họ nhưng không làm biến mất hoàn toàn.

Tặng vật nói được là phương tiện chính để chúng ta truyền thông với người khác. Người nói ngọng thường làm trò cười cho người khác.

Chúng ta thấy nỗi đau khổ mà Đức Giêsu chịu thay cho người khốn khổ ấy, và sự săn sóc mà Người dành cho người ấy. Người dẫn anh ta ra khỏi đám đông để Người có thể chăm sóc cho anh trong sự riêng tư và dành cho anh sự quan tâm trọn vẹn. Thay vì nói với anh, Người sờ vào tai và lưỡi anh. Như thế, Người làm cho anh ta cảm thấy điều anh không thể nghe được.

Phép lạ có ảnh hưởng lớn đến chúng ta, không phải vì chúng ta điếc hoặc câm (may mắn thay, đa số chúng ta không bị), nhưng chính xác vì chúng ta có được tặng vật là nghe được và nói được. Việc chúng ta có được những tặng vật ấy không có nghĩa là chúng ta sử dụng chúng tốt. Nhiều người là những thính giả rất nghèo nàn. Và nhiều người gặp sự khó khăn khi diễn tả biểu lộ.

Nghe được mà không chịu nghe (điều phải) thì số phận còn tệ hơn bị điếc từ lúc sinh ra. Có tai mà không chịu nghe hoặc có lưỡi mà không chịu nói hẳn là tệ hơn rồi. Vì thế, chúng ta cần Chúa sờ vào để chữa lành nếu chúng ta muốn sử dụng tốt hai tặng vật quí giá ấy.

Các giác quan của chúng ta quí giá và sống động. Chúng ta cũng phải cảm nghiệm Thiên Chúa với các giác quan của chúng ta: với mắt, tai, lưỡi, và đặc biệt với tâm hồn chúng ta.

Phép lạ không chú trọng sự chữa lành thể chất của người đàn ông vừa điếc vừa câm. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Thiên Chúa và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe Lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.

Vì thế, không gì ngạc nhiên khi linh mục sờ tai và lưỡi trong nghi thức Thanh Tẩy từ những thời kỳ sơ khai và ngày nay vẫn thế. Linh mục chủ tế sờ vào tai và miệng của người nhận phép Rửa tội và nói: “Chúa Giêsu đã làm cho người điếc nghe được và người câm nói được. Xin Người cũng sờ vào tai anh/ chị để anh/ chị đón nhận lời Người và sờ vào miệng anh/ chị để anh/ chị tuyên xưng đức tin vào Người, để ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta”.

Chúng ta cần khả năng nghe Lời Thiên Chúa. Rồi cần khả năng tuyên xưng Lời ấy vào thực tiễn của cuộc sống. Lời của Thiên Chúa, một khi được nghe và thực hành, sẽ giống như hạt giống rơi xuống đất tốt; nó làm cho đời sống của chúng ta sinh hoa kết quả.

 

 

 

 

 

57. Tin Mừng.

 

Tên tôi là James. Vì hoàn cảnh bị điếc, tôi bị thiệt thòi rất nhiều đến nỗi những người khác coi là việc đương nhiên. Tôi không thể nghe tiếng la hét của các em bé đang chơi, tiếng chim hót, tiếng gió thổi trên cây. Tôi không thể nghe những lời an ủi, động viên hoặc cảnh báo. Ít người chịu cố gắng thông tin cho người điếc. Họ thấy điều đó rất tẻ nhạt. Tôi cảm thấy cô đơn kinh khủng.

Thực tế tôi cũng bị câm, nó càng làm tăng thêm cảm giác bị loại trừ và cô độc. Tôi không thể giãi bày. Tôi không thể diễn tả cảm giác của tôi. Những người vô tình đã cười nhạo sự nói lắp của tôi.

Tôi không có cơ hội để đóng góp gì cho cộng đoàn. Hậu quả là, tôi cảm thấy vô dụng và trở thành vô dụng. Người ta ngại chạm vào tôi. Bị tàn tật là gặp khó khăn. và khi bạn khó khăn, người ta sợ bạn. Hơn thế nữa, tôi còn đi đến chỗ tin rằng sự tàn tật của tôi là do Thiên Chúa trừng phạt.

Tôi đầy lòng thương cảm chính mình. Tôi ao ước được người ta thương xót. Tôi tin chắc không một ai hiểu và thương xót tôi. Cho đến một ngày kia, tôi biết được Đức Giêsu. Dù Người là dân Do thái, còn tôi là dân ngoại, tôi cũng không ngã lòng thối chí đi tìm sự giúp đỡ của Người.

Quả là một kinh nghiệm tuyệt vời! Việc đầu tiên Người làm là kéo tôi ra khỏi đám đông, và dành cho tôi sự quan tâm trọn vẹn của Người. Điều này làm cho tôi cảm thấy rằng Người coi tôi quan trọng. Đồng thời Người cứu tôi khỏi sự tò mò của những người lắm chuyện.

Người không nói với tôi như thể Người tiết kiệm lời nói. Trái lại, Người đã sờ vào tôi. Người đã làm cho tôi cảm nhận điều mà tôi không thể nghe được. Không có gì thô lỗ và vội vàng khi Người sờ tôi. Đó là một cử chỉ dịu dàng, nhẫn nại và yêu thương.

Người đặt ngón tay Người vào lỗ tai tôi. Rồi Người đặt ngón tay Người vào miệng Người, lấy ra một ít nước bọt trị bệnh và đặt nó vào lưỡi tôi. Kế đó, Người ngước mắt lên trời để cho tôi thấy rằng đây là sự giúp đỡ đến từ Thiên Chúa. Rồi với một tiếng thở dài lớn, Người nói: “Hãy mở ra!”. Và thình lình tai tôi được mở ra và lưỡi tôi trở lại bình thường. Tôi đã được chữa khỏi!

Người nói với tôi chớ nên loan truyền điều Người đã làm cho tôi. Nhưng tôi không thể giữ im lặng. Có quá nhiều điều bị dồn nén bên trong tôi đến nỗi trước hết tôi nói liên tục, không ngừng. Tôi không thể đi qua một người nào trong phố mà không nói: “Xin chào”. Tôi không thể giữ im lặng khi gặp một người đang đau khổ nếu tôi cảm thấy một lời của tôi có thể nâng đỡ người ấy. Tôi cũng không thể đứng nhìn hành động bất công mà không tố giác nó.

Nhưng không bao lâu, tôi đã nhận ra rằng tôi đã nói quá nhiều. Tôi đã không lắng nghe. Điều này khiến tôi làm tổn thương người khác. Vì thế tôi quyết định cố gắng lắng nghe người khác. Điều này có nghĩa là tôi phải ngừng nói. Tôi cũng nghe những âm thanh của thiên nhiên, của âm nhạc, tiếng cười và tiếng khóc.

Tôi đã khám phá một số điều lý thú trong suốt những tháng đầu tiên sau khi tôi khỏi bệnh. Tôi thấy mỗi người đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ sử dụng trọn vẹn tặng vật nói được như e thẹn, vô tình, vô cảm… Và họ đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ nghe tốt như thiên kiến, phân tâm, khước từ việc lắng nghe…

Tại sao tôi nói với bạn điều đó? Chính là để tránh cho số phận của những người có tai nhưng không thể nghe và có lưỡi nhưng không thể nói. Từ kinh nghiệm của tôi, tôi đã khám phá ra điều này: bi kịch lớn nhất không phải là sinh ra điếc và câm, nhưng là có tai mà không chịu nghe và có lưỡi mà không chịu nói điều phải.

Nghe và nói là hai tặng vật lớn. Nhưng nếu không có một tâm hồn có khả năng cảm nhận lòng thương xót, chúng ta sẽ không bao giờ có thể sử dụng tốt việc nghe và nói. Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nghe đúng, và chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói đúng.

Đấng đã sờ vào tai tôi và lưỡi tôi, cũng sờ vào tâm hồn tôi. Có như thế thì mọi việc mới làm tôi đổi mới. Đó là một phép lạ buổi sáng trước ánh mặt trời.

 

 

 

 

 

58. Sự phân biệt.

 

Có một lần nọ, một người giàu có mời tất cả những người bạn ông là những người dân thành phố đến dự tiệc. Có một người đến bữa tiệc trong một bộ quần áo rách rưới, đó là bộ y phục duy nhất mà người ấy có. Vừa đến cửa, người ấy bị đuổi về. Không bị khuất phục, người ấy trở về nhà và mượn một bộ đồ đắt tiền của một ông láng giềng giàu có. Rồi người ấy trở lại nhà tiệc, trông có vẻ như một người có của. Lần này người gác cổng tiếp đón với vẻ cung kính và chỉ cho ông ngồi chỗ cao nhất trên bàn. Trong bữa ăn, lúc ông với tay để lấy miếng thịt chiên, bất ngờ cái tay áo nhúng vào đĩa thức ăn.

“Kéo tay áo của ông lên”, người khách kế bên nói nhỏ.

“Không, cứ để vậy” ông nói. Rồi ông nói với cái tay áo: “Ăn đi, hỡi tay áo của tôi, ăn đi cho no nê. Mày có quyền dự bữa tiệc này hơn tao, vì người ta tôn trọng mày hơn tao trong nhà này”.

Thánh tông đồ Giacôbê: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư (giữa các giai tầng xã hội)”. Nếu đoạn văn này của thánh Giacôbê làm chúng ta khó chịu vì sự thật là thế. Xã hội chúng ta có đầy sự phân biệt giai cấp. Chúng ta thấy điều đó qua loại xe người ta lái, loại phi cơ người ta đi, khu đất người ta ở, câu lạc bộ người ta năng lui tới v.v… Có một chỗ cho người giàu và một chỗ cho người nghèo. Người ta gán giá trị xã hội cho số lượng tiền bạc mà người ta có. Nếu bạn giàu có, bạn là một nhân vật nào đó. Nếu bạn nghèo, bạn không là một con người.

Việc phân chia giai cấp sẽ không đến nỗi nào nếu kết quả của nó không ảnh hưởng đến chúng ta. Phân chia giai cấp dẫn đến sự thiên vị, đến sự trọng phú, khinh bần. Người ta thường giữ chặt mỗi người ở vị trí của họ, làm cho có những người bị tự ti mặc cảm. Nó giữ cho người ta sống riêng rẽ. Đôi khi, người nghèo không được phép vào sống trong khu nhà của người giàu. Nhưng người giàu cũng đau khổ, bởi vì nó cho họ một cảm giác giả tạo về sự quan trọng của họ.

Sự phân chia giai cấp dẫn đến những tiêu chuẩn kép và không nên có giữa các Kitô hữu với nhau. Các Kitô hữu cần phải thách thức những tiêu chuẩn giả tạo ấy, và không cho phép mình bị lôi kéo thích ứng với các tiêu chuẩn ấy.

Có những rào cản giữa các giai cấp đổ xuống. Khi có những nguy hiểm và đau buồn tập thể hoặc niềm vui tập thể thì những sự phân biệt ấy bị gạt sang một bên và họ thấy chúng chỉ là những điều ngớ ngẩn. Trong những dịp như thế, người ta đến với nhau và làm phong phú cho nhau. Trong những dịp như thế, người ta nhận ra rằng biết bao điều đã bị bỏ mất qua những phân chia giả tạo đó.

Nếu Thiên Chúa có tỏ ra thiên vị thì đó là sự thiên vị dành cho người nghèo và người bị áp bức. Việc Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo không có nghĩa là Thiên Chúa yêu họ chỉ vì họ nghèo, như thể nghèo khó là một nhân đức. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo và người bị áp bức bởi vì họ bị đối xử bất công. Kinh Thánh nhìn người giàu đang áp bức người nghèo. Và Thiên Chúa quyết định chứng minh chính nghĩa của người bị áp bức. Các Kitô hữu phải làm cho các tiêu chuẩn của mình phù hợp với các tiêu chuẩn của Thiên Chúa.

Sự cao thượng cùng lòng nhân hậu không thể được giai cấp xác định: điều xấu cũng thế. Không có giai cấp nào được độc quyền tốt hoặc xấu, đau khổ hay vui mừng. Nhưng khi đến với đức tin, thánh Giacôbê nói rằng chính những người nghèo đối với thế gian này, mới giàu có trong đức tin. Người giàu có khuynh hướng dựa vào của cải của mình, trong khi mà người nghèo theo bản năng quay về Thiên Chúa. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Phúc thay ai nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Ở đây, trong ngôi nhà của Thiên Chúa mọi rào cản phân chia giai cấp đều sụp đổ. Chúng có vẻ ngớ ngẩn. Bởi vì ở đây, phẩm giá thật sự của chúng ta xuất hiện. Nó không dựa trên những điều thường vẫn phân chia con người và vẫn được xã hội đánh giá cao. Nó dựa trên một điều rất sâu xa là bản chất của con người. Nói cách khác chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em với Đức kitô. Bất cứ sự phân biệt nào khác đều tầm thường và vô nghĩa. Khi chúng ta đến đây, những sự phân biệt khác đều tiêu tan như sương mù buổi sáng trước ánh mặt trời.

 

 

 

 

 

59. Mê tín.

 

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cứu chữa cho một người khỏi tật câm và điếc. Có một vài chi tiết trong câu chuyện này đáng chúng ta lưu ý, đó là:

. Khi chữa trị cho người này, Chúa Giêsu đã đưa anh ta ra khỏi đám đông và kín đáo làm phép lạ chữa trị cho anh.

. Và sau khi anh ta đã khỏi bệnh rồi, Chúa Giêsu còn cấm anh không được nói lại điều đó với ai khác.

Tại sao Chúa Giêsu cư xử như vậy? Thưa vì Chúa Giêsu không muốn đám đông ồn ào biết đến phép lạ này. Nếu biết, họ sẽ ồn ào đổ xô theo Chúa, nhưng theo như vậy không phải vì tin cho bằng vì óc hiếu kỳ, vì muốn được lợi lộc.

Con người ta rất dễ bị kích động vì những chuyện lạ thường. Khi nghe nói chỗ nào có Đức Mẹ hiện ra thì người ta ùn ùn kéo đến. Nhưng thử hỏi, những người đổ xô đi tới những nơi nghe đồn có chuyện lạ thường ấy, họ đi đến đó vì động lực nào thúc đẩy? Chắc không phải vì lòng đạo đức chân thật, không phải vì đức tin chân chính, cho bằng vì óc hiếu kỳ muốn thấy chuyện lạ, và vì óc vụ lợi muốn được khỏi bệnh… Một hành động không vì niềm tin chân chính mà vì óc hiếu kỳ và tính vụ lợi rất dễ đưa tới mê tín dị đoan. Mà mê tín dị đoan thì làm lu mờ đức tin chân chính, làm méo mó sai lệch bộ mặt của đạo giáo.

Rất may là trong đạo Công giáo chúng ta tương đối ít có những chuyện mê tín dị đoan. Đó là nhờ chúng ta có giáo lý vững chắc, có luật cấm mê tín dị đoan và thường được Giáo hội thường xuyên chỉ dạy nhắc nhở. Tuy nhiên, tương đối ít hơn nơi các đạo khác thôi, chứ không phải là hoàn toàn không có. Thỉnh thoảng vẫn có những người Công giáo đi coi bói, đi xin bùa… Những người ấy đã làm những việc mê tín dị đoan đó trong những hoàn cảnh nào? Thường là:

. Khi có người thân bị bệnh nặng: chữa trị bằng thuốc men không thấy hết, người ta quay sang các thầy bùa thầy ngãi.

. Hay khi trong nhà bị mất tiền, mất vàng, mất đồ đạc. Người ta sốt ruột, đi coi thầy bói để mong biết được kẻ cắp mà lấy của lại.

. Hoặc khi gặp một cơn hoạn nạn, người ta lo sợ muốn qua khỏi nên chạy đến cầu cứu với thần thánh này nọ, người ta cúng, người ta khấn vái…

Một bà kia xưa nay vẫn giữ đạo rất tốt. Nhưng rồi bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ, chữa chạy nhiều cách không khỏi. Có người nói rằng chắc là bà ta bị thư bị ếm gì đó, cần phải nhờ thầy bùa giải dùm. Gia đình rất băn khoăn, tới hỏi ý kiến của các cha. Các cha khuyên rằng đây chính là dịp để mình chứng tỏ đức tin của mình vào Chúa. Các cha nhắc nhở về ý nghĩa của đau khổ, về sự phó thác trong tay Chúa v.v… Nhưng người thân của bà ấy chỉ im lặng, rồi buồn bã ra về, đưa bà ta đến thầy bùa. Rốt cuộc bà ta cũng chết thôi. Gia đình vừa buồn vì mất một người thân, mà lại thêm mặc cảm là mình đã phạm tội không tin tưởng trọn vẹn vào Chúa. Một người giữ đạo tốt bấy lâu nay, thế mà trong cơn hoạn nạn cũng không đứng vững trong đức tin, để còn chạy theo những giải pháp mê tín dị đoan như vậy, chứng tỏ cái cám dỗ mê tín dị đoan nó mạnh đến chừng nào!

Vậy, để chúng ta có thêm sức chống lại cái cám dỗ đó, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ một vài điểm:

Thứ nhất: hãy tưởng tượng mình là Chúa đi. Rồi có một giáo dân nào đó đến cầu xin với ta một ơn gì đó. Ta chưa ban ơn thì người đó đã chạy đi cầu xin với một ông thần khác, cầu xin với ma quỉ, với thầy bói thầy bùa. Thì ta nghĩ làm sao? Đương nhiên là Chúa phải nghĩ rằng người này không tin Chúa, hay có tin thì cũng không tin bằng tin các thầy bói thầy bùa. Nếu tôi là Chúa thì chẳng bao giờ tôi ban ơn cho một kẻ đến cầu xin với tôi mà không tin tôi như vậy. Hãy bỏ mọi thứ mê tín dị đoan đó đi, hãy dứt khoát với các thầy bùa thầy ngãi đi rồi đến cầu xin với Chúa thì mới mong được Chúa ban ơn. Đừng bắt cá hai tay, rốt cuộc tay nào cũng không bắt được cá. Chúa đã từng nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà.

Điểm thứ hai: chúng ta cũng phải nhận thức rằng tuy trong lúc bệnh tật, gian nan chúng ta lo âu thật, nhưng bệnh tật, gian nan, đau khổ là chuyện dĩ nhiên và đương nhiên phải có trong cuộc sống ở thế gian này. Chỉ khi nào ở thiên đàng thì mới hết những thứ đó, còn bao lâu còn ở thế gian thì phải gặp những thứ ấy. Có thể nói chính Chúa để cho cuộc sống ở trần gian có những thứ ấy. Để làm chi? Để nhắc chúng ta biết rằng thế gian chỉ là tạm bợ, là bất toàn; thiên đàng mới là quê hương vĩnh viễn, là nơi hạnh phúc hoàn toàn. Cho nên mặc dù chúng ta phải cố gắng hết sức để thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi bệnh tật, thoát khỏi tai ương… Nhưng phải ý thức rằng sẽ không thoát khỏi hoàn toàn được đâu, vì mình vẫn còn sống ở thế gian. Phải có đức tin để ý thức được điều đó. Một linh mục kia đã khuyên một người đau khổ như sau: “Khi chúng ta đến than thở với Chúa về một thánh giá ta đang gánh vác, thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa không phải là cất thánh giá đó đi, nhưng là ban thêm sức cho ta có thể vác nổi thánh giá đó”.

Qua bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy rằng Đức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, vì thế Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ. Nhưng trong lần này, Chúa đã làm phép lạ xa khỏi cặp mắt của đám đông, làm phép lạ xong còn cấm người ta không được kể lại phép lạ đó. Ay là vì Chúa không muốn những phép lạ làm cho người ta sai lạc về đức tin. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin thật chứ không phải vì được hưởng những chuyện lạ thường, Chúa không muốn người ta theo Chúa vì mê tín dị đoan hay vì hiếu kỳ hoặc vì lợi lộc vật chất.

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ