Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 40

Tổng truy cập: 1370243

THÁCH ĐỐ LỚN NHẤT

Thách đố lớn nhất

(Suy niệm của Như Hạ, OP)

 

Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Ðức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.

NGUỒN SỐNG

Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Ðức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. “Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: ‘Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!

Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6:68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, “Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Ðến với Ðức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Ðức Giêsu và nhất là trong Bí tích Thánh Thể.

Ðức Giêsu hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Ðức Giêsu. Nói khác, “thịt và máu” chỉ hiện diện một cách bí tích trong “bánh hằng sống”. Ðây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Ðức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. “Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống.” (2 Cr 3:6)

Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Ðức Kitô, thì không thuộc về Ðức Kitô.” (Rm 8:9) Ðó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Ðức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Ðức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.

Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa.” (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Ðã đến lúc họ phải dứt khoát. Ông Giôsuê “đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)” (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Ðất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.

NHỮNG SỰ KIỆN TRÁI NGƯỢC

Các môn đệ Ðức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Ðức Giêsu đòi hỏi phải tin “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi…” (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, “nhiều môn đệ rút lui.” (Ga 6:66) Ðức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?

Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Ðức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Ðức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Ðức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Ðể chuẩn bị cho ngày Ðại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Ðại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Ðức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.

Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Ðại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!

 

 

 

 

 

46. Quyết bước theo Chúa

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

 

DẪN NHẬP

Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử toạ Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm, không thể chấp nhận được. Thậm chí cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe được”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.

Sau thất bại tàn tệ đó, Đức Giêsu quay sang nhóm Mười Hai, là những người thân tín nhất, xem họ có thái độ thế nào? Rất may, ông Phêrô đã thay mặt cho nhóm Mười Hai thưa ngay với Ngài rằng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Như vậy, các Tông đồ đã tin vào lời Chúa và quyết tâm theo Ngài.

Ngày nay, trước mầu nhiệm Thánh Thể, vẫn còn có những người có thái độ như dân Do thái và một số môn đệ xưa: họ không tin nhận phép Thánh Thể vì họ cho là một việc phi lý, một sự bầy đặt. Còn chúng ta, chúng ta hãy học theo gương thánh Phêrô và các Tông đồ mà tuyên xưng đức tin và quyết tâm theo Chúa đến cùng, mặc dầu việc tin theo đó đòi hỏi nơi chúng ta nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Gs 24,1-18.

Sau khi ông Maisen qua đời, ông Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo dân chúng và đưa họ vào Đất Hứa. Sau khi chinh phục được Đất Hứa và chia phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuê tập họp dân chúng lại tại Sikem và đòi họ phải tuyên bố dứt khoát lập trường: tin theo Đức Chúa và trung thành với Giáo ước của Ngài hay tin theo các thần của dân ngoại ở Babylon hay các thần của xứ sở mà họ vừa chiếm cứ?

Toàn dân dứt khoát và đồng bộ chọn Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Từ nay họ sẽ trở thành dân riêng của Đức Chúa, trung thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài; và từ nay sự hiệp nhất sẽ phát xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.

+ Bài đọc 2: Ep 5,21-32.

Bài đọc hai chỉ là đề tài phụ nhưng nói lên mối dây chặt chẽ giữa các tín hữu với Chúa Kitô. Chắc chắn thánh Phaolô biết đề tài Kinh Thánh về lễ cưới giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và một cách tự nhiên, ngài nói sang hôn lễ giữa Đức Kitô và Hội thánh để nhấn mạnh rằng chính nơi Đức Kitô mà tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài đã đến mức viên mãn.

Theo đó, giáo huấn của thánh Phaolô về đạo vợ chồng có 2 điểm:

a) Vợ phải phục tùng chồng như Hội thánh tùng phục Đức Kitô.

b) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô thương yêu Hội thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.

Kiểu nói của thánh Tông đồ Dân ngoại có thể gây ngỡ ngàng cho người nghe, nhưng sẽ không gây khó chịu và có thể chấp nhận được khi qui chiếu về Tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh.

+ Bài Tin mừng: Ga 6,60-69.

Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống với lời khẳng định quyết liệt của Đức Giêsu: “Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55), sự cứng lòng tin của người Do thái lây sang cả nhóm các môn đệ. Họ cảm thấy chướng tai vì những lời quá táo bạo, đảo lộn hết cả mọi quan niệm của họ từ trước đến giờ.

Bị đặt trước giờ phút phải lựa chọn: tin hay không tin, theo hay rời bỏ? Nhiều người Do thái không tin và cùng với một số môn đệ cũng rời bỏ Ngài. Nhưng Đức Giêsu không rút lại điều gì trong lời khẳng định của Ngài.

Nhưng một câu hỏi được đặt ra một cách đột ngột cho các Tông đồ: “Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao” (Ga 6,67)? Thánh Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin một cách tuyệt vời: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Bỏ Ngài con biết theo ai?

Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.

CÂU CHUYỆN LỰA CHỌN.

1. Dân Do thái chọn Thiên Chúa.

Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết: vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông nói với họ: “Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không? Lịch sử dân Do thái đã trả lời cho câu trả lời này.

2. Lựa chọn và tin theo Đức Giêsu.

a) Thái độ của dân Do thái.

Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy các thính giả có những phản ứng như sau:

– Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với Ngài: “Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông? Ông làm gì nào” (Ga 6,30).

– Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài: “Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy” (Ga 6,34).

– Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca: “Ông ấy lại không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết! Làm sao bây giờ ông ấy dám nói: Ta từ trời xuống” (Ga 6,40-42)?

– Khi Ngài phán: “Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này người Do thái mới la lối rùm beng lên: “Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn thịt mình được” (Ga 6,52).

Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).

b) Thái độ của các môn đệ.

Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi” (Ga 6,60)? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài: “Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa” (Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.

c) Thái độ của Nhóm Mười Hai.

Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào trước câu hỏi của Đức Giêsu: “Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” (Ga 6,70).

Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.

LỰA CHỌN VÀ TIN THEO.

1. Nói về sự lựa chọn.

Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.

Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc. Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.

Truyện: thần Hercule.

Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói:

– Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.

Người thứ hai nói:

– Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.

Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.

Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều. Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy:

Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,

Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là?

– Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,

Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.

Chúng ta chọn Đức Giêsu.

Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.

Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên: “Không ai có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24).

Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !

Vị thần đó là ai?

Đó là Đức Giêsu Kitô.

Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Đây là một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.

Chúng ta tin theo Đức Giêsu.

Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa chúng ta phải có đức tin. Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết gia Blaise Pascal: “Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu nguyện”.

Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận” để “tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.

Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này.

Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm: “Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.

TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.

Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng không? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các việc của của chúng.

Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.

Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ:

Một nhà hai chủ không hoà,

Hai vua một nuớc ắt là không yên.

Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2: “Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,… ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo…, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.

Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một nghịch ly vì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát? Người ta thuật lại câu chuyện của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng: “Ta cho các ngươi sự đói khát, lạnh lẽo, thương tích và chết trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy theo ta”. Kết quả: chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.

Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại tướng ấy? Có kỳ lạ không? Có vô lý không? Có điên khùng không? Và chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu: “Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được” (Mt 10,39)?

Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau:

“Bỏ Ngài con biết theo ai”

– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.

– Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.

– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông.

– Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu?

– Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.

– Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.

Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.

Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)

Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như một sự điên rồ, nhưng như thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói đúng: “Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !

Truyện: vua Charles V.

Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói:

– Con chọn cái nào?

Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

Vua cha hỏi:

– Sao con lại chọn thanh kiếm?

Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:

– Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

Chúng ta đã quen với khẩu hiệu: “Per crucem ad lucem”: qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ thanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên

Xả thân nếu muốn theo Thầy,

Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo. (Mt 16,24)

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ