Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1364380

THÂN CHA PHẬN CON

THÂN CHA PHẬN CON

 

(Suy niệm của Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)

Hôm nay Chúa dạy về cầu nguyện. Nhưng ta không khai triển đề tài cầu nguyện, mà triển khai một góc nhỏ, nhưng là đỉnh lớn của nội dung lời nguyện. Chúa dạy cầu nguyện. Và cầu nguyên bằng kinh Lạy Cha. Ta chỉ dừng lại tiếng xưng hô “Lạy Cha” đó mà thôi.

I. Phận con

1. Chúng ta không phải là anh em mồ côi.

Câu chúng ta thường nghe “tứ hải giai huynh đệ”: khắp bốn bể đều là anh em, câu này thoạt tưởng là hay, nhưng suy nghĩ lại, lại thiếu một yếu tố quan trọng. Tất cả là anh em, nhưng lại là anh em … mồ côi, vì không có cha. Quan là “dân chi phụ mẫu,” thì quan đó cũng chỉ là cha mẹ của một góc nhỏ dân: dân Tàu, dân Việt… chứ bốn bể làm gì có ông quan nào làm chủ được để gọi là mẹ là cha. Còn suy ra từ kinh Lạy Cha, thì chúng ta là anh em, và không mồ côi vì có chung một Cha trên trời. Anh cũng đọc Lạy Cha, tôi cũng đọc lạy Cha, chị cũng xướng Lạy Cha… và là một Cha thôi, nên tất cả trở thành anh em. Tứ hải giai huynh đệ nhi đồng nhất phụ. Để có thể bao phủ cả bốn bể, chỉ có bầu trời. Để có thể làm cha anh em trong bốn bể chỉ có Ông Trời. Và chính Ông Trời này là Cha của chúng ta. Lạy Cha, Đấng ngự trên Trời.

2. Ai cho ta quyền này: gọi Ông Trời, Chúa Trời là Cha chúng ta. Hẳn ai cũng trả lời được. Chính Chúa Giêsu. Không có Ngài chẳng ai dám gọi Chúa Trời là Cha.

Trong Thánh lễ, trước kinh Lạy Cha, chúng ta nghe lời dẫn thế nào? Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo Lời Người dạy, chúng ta dám (cả dám, cả gan, gan cùng mình) nguyện rằng. Một chỗ khác Chúa nói rõ, “Thầy đi về cùng Cha của Thầy và cũng là Cha của anh em.” Không phải Cha của Thầy khác Cha chúng ta, mà Chúa Giêsu và chúng ta có chung một Cha, nên ta là anh em với nhau, và là em (dẫu bảy tám mươi tuổi, dẫu sinh ra trước khi Đức Giêsu xuống thế làm người, thời ông Bành Tổ cổ lai) tất cả đều là em của Đức Giêsu. Ngài là Trưởng Tử, của một đàn em đông đúc (Rm 8,29: “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”).

Và Chúa Giêsu chỉ cho ta quyền này thông qua Chúa Thánh Thần. Chính nhờ nước và Thánh Thần, tức Phép Thánh Tẩy, mà Thánh Thần, tức vị thần thánh hoá, biến ta thành thánh, để ta dám, cả dám cùng với Thánh Thần trong ta, kêu lên abba, Cha ơi Cha. (Gl 4,6: Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!")

Vậy mà chúng ta có thấy chói tai và mâu thuẫn không, khi vào xưng tội, có linh mục nói cách rất tự nhiên: để “đền tội”, con hãy đọc 3 kinh Lạy Cha. Làm như đọc Kinh Lạy Cha là một hình phạt, như để đền tội phá trong lớp, hãy quì gối trên vỏ sầu riêng một giờ!

Đọc Kinh Lạy Cha, được kêu Cha ơi Cha là một ân phúc, đâu phải ai muốn cũng được. Phải những kẻ đã được tái sinh trong Phép Rửa bằng nước và Thánh Thần.

Thời nguyên thuỷ Kitô giáo, và nay khi Công Đồng muốn trở về nguồn để chia thành nhiều giai đoạn khi cử hành bí tích thánh tẩy, thì, dự tòng chỉ được trao kinh Lạy Cha cuối cùng (Kinh Tin Kính được trao trong giai đoạn trước), ngay trước khi lãnh nhận Phép Rửa, để khi được thánh tẩy xong là trở thành em Chúa Giêsu, thành con Chúa Cha, để vinh hạnh đọc kinh Lạy Cha, gọi Chúa Trời là Cha ơi Cha.

Trong một lớp học về phụng vụ khi còn ở Chicago, tôi có nêu lên lưu ý này: tại sao lại nói: để đền tội, hãy đọc kinh Lạy Cha. Cả lớp thấy có lý và cuối giờ ông thầy vẫn còn tâm đắc cho nên nói với cả lớp lúc đứng dậy đọc kinh kết thúc: for penalty say Glory to the Father (one time).

Chị thánh Têrêxa chẳng bao giờ đọc hết câu đầu của kinh Lạy Cha chứ đừng nói là hết cả kinh. Bởi vì mới đọc được hai chữ Lạy Cha, mà tiếng ngoại quốc thì có thể hiểu thân mật hơn: cha ơi, Bố ơi, Ba ơi… là chị không đọc thêm được nữa, vì nghĩ mình là ai. Nhỏ bé, thấp hèn, tội lỗi, mà được phép gọi Chúa Tể đất trời là Ba ơi, không thể hiểu nổi. Chị ngất ngây với tiếng kêu Cha ơi, mà không thể đọc thêm được danh Cha cả sáng nước Cha trị đến gì nữa…

Các chị nữ và các bà mẹ đừng buồn, khi thấy Chúa chỉ được gọi là Cha. Vậy ngài không là Mẹ hay sao?

Trong khoá họp THĐGM về gia đình ở Roma, tháng 10-1980, ĐGM Nguyễn văn Hoà có phát biểu: khi chúng ta gọi Chúa là Cha, chúng ta mới gọi được 50% phẩm tính, danh xưng của Chúa. Sau buổi họp, một chuyên viên Kinh Thánh, và một chuyên gia về luật đến nói với Đức Cha: ngài nói đúng. Nhưng tiếc thay cho đến nay ta chưa tìm được cách nào để vượt ra khỏi, bởi bản văn Kinh Thánh ghi rõ ràng Abba, Cha ơi Cha (chứ không phải Imma: má à má).

ĐGH Gioan Phaolô II hình như còn đi xa hơn khi vào đầu triều đại của ngài, ngài đã nói: Chúa là Cha, hơn thế nữa, Chúa là Mẹ. Vậy là “hơn thế nữa” có thể Chúa là Mẹ 60, Chúa là Cha 40 (tứ lục)! Ta không lạm bàn thêm vì là vấn đề khá nóng bỏng, nhất là tại các nước phương Tây. Gọi Chúa là She or He.

Vậy là ta cứ phải theo truyền thống gọi Chúa là Cha nhưng vẫn ngầm hiểu “hơn thế nữa Ngài là Mẹ,” bởi lẽ để diễn tả tình yêu (chứ không phải uy quyền) thì lòng Mẹ vẫn là biểu tượng vượt trội hơn ý chí của Cha.

II. Thân Cha

Nếu Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, thì ta cũng có thể nhìn vào ta mà suy ra Chúa.

Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sư: “lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi: Bố ơi, tôi bủn rủn cả chân tay, một luồng điện cực mạnh chạy khắp cơ thể, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng.” Quả thật. Gọi ai là cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ cha, ta nhận được món quà tặng quý giá nhất đó là sự sống.

Tôi có một anh bạn, cùng lớp thời chủng viện, nay anh làm bố đời, tôi làm cha đạo. Anh ở vùng quê Cái Sắn, nhiều nắng lắm sương vất vả nuôi nấng gia đình. Anh nói, “mỗi ngày đi làm ruộng về, mệt muốn chết, nhưng khi về đến nhà nghe đứa nhỏ kêu lên: ba về, bố về… thấy mệt mỏi chạy mất tiêu.”

Vậy khi ta gọi Chúa là “Cha ơi Cha,” ta đã suy xét trong phần I rằng đó là một ân phúc lớn lao, không sao cảm tạ, thì trong phần II này, ta thử “chơi cha” một chút, khi ta gọi Chúa là Cha, Chúa có sung sướng quên đi mệt mỏi, xúc phạm của ta như hai bố đời, bố trần gian trên đây tâm sự không? Có được phép áp dụng tâm trạng của bố dưới trần cho Cha trên trời không? Hẳn là được. Vì ta được tạo dựng giông giống như Chúa mà.

Bởi đó khi cầu nguyện, xin ơn gì, chỉ cần kêu ba ơi ba là Cha trời sẽ “bủn rủn tay chân, sẽ quên hết lỗi lầm của ta, mà ban cho ta hết ơn này đến ơn kia.” Chính bài Tin Mừng đoạn cuối cho ta biết điều này “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người?"

Không cần nói gì nhiều, Cha trên trời cũng ban ơn dư dật.

Để minh hoạ cho điều này có rất nhiều mẫu gương. Chuyện kể cũng nhiều mà tiểu sử thánh nhân cũng không thiếu. Nên chỉ nhắc đến một, mà là một chuyện:

Số là chàng tu sinh kia đi sớm, quên mang sách kinh để cầu nguyện. Thế là chàng nảy ra lời nguyện này: “Cha ơi, con quên sách rồi, bây giờ con đọc cho Cha 24 mẫu tự, ba lần. Cha muốn ghép (giống chương trình “chiếc nón kì diệu”) chữ nào vào ô nào cho đúng cho đẹp ý Cha thì Cha cứ ghép."

Chúa Cha trên trời phán với triều thần: từ trước tới nay Ta chưa hề nghe được lời cầu nguyện nào hay như thế.

Hay ở chỗ phó thác hết cho Cha, cho bố. Bố muốn làm gì bố làm.

Ta đang sống trong Năm Đức Tin. Sống đức tin là phải truyền bá đức tin, tức làm cho nhiều người nhận biết và tin Chúa là Cha (Chúng con nguyện danh Cha cả sáng). Chúa thì nhiều người cũng nhận biết rồi, nhưng đây là: Chúa là Cha, ba ơi ba. Rồi từ nhận biết và tin, họ sẽ gia nhập vào gia đình Cha (Nước Cha trị đến).

Nhưng trước tiên, bản thân ta hãy sống cho đẹp tình Cha con. Kêu Chúa thật thân tình “Ba ơi Ba,” chắc Chúa sẽ bủn rủn tay chân và sung sướng vì tiếng gọi phó thác của ta. Amen.

 

39.Thờ phụng là nhìn nhận sự thật - Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đức Giêsu đem một sứ điệp đến cho chúng ta. Trọng tâm sứ điệp là giáo huấn của Người về Thiên Chúa. Không ai biết được Thiên Chúa ngoại trừ Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô cùng, chi phối mọi khởi sự cũng như mọi cùng tận, là Chúa tể tối cao điều khiển mọi vận mạng, không ai biết được Thiên Chúa nếu chính Thiên Chúa không mặc khải cho. “Không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22). Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết về danh thánh Thiên Chúa và cách nói với Thiên Chúa. Các môn đệ hỏi Chúa phải cầu nguyện thế nào. Các ông được Chúa dạy cho Kinh Lạy Cha. Bài đọc hôm nay chỉ dẫn đầy đủ về giá trị kinh nguyện phải có. Lời cầu xin phải bày tỏ lòng tin tưởng thiết tha trong bầu khí thân thiết, hiếu thảo. Thân mật, nhưng phải có thái độ thờ phụng từ trong thâm tâm biểu lộ ra ngoài, điều ấy cần được chúng ta nhấn mạnh. Khi cầu nguyện, Kitô hữu trước hết ước nguyện: “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”. Vậy thờ phụng cách hiếu thảo là gì?

1) Cầu nguyện, trước hết là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.

2) Sự thờ phụng của Kitô hữu đậm tình hiếu thảo vì lẽ, nhờ lời giảng dạy của Đức Kitô, Kitô hữu biết rằng Thiên Chúa là Cha. Sở dĩ tâm tình chúng ta thành thật và trong sạch vì giữ được thực chất của nguồn mạch. Phân tích tới cùng, chúng ta thấy nguồn mạch là Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, Cha chúng ta. Đọc lên câu “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”, chúng ta ý thức, thừa nhận, tuyên xưng Thiên Chúa là sự Tuyệt Đối, đồng thời là Cha mình. Tâm tình ấy phù hợp với sự thật sâu sắc dâng lên trong tâm hồn như một ngọn suối, do chính Đức Giêsu khởi lên. Khi chúng ta thốt ra tiếng “Lạy Cha”, chúng ta phát ra một lời nói tự do và hiếu thảo biểu lộ sự thật tha thiết nhất trong chúng ta. Chúng ta biểu lộ con người đích thật của mình khi thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Ai cũng biết, chính sự thật đem lại ơn cứu độ…

 

40.Suy niệm của Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)

VỚI CHÚA GIÊSU CHÚNG TA CẦU NGUYỆN “LẠY CHA” – “ABBA”

Lời cầu nguyện của Chúa “Kinh Lạy Cha” là một lời nguyện riêng nổi bật trong khi dâng Thánh Lễ. Một nguyên nhân của việc đó là chúng ta hãy cám ơn những sự thay đổi đã diễn ra trong Công đồng Vatican II, đó là tất cả chúng ta có thể nói hoặc hát lời linh này bằng chính ngôn ngữ của mình. (Thật là khó để nhận ra trước đây được gọi là Thánh Lễ theo Công đồng Tridentino, chỉ một mình linh mục được đọc lời nguyện này và ngài đã đọc nói bằng tiếng Latin; không một người nào được phép đọc chung với vị linh mục). Mọi người dâng lời kinh này khi đứng đôi khi họ dang tay, thỉnh thoảng họ hướng mắt lên trời, đôi khi họ nắm tay với những người lân cận, nhưng luôn luôn có vẻ như là lời kinh này có một sự chú ý đặc biệt.

Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Phúc Âm Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu (6,9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Phúc Âm được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.

Tất cả những điều này dẫn đến một kết luận quan trọng. Cái điều mới và đặc biệt trong lời kinh nguyện này thì không phải là bản tính hoặc là số lời cầu xin trong kinh nguyện. Sau hết, người Do Thái thường cầu nguyện rằng, danh của Thiên Chúa phải được thần thánh hoá và ý muốn Ngài phải được thực hiện. Thánh Vịnh 51 từ Cựu Ước là một lời kinh nguyện nồng nhiệt và hùng biện về sự tha thứ đã không “thấm tháp gì” kinh nguyện tha thứ trong kinh Lạy Cha.

Điều đặc biệt của kinh nguyện là cung cách độc nhất mà Chúa Giêsu đã diễn tả về Thiên Chúa. Ngài đã kêu lên Chúa, Đấng quyền năng, Đấng Sáng Tạo nên trời và đất, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết như là “Cha” không chính xác như là “Cha” nhưng là “Abba” cha ơi, chữ này có nghĩa thân mật hơn như là “papa” hoặc “Daddy”, đó chính là cách mà các trẻ nhỏ gọi cha của mình với một tình yêu thân mật và sự quen thân trong sáng, khi muốn nói với cha của mình. Trong tất cả những lời nói của Chúa Giêsu đã được ghi chép lại trong Phúc Âm thì chắc chắn chữ “Abba” cha ơi là một trong những chữ thánh thiêng nhất.

Hãy suy nghĩ về lời cầu nguyện của Abraham và của Chúa Giêsu khác nhau như thế nào. Abraham, cha của dân tộc được chọn, tổ phụ của chúng ta trong đức tin đã dám đến gần Chúa, nài xin Ngài tha thứ cho dân Sodoma và Gomora. Ông đã không ngại ngùng trả giá với Thiên Chúa. Nhưng ông không dám gọi Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã gọi, ông sẽ không bao giờ dám nói: “Được rồi, Cha ơi, Cha hãy thương tình và đối xử nhẹ nhàng với Sodoma và Gomora”. Không một người nào dám gọi Thiên Chúa là “Abba”, “Daddy” (Cha ơi), như Chúa Giêsu đã làm.

Và tất cả chúng ta đều được mời gọi thật sự, để nói về và gọi Thiên Chúa là “Abba”, người Cha thân yêu của mỗi chúng ta. Lý do mà chúng ta có thể làm như vậy, là Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta một đời sống mới thông hiệp với Đức Kitô. Đó là một gia đình sự sống của Ba Ngôi ân phúc, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận nơi phép rửa, khi mà chúng ta trở nên những chi thể của Giáo Hội, gia đình của Thiên Chúa ở đây trên mặt đất này.

Bất kỳ thái độ hay cử chỉ nào mà chúng ta có trong lời kinh của Chúa nơi Thánh Lễ, thì chúng ta cũng phải biết là chúng ta được hạnh phúc biết bao vì được gọi Thiên Chúa là “Abba” cha ơi, như Chúa Giêsu đã gọi, đó là tên gọi của Người “Abba” Cha ơi.

 

41.Cầu xin hay cầu nguyện?

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo:

“Thưa cô, có phải Chúa đã làm ra những bông hoa nầy không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám ơn Chúa đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế nầy!”

Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn, trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến, như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:

Hai thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như nhà những người nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.

Sau một thời gian, hai thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của thiên thần kia có vẻ như đựng toàn bông gòn.

- “Ông mang gì mà nặng nề thế?”, một thiên thần hỏi. Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:

- “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?”

- “À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ”.

Thì ra, chiếc giỏ thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn. Cũng thế, đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì không mấy khi có người gọi.

Phải, thưa anh chị em, thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng tôn vinh và cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như con cái nói chuyện với cha mẹ. Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa.

Chính Chúa Giêsu khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn. Cũng chính Ngài đã đưa ra một “kinh nghiệm mẫu” mà chúng ta gọi là “Kinh Lạy Cha” – đúng hơn là “Kinh nguyện của Chúa” để cho chúng ta biết phải cầu xin những điều gì và cầu nguyện như thế nào.

Vậy chúng ta phải cầu xin những điều gì?

Nói một cách vắn gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời”.

Ý muốn của Thiên Chúa còn là “cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày”, có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.

Ý muốn của Thiên Chúa còn là chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân chúng ta cũng là kẻ có tội cần được tha thứ. “Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Như vậy, cầu nguyện là đồng hoá ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động để ý muốn của Chúa được thể hiện trên mặt đất nầy: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện, và có những lời cầu xin hết sức vụ lợi, ích kỷ. Chẳng hạn xin cho “trúng tuyển, trúng số, trúng mánh…”. Hoặc chúng ta chỉ nghĩ đến Chúa khi chán nản, thất vọng, để than thở, kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm những nỗi ấm ức trong lòng mình. Còn gì vô lý và sai lầm hơn khi chúng ta cứ coi Thiên Chúa như một “Thần Tài”, như một “thủ kho” để xin Ngài những nhu cầu mà đúng ra, với tự do, khối óc và hai bàn tay Chúa ban cho, chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt yêu thương của Ngài. Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng mà chẳng chịu làm gì cả, thì lời cầu xin đó có khác gì những bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được? Hoặc xin cho mọi người được ấm no hạnh phúc, mà mình cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ để cho những chuyện bất công ấy lan tràn mà không chịu tranh đấu để đòi hỏi công bình, đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hoà bình được? Chính vì thái độ nầy mà nhiều khi tôn giáo bị mang tiếng là mê tín, là thuốc phiện ru ngủ dân chúng!

Vậy, thưa anh chị em, chúng ta phải cầu xin như thế nào?

Nếu phải cầu xin thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn cha chúng ta ở dưới đất vô cùng. Vì người đời mà còn cho bạn bè vay mượn khi bạn bè năn nỉ, khuấy rầy, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương mọi người, con cái, chắc chắn sẽ ban cho ta điều chúng ta cầu xin: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”. Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần thiết, không cung cấp những điều thích hợp khi chúng đã xin. Cha là Cha nhân từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh nguy hại cho con cái. Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”. “Hãy xin thì sẽ được”, nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người, đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa với việc làm trong khả năng Chúa đã ban cho mỗi người.

Cuối cùng, ơn đặc biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho loài người.

Anh chị em thân mến, phụng vụ Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện có hiệu lực. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện theo lời Chúa truyền dạy, chúng ta cầu nguyện nhờ công ơn vô cùng của Chúa Kitô, với Người và trong Người. Xin cho chúng ta biết cầu nguyện và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng ta và của tất cả mọi người.

 

42.Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi…’ - Veritas)

Một giai thoại được kể lại như sau: Một thương gia kia cần một triệu đôla để giải quyết một việc hệ trọng, ông tới nhà thờ cầu nguyện xin cho có được số tiền đó. Tình cờ ông quì ngay cạnh một người đàn ông, người đàn ông này cùng cầu nguyện với những lời nhỏ nhẹ, nhưng ông thương gia kia vẫn nghe biết ông ta đang xin. Ông cầu xin cho có được 100 đôla để trả một món nợ gấp. Vị thương gia liền rút từ ví của mình 100 đôla và đặt vào tay người kia. Quá đỗi vui mừng, người đàn ông đứng lên và ra khỏi nhà thờ ngay tức thì. Vị thương gia giờ đây nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, giờ đây hẳn Ngài không còn phải bị phân tâm nữa, xin hãy lắng nghe con cầu xin”.

Câu chuyện của hai người đàn ông cho chúng ta thấy điều tích cực là dù ở trong tình trạng thang bậc nào trong xã hội họ vẫn chân thành cầu nguyện. Tuy nhiên, cách nào đó họ đã làm nổi bật vấn đề mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới, đó là cách cầu nguyện của người Kitô hữu. Trong cả hai trường hợp, Chúa trở thành hay được coi như là ông chủ một nhà tỷ phú. Phải chăng, đó là lối cầu nguyện và cách nhìn phù hợp của người Kitô hữu chúng ta.

Lời các môn đệ thưa với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”, có thể được hiểu như là một khát vọng chính đáng của biết bao nhiêu người Kitô hữu về cách cầu nguyện. Lời đáp lại của Đức Giêsu cũng có thể được tóm gọn trong một câu như sau: Lời cầu nguyện của người Kitô hữu phải là lời của một người con đối với cha của mình. Ngài nói: “Khi anh em cầu nguyện hãy nói, Lạy Cha… Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt, của lành phương chi Cha anh em ở trên trời…” Chúng ta có thể thấy ngay được rằng, cầu nguyện theo Đức Giêsu là vấn đề giữa người cha và người con. Nói cách khác, cầu nguyện là một vấn đề nội bộ trong gia đình, đặt trên nền tảng của hiểu biết, thông cảm và yêu thương. Đức Giêsu dùng hình ảnh người cha ở đây để tả lại hình ảnh mà người ta thường gán cho Thiên Chúa, một ông chủ hay một ông vua, những người thường được người khác sợ hơn là mến.

Chúng ta có thể coi Thiên Chúa như là Cha và cũng có thể coi Ngài như là Mẹ. Cả hai hình ảnh này đều nói với chúng ta về mối tương quan dựa trên tình thương và huyết thống, chứ không phải quyền lực hay chức vụ.

Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: “Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp”. Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.

Khi nói về cầu nguyện, chúng ta cũng cần nhìn tới về một khía cạnh khác, đó là sự kiên trì, giống như người bạn lúc nửa đêm trong bài Tin Mừng. Con cái chẳng lấy gì chấp nhận câu trả lời không, nếu cha mẹ có trả lời là không thì điều chắc chắn là ngày hôm sau và có thể hôm sau, hôm sau nữa chúng vẫn trở lại với cùng một điều xin.

Đức Giêsu dạy chúng ta, con cái của Thiên Chúa cần phải biết kiên trì trong cầu nguyện. Coi cầu nguyện như là việc giữa cha và con, điều này cũng nhắc cho chúng ta biết cầu nguyện là một hành vi phát xuất từ một mối tương quan. Chúng ta có thể coi việc cầu nguyện tốt hơn, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành những con người tốt hơn của cầu nguyện, khi mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa trở nên thân mật gần gũi hơn như là một mối liên hệ giữa cha và con.

Vậy, nếu anh chị em muốn cải thiện việc cầu nguyện của mình, hãy tập trung vào mối tương quan thân mật giữa cha và con, giữa Thiên Chúa và con cái.

 

43.Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ – McCarthy

Suy Niệm 1. KINH LẠY CHA

Kinh Lạy Cha là kinh đầu tiên và cao trọng nhất trong các kinh nguyện Kitô giáo (Tôi đang nghĩ đến bản kinh của Thánh Mát thêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản của nó bao hàm mọi tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Nó không chỉ nói với chúng ta phải cầu nguyện điều gì mà còn cầu nguyện điều ấy như thế nào.

Tuy nhiên, người ta có xu hướng đọc kinh ấy quá vội vàng và thiếu suy gẫm đến nỗi làm mất ý nghĩa của nó. Đó là một điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách chính xác, Kinh Lạy Cha chứa đựng trong đó, chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo theo tinh thần của của Đức Kitô, bởi vì không chút nghi ngờ đây là cách mà chính Người đã cầu nguyện và đã sống.

Phần đầu tiên đề cập đến Thiên Chúa.

Chúng ta bắt đầu sự hiểu biết hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là Cha. Thiên Chúa là cội nguồn của chúng ta và chúng ta là con cái của Người. Một đôi khi, Người hành động như một người cha, và một đôi khi như một người mẹ.

Kế đó chúng ta ca tụng danh Người. Bằng việc ca tụng danh Người, chúng ta cầu nguyện chính Người.

Chúng ta cầu nguyện cho Nước của Người mau đến – một vương quốc của sự thật và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hoà bình. Chúng ta đóng góp phần mình để làm cho vương quốc của Người thành hiện thực.

Chúng ta cầu nguyện để ý muốn của Người được thực hiện trên mặt đất. “Trên mặt đất” cũng có nghĩa là trong đời sống của chúng ta. Ý muốn của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng là điều dễ làm nhất, nhưng nó luôn luôn là điều tốt nhất.

Phần thứ hai đề cập đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta.

Chúng ta bắt đầu bằng công việc cầu xin lương thực hàng ngày. “Lương thực” thay cho mọi nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, mọi nhu cầu thật cần thiết của chúng ta có đủ cho ngày hôm nay.

Chúng ta cầu xin tha thứ các tội lỗi của chúng ta, và xin ơn có thể tha thứ cho người khác đã phạm tội chống lại chúng ta. Không thể tha thứ cho người khác sẽ không thể nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.

Chúng ta cầu xin không sa chước cám dỗ. Thiên Chúa không đặt sự cám dỗ trong đường lối của chúng ta nhưng cuộc đời làm điều ấy. Và chính chúng ta đôi lúc bước vào cám dỗ với sự đồng tình. Chúng ta xin Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với sự cám dỗ tự ý đến với chúng ta, và tránh xa những cám dỗ mà chính chúng ta chọn lựa.

Sau cùng, chúng ta cầu xin được cứu khỏi mọi sự dữ, cả sự dữ vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta không mong bao giờ gặp sự dữ. Điều mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa là có được ân sủng chiến thắng mọi sự dữ, đặc biệt là sự dữ tinh thần.

Hãy ghi nhận rằng toàn bộ kinh Lạy Cha được diễn tả bằng từ ngữ ở số nhiều. Điều ấy cho thấy chúng ta là một gia đình dưới quyền Thiên Chúa, và do đó không thể có sự cứu chuộc chúng ta độc lập với sự cứu chuộc những người khác.

Suy Niệm 2. KHÔNG TRỪNG PHẠT NGƯỜI VÔ TỘI

Hình ảnh của Abraham mặc cả với Thiên Chúa mặc cả với Thiên Chúa để cứu Xơđôm và Gômora là hình ảnh hấp dẫn. Ý tưởng chúng ta bắt gặp ở đây là Thiên Chúa sẽ không trừng phạt một số đông người tội lỗi nếu đồng thời một số ít người công chính cũng bị trừng phạt. Chúng ta thường có thái độ hoàn toàn trái ngược. Chúng ta rất muốn trừng phạt một số đông người vô tội cùng với một số ít người có tội cũng bị phạt. Hãy lấy một ít ví dụ.

Khi các chính phủ đánh quân du kích, người ta không ngần ngại tiêu diệt cả một ngôi làng gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con. Điều đó đã xảy ra ở Việt Nam, ở Achentina (trong suốt những cuộc chiến tranh được gọi là “chiến tranh bẩn thỉu”) và ở nhiều nơi khác. Các quân du kích cũng không ngần ngại sử dụng chiến thuật tương tự.

Một đôi khi sự việc tương tự có thể xảy ra trong trường học. Thầy giáo ra khỏi lớp một phút. Khi ông trở lại lớp học, ông thấy cái ghế đã bị bẻ gãy. Thuyết phục hoặc đe doạ cũng vô ích, kẻ tội phạm không thú nhận, những học sinh khác không nói tên thủ phạm. Thế là thầy giáo phạt cả lớp. Cả lớp phải ở lại sau giờ học.

Cũng sự việc ấy xảy ra ở nhà. Một vài đồ vật bị ngã đổ vương vãi khi bà mẹ vừa quay lưng đi. Không một ai thú nhận. Vậy tất cả con cái bị trừng phạt. Không được xem tivi buổi tối.

Điều đó có xu hướng trở thành phương thế đầu tiên của chúng ta, và chúng ta coi đó là rất khôn ngoan và công bằng. Nhưng có phải như vậy không? Trừng phạt chín mươi chín người vô tội chỉ vì một người có tội như vậy có đúng không? Dĩ nhiên là không. Điều đó là bất công. Bị trừng phạt vì một điều mà bạn không làm thật là khủng khiếp. Nó để lại trong lòng bạn một cảm giác vô cùng cay đắng.

Dù có vẻ hấp dẫn, đó không phải là một giải pháp của Kitô giáo cũng không phải là một giải pháp nhân bản. Thiên Chúa không bao giờ dùng phương thế đó. Bài đọc 1 nói với chúng ta điều đó. Đức Giêsu cũng dạy chúng ta bài học ấy trong dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng. Người gieo hạt sẽ không nhổ những chùm cỏ lùng vì như thế sẽ làm lúa mì cũng bật rễ.

Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều ác mà không gây thêm điều ác. Người ta phải kháng cự điều ác. Nhưng chúng ta phải làm cách nào để trong quá trình đó, chúng ta không gây ra thêm điều ác. Điều ác không thể bị vượt qua bằng điều ác, mà chỉ bị vượt qua bằng điều thiện.

 

44.Kiên trì, Phó thác – Lm. Thiện Duy

Tuần lễ vừa qua có thể gọi là tuần lễ dành cho giới trẻ vì có nhiều sự kiện liên quan đến các bạn trẻ. Trước hết là Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới diễn ra tại Brazil. Chủ đề Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này do Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chọn: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, cách riêng của những người trẻ. Để có thể “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, Đức nguyên Giáo Hoàng đã viết trong sứ điệp ngày quốc tế Giới Trẻ như sau: “Cha khuyến khích các con hãy kiên trì trong đức tin, tin chắc rằng Đức Kitô hằng ở cạnh bên các con trong mọi cơn gian nan thử thách”.

Tiếp nối vị tiền nhiệm của mình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đương kiêm đã nói lên ý nghĩa của ngày đại hội này trước khi lên đường sang Brazil như sau: “Tất cả mọi người đến Rio muốn nghe tiếng nói của Đức Giêsu, lắng nghe Đức Giêsu” và họ muốn thưa với Chúa rằng “Con phải làm gì cho cuộc đời của con? Đâu là lộ trình cho con?” – Đó là cuộc gặp quan trọng mà Đức Giáo Hoàng muốn người trẻ gặp được ở Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: gặp gỡ Chúa Giêsu. Vì vậy có thể nói “kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu, hầu trở thành nhân chứng cho Chúa” chính là chủ đề nỗi bật trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này.

Còn ngoài xã hội, cách riêng tại Việt Nam, tuần qua những ai quan tâm đến làng giải trí, nhất là nhạc trẻ đều bàng hoàng trước cái chết của chàng ca sĩ Wanbi Tuấn Anh ở tuổi đời 26. Tôi chẳng biết Wanbi Tuấn Anh là ai, cũng chưa từng nghe anh hát, nhưng thấy có nhiều người quan tâm đến sự kiện này nên tôi cũng thử tìm hiểu xem sao. Sau khi tìm hiểu tôi được biết đây là chàng ca sĩ điển trai; dành nhiều giải thưởng âm nhạc, nhất là Làn Sóng Xanh, Zing Me…; là thần tượng của nhiều bạn trẻ, nhất là các bạn nữ; giọng hát trầm ấm như lời tâm sự rót vào tai người nghe. Đặc biệt anh có những bài hát như tiên báo trước số phận của mình. Khởi đầu sự nghiệp ca hát với ca khúc hít “đôi mắt”: “Giờ em nơi phương xa nhiều bỡ ngỡ, giờ còn lại minh bơ vơ, bao nhiêu mộng mơ rồi tan biến đâu ai ngờ. Tình yêu trong anh cho em mãi mãi, để trở về ngồi bên anh, yêu thương còn đây mà đôi mắt kia hao gầy”. Có ai ngờ căn bệnh u não đã làm cho đôi mắt anh “hao gầy” vĩnh viễn. Cách đây hơn một năm, sau khi sang Singapor để giải phẫu, anh biết căn bệnh của mình không thể qua khỏi, nên anh đã sáng tác bài “cám ơn” như trãi tấm lòng: “Dẫu ngày sau đi về đâu nhưng lòng này tôi thầm muốn nói. Tận đáy con tim chân thành vẫn muốn được hát lên: Cám ơn mẹ và ba, cảm ơn một gia đình. Cám ơn người dạy dỗ, cám ơn người sinh thành. Để bây giờ khôn lớn, bước qua bao đắng cay cuộc đời. Cám ơn bạn bè tôi, cám ơn người rất nhiều, vẫn luôn ở bên tôi, dẫu khi tôi khóc tôi vui. Cảm ơn ngày hôm nay, khát khao và hi vọng. Đã cho tôi niềm tin để tôi vững bước tới ngày mai. Cám ơn và cám ơn, vì cuộc sống với bao tiếng cười”. Tôi đã nghẹn lòng khi lần đầu tiên nghe bài hát này, nhất là khi đã biết rõ hoàn cảnh của chàng ca sĩ tài hoa, bạc mệnh này. Trong hoàn cảnh như vậy mà anh vẫn sáng tác và hát lên bài hát: “Cám ơn”.

Anh rất vui vẻ, lạc quan, yêu đời. Anh nói với mẹ, với gia đình và những người thân yêu rằng anh sẽ chiến đấu cho đến cùng để chống chọi với bệnh tật. Những giây phút cuối cùng ở trần gian này, khi biết mình không thể chiến thắng bệnh tật, anh đã nói với mẹ: “Nếu ở trần gian này con không thể hát, sang thế giới bên kia con sẽ hát tiếp”. Tôi muốn nói đến một sự kiên trì, trong sự kiên trì này có sự phó thác. Cứ tha thiết nài xin theo ý mình, nhưng khi ý Trời đã định, Wanbi Tuấn Anh vẫn sẵn sàng vâng theo.

Từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới với sứ điệp kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu hầu trở thành chứng nhân cho Chúa; và câu chuyện của chàng ca sĩ tài hoa bạc mệnh: Wanbi Tuấn Anh kiên trì vật lộn với cơn bệnh, nhưng khi bị khuất phục, anh vẫn vui vẻ bước vào thế giới bên kia để tiếp tục niềm đam mê của mình, chúng ta đi vào phụng vụ lời Chúa hôm nay để xem sứ điệp lời Chúa muốn nói gì với chúng ta?

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

1. Bài Đọc I: St 18, 20 – 32

Đây là cuộc mặc cả giữa Apraham với Thiên Chúa. Khi hai thành phố Xơ đơm và Gômôra tội lỗi quá sức, nói theo kiểu chúng ta bây giờ là “hết thuốc chữa”, Thiên Chúa có ý định giáng phạt hai thành phố này. Nhưng Apraham đã đứng ra để thương lượng với Thiên Chúa, thậm chí có những lúc ông “dạy khôn” Thiên Chúa: “Ngài làm như vậy chắc không được đâu!” (Xh 18, 25a); nói khích Thiên Chúa: Nếu trong thành có người lành mà Chúa tiêu diệt chung với người dữ, thì người ta sẽ nói Thiên Chúa như vậy mà công mình gì?! (x.Xh 18, 25b). Thế là Thiên Chúa đã chịu nhượng bộ Apraham với điều kiện tìm được 50 người công chính. Sau khi suy nghĩ, Apraham đã xin hạ giá: bốn mươi lăm, bốn mươi, ba mươi, hai mươi, cuối cùng là mười người. Thiên Chúa vẫn đồng ý. Tuy nhiên Apraham chỉ dừng lại ở con số 10 mà không dám van xin nữa. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã quyết định thiêu hủy thành Xơ đơm vì không có được 10 người công chính. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng tha cho gia đình ông Lot là cháu của Apraham. Thiên Chúa sẵn sàng thương lượng với con người. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài trong sự đối thoại, thậm chí trả giá nữa. Tuy nhiên, Apraham chưa đủ kiên trì để chạm tới lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là bài học để chúng ta kiên trì gắn bó với Chúa.

2. Tin Mừng: (Lc 11, 1-13)

Tin mừng Luca được khởi sự bằng việc cầu nguyện của người Do Thái tại Đền Thờ và kết thúc bằng việc các môn đệ: “không ngừng chúc tụng Chúa trong Đền Thờ”. Điều đó cho chúng ta thấy mặc khải trong Tin Mừng Luca là mặc khải về việc cầu nguyện kiên trì. Vì vậy mà hôm nay Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài nội dung và thái độ khi cầu nguyện. Nội dung là kinh Lạy Cha. Thái độ là kiên trì.

Để dẫn chứng cho thái độ kiên trì cầu nguyện, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người bạn quấy rầy, nửa đêm lại nhà người ta gõ cửa vay bánh. Nếu không cho vì tình bạn, thì chủ nhà cũng cho vì sự quấy rầy của người này. Qua dụ ngôn đó Chúa Giêsu kết luận con người còn như vậy huống chi là Thiên Chúa. Vì vậy Ngài nói với các môn đệ: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9). Đó là sự kiên trì.

Tuy nhiên, thánh Phaolô nói: “Anh em không có là vì anh em không xịn. Anh em xin mà không được là vì anh em xin không đúng”. Vì vậy xin là chuyện của chúng ta, còn cho hay không là quyền của Thiên Chúa, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Cho nên trong kiên trì phải có sự phó thác. Tôi cứ xin, nhưng Chúa muốn sao tôi chịu vậy.

Cách đây hai tuần, qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, chúng ta biết rằng con đường theo Chúa là con đường yêu thương tha nhân, một tình yêu thương vượt trên mọi lề luật. Chúa Nhật tuần rồi, qua hình ảnh của Maria, chúng ta biết được con đường đó là con đường lắng nghe lời Chúa. Còn hôm nay, con đường đó là con đường cầu nguyện trong thái độ kiên trì nhưng biết phó thác.

II. CẦU NGUYỆN KIÊN TRÌ, PHÓ THÁC

Đức tin là cuộc hành trình đòi hỏi chúng ta phải liên tục lên đường. Thiên Chúa đã nói với Apraham: “Ngươi hãy đi khỏi xứ sở của ngươi và đi đến xứ sở mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Điều đó cho chúng ta thấy nhiệm vụ của con người là đón nhận lời của Thiên Chúa, bước đi trong sự chỉ dạy của Ngài. Vì vậy, đức tin đòi hỏi chúng ta phải biết kiên trì và phó thác.

1. Kiên trì:

Phải kiên trì vì Chúa Giêsu đã nói: “Ai bền đổ đến cùng sẽ được cứu độ”. Giá trị của mọi việc và mọi người là ở chỗ kiên trì đến mức nào. Nếu các môn đệ chỉ nhắm đến những cái trước mắt thì các ông sẽ thất vọng hoàn toàn. Quả thực có những lúc các ông hoàn toàn thất vọng. Đức tin là một cuộc hành trình. Đời sống đạo không phải một sớm một chiều, một khoảng thời gian nào đó do chúng ta chọn lựa, nhưng là cả cuộc đời chúng ta. Mà cuộc đời thì có biết bao thăng trầm, sướng khổ. Có những mảnh đời trầm nhiều hơn thăng, khổ nhiều hơn sướng… Vẫn còn nhiều người, thậm chí là chính chúng ta thường than thở: “Sao mà khổ dữ vậy!” Vẫn còn nhiều người đạo đức thốt lên trong cầu nguyện: “Chúa ơi, Chúa thử thách con đến bao giờ?” Nếu tôi là Chúa, tôi sẽ trả lời: “Tới chết lận con!” Đức Maria, thánh nữ Mônica, cha Phanxicô Trương Bửu Diệp là những mẫu gương cho chúng ta trong sự kiên trì, nhẫn nại.

2. Phó thác:

Tuy nhiên nếu kiên trì mà không có sự phó thác thì chúng ta sẽ trở thành lì lợm, vô cảm, “trơ mặt ra như đá”. Kiên trì trong phó thác là chúng ta không bắt Chúa phải làm theo ý mình, nhưng là sự chấp nhận chúng ta sẽ không được nhậm lời như chúng ta hiểu biết hay mong muốn. Vì vậy khi lời cầu xin không được nhậm lời thì đó cũng là một ân huệ của Chúa, vì Chúa luôn ban cho chúng ta điều mà Ngài thấy là tốt đẹp. Sự phó thác xuất phát từ lòng tin Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài biết những gì cần thiết cho chúng ta.

Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Đức Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:

“Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.

Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không". Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.

Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.

Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.

Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Đàng vì tôi đã tin.

Chúng ta cứ xin những gì mình muốn, nhưng đừng bao giờ muốn theo ý mình. Đó là kiên trì trong phó thác.

 

home Mục lục Lưu trữ